Các phenomenon được phân biệt với cả noumenon lẫn hiện tượng, nhưng những thuật ngữ mà Kant dùng để diễn đạt sự phân biệt được thay đổi một cách triệt để trong suốt sự nghiệp của ông.
Được xuất bản vào năm 1783 ít lâu sau CPR, quyển P đã được Kant dự kiến là 'không phải viết cho học sinh dùng mà là viết cho các giáo viên tương lai dùng'. Cùng với OD, P là lời đáp của Kant đối với làn sóng phê phán đầu tiên đối với triết học phê phán của ông, và giống OD ở một sự luận giải về những chủ đề nền tảng của triết học phê phán.
Khi bàn về tình yêu như một cảm xúc, thì sự bàn luận của ông thường trình bày thiên về khía cạnh sắc dục (erotic), và quan tâm đến việc khép bản năng tính dục vào kỷ luật. Trong CBH, sự trì hoãn quan hệ tình dục là một trong bốn bước, nhờ đó “lý tính” phân biệt con người với con vật...
Thể từ giống trung ở lối hiện tại phân từ của động từ eïnaï: tồn tại (ngôi thứ nhất số ít : eïmi : tôi tồn tại). Dịch sát nghĩa : cái đang tồn tại [l’étant]. Có hai ý nghĩa : a. Tồn tại cá biệt, cái đang hiện hữu. b. hành vi tồn tại, sự kiện tồn tại ; và từ đó : tồn tại nói chung, tức được xét một cách trừu tượng ; cái có thể trở thành, ở Platon : Tồn tại tự mình, Bản chất của Tồn tại, Thực tại khả niệm.
Trong triết học Hy lạp, cái Thiện [hay cái Tốt] là mục đích dành cho mọi người để sống thành công. Nó là nguồn suối của hạnh phúc (eudaïmonia), là cuộc tìm kiếm không ngừng của linh hồn. Nhưng chỉ có bậc hiền nhân mới đạt đến cái Thiện, vì chỉ có vị ấy mới sử dụng lý tính một cách thích hợp.
Mặc dù toàn bộ tác phẩm của Kant có thể được xem là một suy tưởng được mở rộng về lôgíc học, nhưng ông chỉ chịu trách nhiệm về hai công trình minh nhiên dành cho chủ đề này. Một trong các công trình đó, FS, là một đóng góp đầu tay ngắn ngủi cho sự đổi mới một số sự quá đáng của phong cách hoa mỹ (baroque excesses) trong truyền thống Aristoteles.