Triết học nghệ thuật

Về tính hợp mục đích khách quan của tự nhiên

PHÊ PHÁN NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN (MỸ HỌC VÀ MỤC ĐÍCH LUẬN)

Mục lục 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
                                         

 

PHẦN II

PHÊ PHÁN NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN MỤC ĐÍCH LUẬN

 

IMMANUEL KANT (1724-1804)

BÙI VĂN NAM SƠN dịch

 


Immanuel Kant. Phê phán năng lực phán đoán (Mỹ học và Mục đích luận). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà  Nội: Nxb. Tri Thức, 2006, tr. 1-7. | Phiên bản  đăng trên triethoc.edu.vn đã được sự đồng ý của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn.


 

§61

VỀ TÍNH HỢP MỤC ĐÍCH KHÁCH QUAN CỦA TỰ NHIÊN

Dựa theo các nguyên tắc tiên nghiệm, ta có lý do chính đáng để giả định một tính hợp mục đích chủ quan ở trong giới Tự nhiên nơi những quy luật đặc thù của nó nhằm giúp cho năng lực phán đoán của con người hiểu được Tự nhiên và có thể nối kết những kinh nghiệm đặc thù về nó thành một hệ thống. | Điều này có triển vọng là có thể có thật nơi rất nhiều sản phẩm của Tự nhiên như thể chúng được hoàn toàn thiết định dành riêng cho năng lực phán đoán của ta và, do đó, có những hình thức đặc biệt tương ứng với điều ấy, cũng như thông qua tính đa tạp và tính thống nhất của chúng, hầu như là để phục vụ cho việc tăng cường và duy trì các quan năng của tâm thức (tham gia vào việc sử dụng năng lực phán đoán này), và vì thế, ta đã gán cho chúng tên gọi là những hình thức đẹp [xem phần I].

Thế nhưng, bảo rằng những sự vật trong Tự nhiên phục vụ cho nhau với tư cách như là phương tiện với mục đích, và bản thân khả thể của chúng là có thể hiểu được chỉ cần thông qua loại hình tính nhân quả này là đủ, thì ta lại tuyệt nhiên không có căn cứ nào trong ý tưởng chung về giới Tự nhiên như là tổng thể (Inbegriff) những đối tượng của giác quan. Bởi vì, trong trường hợp trước, hình dung về sự vật là cái gì ở bên trong ta, nên hoàn toàn có thể được suy tưởng một cách tiên nghiệm như là thích ứng và hữu dụng đối với quy định hợp mục đích nội tại của các quan năng nhận thức của ta; còn những mục đích vốn không phải là của chúng ta và cũng không thuộc về giới Tự nhiên (chúng ta không hề xem Tự nhiên như là hữu thể có trí tuệ) mà lại có thể hay phải tạo nên một loại tính nhân quả đặc thù, hay chí ít là một tính hợp quy luật hoàn toàn riêng biệt, thì ta tuyệt nhiên không có cơ sở tiên nghiệm nào để giả định như thế được cả. Thêm nữa, bản thân kinh nghiệm cũng không hề chứng minh cho ta thấy về tính hiện thực của nó; vậy ắt trước đó đã phải có một sự “suy diễn tùy tiện” (Vernünftelei) để đẩy bừa khái niệm “mục đích” vào trong bản tính tự nhiên của sự vật chứ không phải rút nó ra từ những đối tượng và nhận thức thường nghiệm về chúng. | Do đó, việc làm này chỉ nhằm làm cho giới Tự nhiên trở thành dễ hiểu dựa theo sự tương tự (Analogie) với cơ sở chủ quan của việc nối kết những biểu tượng của ta hơn là để nhận thức Tự nhiên từ những căn cứ khách quan.

Ngoài ra, tính hợp mục đích khách quan – như là nguyên tắc về khả thể của những sự vật của Tự nhiên – cách rất xa với việc thiết yếu gắn liền với khái niệm về Tự nhiên, khiến chính nó lại là chỗ để người ta thích dựa vào hầu chứng minh tính bất tất của tự nhiên và hình thức của nó. Chẳng hạn, khi ta dẫn ra cấu trúc của một con chim, lỗ hổng trong xương của nó, tình trạng của đôi cánh cho việc bay, tình trạng của cái đuôi cho việc điều khiển v.v..., ta bảo rằng tất cả các điều ấy là có tính bất tất cực độ dựa theo nexus effectivus (nối kết theo nguyên nhân tác động) đơn thuần ở trong Tự nhiên, chứ không cầu cứu đến một loại nhân quả đặc thù, đó là nhân quả dựa theo các mục đích (nexus finalis). | Nói cách khác, giới Tự nhiên, xét như là “cơ chế máy móc” (Mechanismus) đơn thuần, có thể tạo ra những hình thức của nó bằng hàng ngàn cách khác mà vẫn không hề gặp được sự thống nhất nào dựa theo một nguyên tắc như thế [về tính hợp mục đích]. | Vậy, ta chỉ có thể hy vọng tìm được căn cứ mỏng manh cho điều ấy một cách tiên nghiệm là ở bên ngoài khái niệm về Tự nhiên chứ không phải ở bên trong nó.

Dầu vậy, việc phán đoán mục đích luận, chí ít là có tính nghi vấn, vẫn có quyền được tiến hành trong việc nghiên cứu về Tự nhiên, nhưng chỉ để mang Tự nhiên vào dưới những nguyên tắc của việc quan sát và tìm hiểu dựa theo sự tương tự với tính nhân quả của mục đích, chứ tuyệt nhiên không được có tham vọng dựa theo đó để giải thích Tự nhiên. Cho nên, nó [việc phán đoán mục đích luận] thuộc về năng lực phán đoán phản tư chứ không phải thuộc về năng lực phán đoán xác định. Như thế, quan niệm về những sự nối kết và về những hình thức của Tự nhiên theo các mục đích họa chăng là một nguyên tắc bổ sung nhằm đưa những hiện tượng của Tự nhiên vào dưới các quy tắc nơi đâu những định luật về nhân quả dựa theo cơ chế máy móc đơn thuần của Tự nhiên là không đủ. Tức là ta đề ra một nguyên nhân mục đích luận khi ta, đối với một đối tượng, gán tính nhân quả cho một quan niệm về đối tượng như thể nguyên nhân ấy là có thật ở trong Tự nhiên (chứ không phải ở trong ta); hay nói đúng hơn, khi ta hình dung khả thể của đối tượng dựa theo sự tương tự với một tính nhân quả như thế (tính nhân quả mà ta trải nghiệm ở trong ta), do đó, là suy tưởng về Tự nhiên một cách có “kỹ thuật” (technisch) như thể là bằng quan năng riêng biệt [của bản thân Tự nhiên]. | Còn khi ta không gán cho Tự nhiên một phương cách hành động như thế, thì tính nhân quả của nó ắt phải được hình dung như là cơ chế máy móc mù quáng. Ngược lại, nếu ta mang lại cho Tự nhiên những nguyên nhân tác động có tính ý đồ [mục đích], tức là đặt mục đích luận làm nền tảng cho nó, không đơn thuần như một nguyên tắc điều hành (regulativ) cho việc phán đoán về Tự nhiên nhằm có thể suy tưởng về Tự nhiên như là chủ thể trong những định luật đặc thù của nó mà như là một nguyên tắc cấu tạo (konstitutiv) của việc diễn dịch (Ableitung/rút ra) những sản phẩm của Tự nhiên từ những nguyên nhân của chúng thì quan niệm về một mục đích tự nhiên không còn thuộc về năng lực phán đoán phản tư nữa, mà thuộc về năng lực phán đoán xác định. | Nhưng, trong trường hợp đó, thực tế là hoàn toàn không còn thuộc về năng lực phán đoán đúng nghĩa nữa (giống như quan niệm về “tính đẹp” như là tính hợp mục đích chủ quan về hình thức trước đây) mà, với tư cách là một quan niệm thuần lý, nó đưa vào trong khoa học tự nhiên một tính nhân quả mới mẻ. | Tính nhân quả ấy thực ra chỉ do ta vay mượn từ chính bản thân ta, rồi đem gán vào cho những thực thể khác, mặc dù ta không hề mong muốn thừa nhận rằng những thực thể ấy là đồng loại với chúng ta.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt