II. TRIẾT HỌC IONIE (Biện chứng mộc mạc)
TRẦN ĐỨC THẢO (1917-1993)
Trần Đức Thảo. Lịch Sử Tư Tưởng Trước Marx. Nxb. Khoa học xã hội, 1995. Hy Lạp gồm ba bộ phận: 2 bán đảo Péloponese và Thessalie, bộ phận phía Tây Tiểu Á. Phần Tây Tiểu Á là Ionie có các thành thị rất phát triển, nhất là thành phố Milet và Ephèse. Ionie là nơi đầu tiên phát triển triết học và khoa học duy lý trên thế giới (thế kỷ thứ VI tr. CN) tương đối thoát khỏi mê tín. Mục đích: - Chứng minh rằng triết học là khoa học duy lý bắt nguồn từ công trình là sản xuất và đặc biệt là sự phát triển công thương nghiệp. - Dẫn chứng rằng triết học là khoa học phát triển trong một quá trình lịch sử chung của nhân loại, cụ thể là văn hóa Lưỡng Hà - Ai Cập, và phát triển ở đất Hy Lạp do những điều kiện đặc biệt của cuộc đấu tranh giai cấp trong những quý tộc thành thị. Những điều kiện đó đã đẩy mạnh phe dân chủ lên nắm quyền thống trị xã hội. - Dẫn chứng rằng nguồn gốc cơ sở và chân lý thì triết học và khoa học liên quan khăng khít với nhau, căn bản vì triết học có tính chất khoa học và ngược lại. Yêu cầu: Nhằm xây dựng quan điểm chân chính: quan điểm lao động sáng tạo khoa học, quan điểm lớn (quá trình phát triển là do lịch sử và cuộc đấu tranh của nhân dân), quan điểm khoa học triết học (thấy sự liên quan chặt chẽ của triết học và khoa học) . 1 - Điều kiện lịch sử ở thành thị Ionie (thế kỷ VI tr. CN) Vào thế kỷ VII - VI tr. CN, những thành thị của Ionie phát triển nhiều về công thương nghiệp nhờ thực dân (phát triển này xuất hiện từ thế kỷ IX - VIII tr. CN để giải quyết những mâu thuẫn giai cấp của phái quý tộc bán tư sản thống trị các thành thị ấy), đặc biệt những căn cứ thực dân ở Địa Trung Hải và Hắc Hải tại các nước lạc hậu: phát triển thực dân làm phát triển kinh tế tiền tệ, mâu thuẫn giai cấp càng gay go; nông dân bị hai tầng áp bức bóc lột (quí tộc và lái buôn); tiểu thương thành thị bị chủ nô cạnh tranh làm phá sản, đồng thời tư bản chủ nô phát triển mạnh (phong trào chung toàn Hy Lạp) với sự đấu tranh của giai cấp thứ dân do tư bản lãnh đạo; những giá trị tư tưởng, phong tục cựu truyền bị lay chuyển. Tiền tệ thế cho lễ nghi cựu truyền, văn học để lại vài bài thơ nhắc tới sự đảo lộn về tập quán bấy giờ (Théognis than phiền về quí tộc không giữ được truyền thống mà đi kết hôn với tư sản: «người quí tộc không từ lấy gái thường dân nếu cô này mang về nhiều của, mà cũng chả cho cô nương nào từ chối không lấy người thường dân nếu anh này nhiều tiền. Tiền là cái mà người ta quí, tiền làm lẫn lộn nòi giống», Hésiode13: «Đức tính và danh dự đều theo tiền». Alcée14: «Tiền làm ra người») Đứng về mặt tư tưởng, phong trào này đã phát sinh tư tưởng tư sản (chủ nô) đầu tiên bấy giờ có tính chất cách mạng và xây dựng nên triết học, khoa học duy lý, tương đối đánh đổ được các lễ nghi tôn giáo cựu truyền. Đó là phái vật lý Milet: đi tìm thực chất sự vật, do đó xây dựng được khái niệm đầu tiên có tính chất khoa học vật chất. Chủ nghĩa duy vật bắt nguồn từ đấy. [Tăng lữ không có vai trò trong đấu tranh, vì nó là thứ quan tước cũng như vua: bầu lên trong thời gian đấu tranh giai cấp (trong thời kỳ dân chủ). Théognis sáng tạo thể thơ chính trị. Hésiode sáng tạo thể thơ nông vận. Alcée sáng tạo thể thơ trữ tình. [Nông nghiệp đã phần nào kỹ nghệ hóa, nhất là ngành sản xuất ôliu, quan hệ giữa thành thị nông thôn chưa phân biệt rõ ràng. Thành thị không có nghĩa hiện tại mà chỉ là một tỉnh bao gồm cả thị xã và nông thôn.] 2 - Phái vật lý học Milet Gồm có: Thalès, Anaximène và Anaximandre. Thalès: Sống khoảng cuối thế kỷ VII tr. CN và đầu thế kỷ VI tr. CN. Đã tiếp thu những thành tựu khoa học và tư tưởng Lưỡng Hà, tổng kết phát triển một mức cao hơn không cần truyền thống tôn giáo, và đem phổ biến cho Hy Lạp. Thalès có đi thăm Ai Cập, học tập Lưỡng Hà và tiên kiến được một cuộc nhật thực (585 tr. CN), tiên kiến được một vụ được mùa ôliu, viết một tập thiên văn cho người đi bể, Thalès là người đầu tiên được gọi là hiền nhân. Chủ nghĩa của ông có 3 phần: - Lý thuyết về nguyên chất vật thể. - Cách thức biến chuyển của nguyên chất đó, - Xây dựng những định lý kỷ hà đầu tiên. Tất cả vật thể đều do Nước mà ra (nguyên chất của mọi vật thể): thuyết này có nguồn gốc ở Ai Cập (cho rằng lúc đầu có một thứ nước nguyên thủy gọi là noun. Bấy giờ chưa có Trời, Đất, Thần thánh chưa sinh ra, chưa có cái chết mà chỉ có nước nguyên thủy. «Thần Ra xuất phát từ nước noun» - trong kinh thánh lúc đầu tinh thần của Thượng đế nổi trên nước). Thalès phát triển thuyết ấy theo một hướng khoa học: quan niệm nước là vật chất nguyên thủy cấu tạo ra vạn vật theo một quá trình tự nhiên (đọng lại thành đất, bốc lên thành khí thành cây, vũ trụ nổi trên mặt nước; động đất, gió, lửa của mặt trời và các tinh tú cũng do hơi nước bốc lên). Thalès nói: «thế giới có linh hồn và đầy thần linh» Thalès còn có công sáng tạo kỷ hà học (đi từ phép đo diện tích của kỷ hà lên các định lý): hai góc đáy của tam giác cân bằng nhau), các góc đối đỉnh bằng nhau. Những cố gắng của Thalès về kỷ hà lúc thì phổ cập hơn (định lý), lúc thì trực quan hơn (về hình). Chưa có gì chứng tỏ các định lý đó đã được chứng minh một cách khoa học và chính xác như sau này. [- Tư tưởng của phong kiến ở một trình độ cao hơn nô lệ nhưng ít sáng tạo hơn, có thể vì: - Cơ sở tư tưởng nô lệ đã đủ thỏa mãn phong kiến rồi - chỉ cải lương không sáng tạo. - Trong nô lệ, có giai đoạn tư sản lãnh đạo thứ dân nắm chính quyền (dân chủ) - khả năng sáng tạo phong phú hơn. - Khác nhau giữa kỹ thuật đồ sắt và đồ đồng: sắt dễ rèn hơn (Cu (đồng) cần thiếc); sắt cứng hơn, có lợi cho sản xuất; sắt nhiều khoáng sản hơn. - Do đó, với sắt sản xuất trở nên tiến bộ vượt bậc vì nó phổ biến hơn. - Nô lệ: sắt và đồng tồn tại song song. Phong kiến: sắt chiếm ưu thế.] Anaximandre: Sống giữa thế kỷ VI tr. CN, viết: Bàn về tự nhiên (sau thành một tập quán), cho rằng bản chất vạn vật là «vô định». Vô định đó cấu tạo ra các trời và các thế giới theo một số quá trình tự nhiên có tính chất máy móc (định tinh và hành tinh là một bánh xe bằng lửa bị khí bao bọc, nhưng bao khí ấy có những lỗ thủng để ta thấy chúng, lúc lỗ bịt lại sẽ có nhật hay nguyệt thực, mặt trăng tròn khuyết cũng do lỗ này to hay nhỏ. Dù còn ngây thơ nhưng đã dùng kỹ thuật sản xuất để giải thích (bánh xe) . Anaximandre còn phát minh thuyết tiến hóa sinh vật cho rằng vật nguyên thủy sống trong một bao cứng dưới nước, sau lên bộ vỡ ra biến thành động vật và người. Anaximène: Hạ bán thế kỷ VI tr. CN. Vạn vật do khí mà ra, đọng lại thành đất và nước, bốc lên thành hơi. Tóm lại, cả ba triết gia trên đều quan niệm vật chất từ một nguyên chất (nó đã có trong Đông phương nhưng là một nguyên chất thần thánh). Nguyên chất ở đây là một vật chất tự nhiên và cấu tạo sự vật theo một quá trình tự nhiên. Ta thấy tưởng tượng ấy cấu tạo theo một tính chất khoa học, và quá trình tự nhiên mà họ dùng để giải thích là những kinh nghiệm của lao động sản xuất, không còn bị bao bọc trong mê tín như Đông phương mà đã nổi bật tính chất tự nhiên. Khái niệm nguyên chất cũng mang tính chất đó. Yếu tố này do kinh nghiệm sản xuất công nghiệp (cấu tạo mọi sự vật từ một nguyên chất, và hoàn toàn do lao động không phụ thuộc thiên nhiên như sản xuất nông nghiệp). Đến đây, sở dĩ tổng kết đến mức duy vật như thế, vì do từ sản xuất lãnh đạo đã dùng kinh nghiệm sản xuất công nghiệp đánh đổ cơ sở tư tưởng sản xuất nông nghiệp của quí tộc điền trang, xây dựng nên nhân sinh quan, vũ vụ quan có tính chất khoa học - đi sâu vào chi tiết. Trong chi tiết nó có nhiều sai lầm, nhưng trong căn bản đã đạt được tính chất duy vật, tự nhiên, cả một hệ thống chứ không phải những định luật lẻ tẻ. [Văn minh Hy Lạp là đỉnh cao nhất của văn minh chủ nô - kết quả cuộc đấu tranh giữa chủ nô công thương và chủ nô quí tộc. Bọn chủ công thương đại diện cho quyền lợi và dân tự do và phần nào cho nô lệ (ở Sparte, nô lệ vô cùng cực khổ: để làm quen với quân sự, cho thanh niên đi săn nô lệ, và truyền đời này qua đời khác; ở Athènes tương đối đỡ hơn, nhưng chỉ trong giai đoạn đang lên thôi). Ở Tây phương, các giai đoạn lịch sử rất dứt khoát, còn ở Đông phương (Trung Hoa, Ấn Độ) trong phong kiến vẫn còn di tích nô lệ (Việt Nam tới nhà Nguyễn hãy còn)]. Nhưng vì tư bản chỉ là tầng lớp tổ chức lao động chứ không trực tiếp sản xuất, nên quá trình này còn mang nhiều tính chất máy móc chứ không bao gồm hết ý nghĩa chủ quan của lao động (sản xuất là máy móc, nhưng con người sản xuất, tổ chức xã hội), vì không từ lao động mà chỉ tổ chức để bóc lột lao động nên tư sản chỉ thấy mặt máy móc của sản xuất thôi, không thấy mặt nhân sinh. Nên dù đạt được một vài tính chất biện chứng, nhưng nói chung các nhà duy vật cổ này bị hạn chế, mang tính chất máy móc và để nhiều chỗ hở cho duy tâm. Nhưng nó có tính chất tích cực ở chỗ duy vật, và nó dẫn chứng nhân sinh quan và vũ trụ quan duy vật là chân chính của triết học, vì nó bắt nguồn từ lao động. Nếu chúng ta tách rời khoa học với lao động, sẽ không hiểu ý nghĩa chân chính của nó, và kìm hãm không phát triển nó lên được - cho nên khoa học xây dựng trên lập trường tư sản vẫn bị hạn chế cho tới gần đây, lúc có một nền khoa học xây dựng trên cơ sở giai cấp vô sản mới đạt được tính chất biện chứng và phát triển nhanh chóng được. [- Tư sản tổ chức lao động chứ không trực tiếp lao động. - Tư sản tổ chức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, do khoa học tự nhiên gần với đời sống lao động hơn hơn nên có phản ảnh phần nào tổ chức sản xuất, chính trị v. v... Vấn đề liên hệ: sau khi phân tích tư tưởng tư sản trong lịch sử tư tưởng, cần liên hệ phân tích tư tưởng tư sản dân tộc Việt Nam. - Engels cho rằng tính chất máy móc trong duy vật của thế kỷ XVII - XVIII ở Anh, Pháp vì trình độ khoa học tự nhiên còn thấp kém và khoa học xã hội chưa có, nhưng tới trình độ khoa học hiện đại đã chan chứa duy vật biện chứng, nhưng một số nhà khoa học chỉ duy vật biện chứng trong công tác khoa học, nhưng lý thuyết của họ vẫn duy tâm hoặc duy vật máy móc – tính chất đó do lập trường tư tưởng. Duy vật máy móc của tư sản ít gạt bỏ con người bị bóc lột, nó vô nhân đạo nên máy móc, nhưng tiến bộ ở chỗ chống quí tộc nên duy lý - phần chân chính liên hệ vấn đề toán, lý, hóa. - Khả năng tạo tác của con người đã bị xuyên tạc và làm cơ sở cho nhiều hình thái tôn giáo, trong đó phần chân chính của nó bị che mờ, chỉ học phái Milet lọc đi phần chân chính đó, nhờ nó là sản phẩm của một thời đại có đấu tranh giai cấp cao độ và thường xuyên] 3 - Héraclite (Ephèse) Danh hiệu là «Héraclite tối nghĩa» - nổi danh vì đưa ra nhiều ý kiến tối nghĩa. Cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ V tr. CN, Ephèse là một thành thị kinh tế phát triển, đặc biệt nhất là hình thức ngân hàng (tư bản tài phiệt quí tộc hóa). Trong thời thịnh trị, bọn này có một vai trò quốc tế, có nhiều quan hệ với nước Lydie, giúp Lydie thống nhất, phát triển công thương nghiệp và quan hệ thương mại quốc tế (Á đông qua Địa Trung Hải) nên mất dân tộc tính, chịu ảnh hưởng bảo hộ phần nào của vua Lydie. Đến thế kỷ VI tr. CN, các thành thị Ephèse bị Ba Tư chiếm. Quý tộc Ephèse bán nước. Héraclite xuất thân quý tộc (dòng vua tôn giáo - một tài liệu nói ông nhường ngôi cho em), nên có tác phong khinh miệt quần chúng nhưng có tư tưởng chống đế quốc. Có một đoạn sử liệu Hy Lạp nói rằng một hôm Ephèse bị Ba Tư bao vây. Dân Ephèse vẫn ăn uống xa xỉ, do đó thiếu thức ăn. Bọn cường hào họp lại giải quyết, không ai dám nói chuyện hạ mức ăn, Héraclite hòa bột đại mạch (orge) uống với nước rồi bỏ đi, mọi người hiểu ý hạ mức ăn. Quân Ba Tư nghe tin ấy biết không hy vọng nên rút lui. [Héraclite thuộc số người bất mãn với quý tộc và phản đế: lúc trước Lydie sau là Ba Tư, vì quyền lợi quý tộc liên hệ với đế quốc nhờ buôn bán quốc tế. Thấy sự tiêu diệt của quý tộc v.v..., có ý niệm về biến đổi, nhưng Hétaclite nói chung không đi vào chi tiết được, thấy được mâu thuẫn nhưng không thấy hướng phát triển (hiện nay giai cấp địa chủ cũng kêu: «Trời đất đổi thay, vạn vật chống đối» Ở Tây phương gần đây, sự «thưởng thức cái lộn xộn» là một tâm trạng phổ biến, đó là một hình thức lãng mạn phổ biến. Địa chủ thấy biến đổi - nông dân sung sướng: «như thế công bằng» - quy luật ở ngoài sự vật, vì không thấy sự xứng đáng vì lao động nông dân? Một thắc mắc: tại sao một người phản động về chính trị lại có thể sáng tạo ra «mệnh đề » duy vật biện chứng đầu tiên? Có lẽ như yếu tố phản đế (bấy giờ những người theo Ba Tư có phần nào thoát ly giai cấp). Héraclite có giá trị ở chỗ làm nổi bật biện chứng tính trong duy vật biện chứng. [Milet: phần duy vật có mấy điểm: vạn vật luôn luôn biến chuyển; vạn vật luôn luôn mâu thuẫn nhưng được xây dựng trong thống nhất; đề cao lý tính] Héraclite cho Thế giới là lửa biến chuyển do quy luật tự nhiên. Ý thức biến chuyển sâu sắc [«Không bao giờ hai lần đi xuôi một con sông»: vì trong đó có mâu thuẫn - «Chúng ta xuôi và không xuôi trên con sông đó»: chúng ta có và không có» - Sự liên kết là thống nhất và không thống nhất, điều hòa và mâu thuẫn, từ mọi sự xuất hiện độc nhất, và từ độc nhất xuất hiện mọi sự, và cần phải thấy rằng chiến tranh là hòa hiệp và công lý là tranh giành, và mọi sự được xây dựng và tiêu diệt do sự tranh giành – «Chiến tranh là cha của mọi sự và vua của mọi sự»: chiến tranh đã làm cho những tên này là thần, tên này là người, tên này là nô lạ, tên này là tự do – «Đại chúng không hiểu rằng cái đấu tranh với mình là hòa hiệp với mình, điều hòa là do ở chỗ căng thẳng đối lập giống như dây đàn hay dây cung» - «Cái mà ai là có ích lợi do ở những điểm đối lập gây ra sự điều hòa đẹp đẽ»: chính sự ốm đau làm cho ta thưởng thức sự mạnh khỏe, cái xấu cho ta thưởng thức cái tốt, cái mệt nhọc làm ta thưởng thức cái nghỉ ngơi – «Cái điều hòa bí mật hay hơn cái điều hòa công khai»]. [Héraclite duy vật: Vạn vật do lửa - không do thần hay người. Lửa biến chuyển cũng như vạn vật biến chuyển theo quy luật bản thân nội tại của nó. Héraclite biện chứng: Vạn vật đều chứa đựng mâu thuẫn nội tại và đều sinh ra do mâu thuẫn thống nhất trong một quá trình biến chuyển. Thiếu sót: không thấy được bản chất 2 yếu tố mâu thuẫn - mâu thuẫn thống nhất không có hướng. Biến chuyển không hướng phát triển] Những biện chứng của Héraclite bị giới hạn, có những thiếu sót căn bản. Nó biến chuyển thuần túy nhưng không có hướng phát triển, mâu thuẫn và thống nhất mâu thuẫn cũng không có hướng, không rõ mâu thuẫn giữa cái gì và cái gì (đối với biện chứng: ưu và khuyết, thống nhất ưu thắng) và thống nhất thế nào. Với chủ nghĩa như thế sẽ không nắm được và không hướng được lịch sử và chỉ có biến chuyển chung chung thì mãi vẫn là luẩn quẩn và mất tính chất mâu thuẫn của nó. Đó là những thiếu sót căn bảncần phân biệt rõ với duy vật biện chứng chân chính (đó là phản ánh tình trạng xã hội bấy giờ nhưng mọi quý tộc đều theo đế quốc - Héraclite phần nào thoát khỏi giai cấp), nên khi quan niệm về biến chuyển Héraclite duy vật, nhưng quan niệm về quy luật biện chứng thì duy tâm. Đức tính là ở một điểm là hiểu biết lý tính. Lý tính này thống trị mọi vật và đi sâu vào mọi vật. Lý tính tồn tại vĩnh viễn thì người ta không hiểu, hình như người ta không có kinh nghiệm rằng mọi sự việc là theo lý tính ấy, tuy rằng người ta đã có kinh nghiệm của những sự việc giống như tôi trình bày, phân tích sự vật theo bản chất và giải thích theo tính cách của nó. Nhưng những người thường lúc làm việc và biết mình làm gì cũng giống như họ quên cái họ đang làm trong giấc mơ. Bản chất người không có Đức tính, nhưng bản chất Thượng đế thì có. «Đối với Thượng đế mọi vật đều tốt đẹp, đúng như người ta quan niệm cái này đẹp cái kia xấu...». [Lý tính (logos) lý tính thống trị vạn vật. Người không nhận thức được lý lính dù vẫn làm theo lý tính].”
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC