TƯ TƯỞNG HAY TRIẾT HỌC VÀ NỘI DUNG THỰC TIỄN CỦA CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ ĐÓ TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU Ý THỨC HỆ VIỆT NAM
TRẦN ĐÌNH HƯỢU (1927-1995)
Chúng tôi đã nghiên cứu bản báo cáo đề dẫn của Viện Triết học. Ý đồ ở đây khá rõ rệt: tìm những đặc điểm của chính đối tượng nghiên cứu mà gọi tên, mà chọn phương pháp tiếp cận, mà tìm tư liệu, mà dựng lên bộ mặt lịch sử của nó. Đó là cách tiếp khoa học nhưng trong sự ràng buộc của những điều kiện thực tế của ta thì còn gặp nhiều khó khăn. Chưa dựa trên những công trình nghiên cứu chi tiết cụ thể mà xác định đặc điểm thì dễ rơi vào tình trạng đoán chừng, nói theo cảm tưởng, dễ chủ quan. Tư tưởng và triết học ở đây là hai khái niệm dùng để phân biệt, phân loại đối tượng nghiên cứu, từ đó lựa chọn phương pháp nghiên cứu, nhưng theo định nghĩa ở đầu bản đề dẫn thì lại rất gần nhau, khó phân biệt. Theo chúng tôi hiểu, cuộc họp lần này nhằm mục đích thiết thực giải quyết những vấn đề cụ thể để xúc tiến việc biên soạn bộ sách Lịch sử tư tưởng (hay triết học) Việt Nam, thảo luận càng cụ thể càng có ích. Đã từ lâu, Viện Triết học đã tiến hành những công việc cụ thể. Chúng tôi nghĩ rằng nếu Viện trình bày những kết quả, những vướng mắc cụ thể thì việc thảo luận có thể thiết thực hơn, đẩy công tác đi nhanh hơn. Phát biểu của chúng tôi về vấn đề triết học hay tư tưởng, khi chưa biết rõ những công trình mà Viện đang làm, hiển nhiên là khó thiết thực. Chúng tôi muốn chỉ bàn một số mặt có nội dung thực tiễn để định hướng việc tiếp cận đối tượng và giải quyết một số cụ thể, không có tham vọng tìm những định nghĩa khoa học cho hai khái niệm đó. I Việt Nam là một nước có nền văn hiến lâu đời: đời sống tinh thần phong phú và có sắc thái riêng, không chỉ là so sánh với các nước xa cách về mặt địa lí mà với cả các nước láng giềng. Tuy sử học chưa phải đã giải quyết xong xuôi về mặt lí luận nhưng hiện tượng thì vẫn là hiển nhiên: dân tộc Việt Nam hình thành sớm, sớm hơn nhiều trước thời cận đại. Trên đất nước thống nhât đó, người Việt Nam đã có cách ứng xử các quan hệ xã hội, đối phó với hoàn cảnh đấu tranh xã hội, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Đặc điểm xã hội và lịch sử đã làm hình thành ở họ một bản lĩnh vững chắc, chi phối cảm xúc, suy nghĩ, làm hình thành một cách sống, một tư duy. Đứng ở ngã ba đường trên thế giới, người Việt Nam đã tiếp cận không ít những cái của kẻ khác nhưng vẫn không bị đồng hóa, vẫn giữ được bản sắc, tồn tại và phát triển… Trong bản lĩnh, cách tư duy đó có ưu điểm và nhược điểm. Tôi không nghĩ đến những ưu điểm như anh hùng bất khuất mà ta nói nhiều trong các cuộc kháng chiến hay cần cù lao động, lạc quan… mà ta nói nhiều trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà muốn nghĩ đến những ưu, nhược điểm chung hơn, sâu hơn trong cách tư duy, trong ý thức. Cuộc sống cộng đồng lâu dài đã cho phép hình thành một ý thức hệ chung, chi phối nhiều mặt mà ta không nên gọi là triết học hay là tư tưởng. Tư tưởng triết học ở từng dân tộc đều hình thành trong lịch sử bằng những con đường khác nhau, từ những truyền thống văn hóa khác nhau, từ những cách hình dung thế giới vào buổi ban đầu khác nhau, nhất là từ những thực tế phát triển khác nhau. Cho nên việc sử dụng hai thuật ngữ đó có những lí do thực tế để chấp nhận sự co dãn, nhất là khái niệm tư tưởng – dùng với ý nghĩa để phân biệt với triết học – lại là khái niệm khó xác định khoa học. Dầu sao thì triết học và tư tưởng cũng không chỉ khác nhau về phạm vi rộng, hẹp mà còn khác nhau về trình độ tư duy, ở mức độ tổng quát, ở mức độ hệ thống, nhất quán, chặt chẽ của nhận thức thế giới. Lựa chọn tên gọi Lịch sử tư tưởng hay Lịch sử triết học và cả Lịch sử tư tưởng triết học nữa – không chỉ tùy thuộc ở đối tượng, cái ta có là triết học hay tư tưởng, theo cách phân biệt khoa học của hai khái niệm đó, mà còn tùy thuộc ở mục đích, ở cái ta đòi hỏi ở cuốn sách. Với cách hiểu của chúng ta thì khái niệm triết học đã có nội dung xác định, nội dung theo định nghĩa kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự phân vân lựa chọn ở đây ngoài chuyện vấn vương vì đối tượng chưa xác định còn có cả cái vấn vương khác: nước Việt Nam đã có 4000 năm văn hiến chẳng lẽ lại không có triết học. Chúng ta muốn có một công trình lịch sử tư tưởng của dân tộc thật sự khoa học, nghĩa là trình bày lịch sử đúng như nó đã tồn tại phát triển. Tính cụ thể lịch sử của nó là điều ta chưa nắm chắc, có quá ít tư liệu trực tiếp. Viết lịch sử tư tưởng một dân tộc như ta định làm lại là công việc mới, khó khăn. Chưa có những công trình nghiên cứu từng bộ phận, chi tiết cụ thể, chúng ta bắt đầu vào việc nhìn những nét chung, tìm những đặc điểm. Xác định trước các đặc điểm như vậy chỉ có thể giúp ta hình dung một mô hình giả định để định hướng, để chọn phương pháp hướng dẫn thái độ, mức độ khi nghiên cứu cụ thể. Có thể hình dung mô hình đó qua những đặc điểm hình thái của đối tượng mà cũng có thể bằng hình dung mô hình đó qua những đặc điểm lịch sử, quá trình hình thành, phát triển của nó. Chúng tôi xin đi từ cách thứ hai đến cách thứ nhất. Lịch sử tư tưởng Việt Nam có hai đoạn hoàn toàn khác nhau: - Từ khi nước ta tiếp xúc với phương Tây, du nhập tư tưởng phương Tây. Đó là thời đại mới. Tư tưởng Việt Nam tiếp cận và hòa dòng vào tư tưởng đồng đại của thế giới. - Đoạn trước đó, khi nước ta còn nằm trong nền văn hóa có tính chất khu vực - khu vực Đông Á và Đông Nam Á - tư tưởng nước ta có những nét chung của tư tưởng cả khu vực đó. Đối với đoạn sau, vấn đề đối tượng và phương pháp nghiên cứu không có gì phải bàn cãi nhiều. Đó là đối tượng và phương pháp thường dùng khi nghiên cứu lịch sử triết học cận hiện đại của các nước. Nhưng với đoạn trước thì công việc phức tạp hơn. Tư tưởng hay triết học ở đâu cũng đặt ra rất nhiều vấn đề nhưng không giống cách đặt vấn đề ở phương Tây, nơi đã cung cấp cơ sở để hình thành phương pháp nghiên cứu hiện đại. Trong một thời gian dài ước tính từ Thế kỷ thứ II sau Công Nguyên cho đến đầu thế kỷ thứ XX, ở nước ta có sự tồn tại song song của Tam giáo, du nhập từ Trung Quốc vào. Tam giáo có thay thế nhau giữ vai trò hàng đầu nhưng thực tế là kết hợp với nhau, thẩm thấu vào nhau, chia phạm vi với nhau, chi phối đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh Tam giáo là sự phát triển của cách suy nghĩ dân gian, có từ trước và để lại dấu vết trong các loại truyện kể, kết tinh trong tục ngữ. Cũng cần nói đến học thuyết Âm dương, Ngũ hành, cách phân tích Thời, Thế... cũng là những tư tưởng du nhập từ Trung Quốc và cũng tồn tại không hoàn toàn độc lập với Nho giáo. Tư tưởng đó ảnh hưởng lớn đến các khoa học, giả khoa học và cả đến cách suy nghĩ, tính toán trong cuộc sống. Tư tưởng Việt Nam không chỉ là cái thổ sản thuần Việt, hay phát triển từ thuần Việt; còn có cả nhiều cái từ ngoài đến, có khi được cải tạo, có khi để nguyên vẹn nhưng đều được sắp xếp theo một cách nào đó hay sử dụng theo cách nào đó. Sự kết hợp phức tạp giữa Nho, Phật, Đạo, giữa Tam giáo với cách suy nghĩ dân gian, giữa những thứ đó với tư tưởng Âm dương, Ngũ hành để tìm cách quan niệm thế giới, quan niệm con người, cuộc sống, quan niệm sự vận động, sự thay đổi, lịch sử... đó mới đúng là cách tư duy Việt Nam. Có tìm ra cách kết hợp, xu thế ưu thắng giữa các thành tố mới tìm ra quy luật của sự lựa chọn, sàng lọc, mới làm sáng tỏ cái bản lĩnh Việt Nam không chỉ là giữ bản sắc của mình mà còn tiếp thu rộng rãi những cái từ ngoài đến để làm bản sắc mình thêm phong phú và vươn lên kịp đỉnh cao đương đại. Mấu chốt của bản lĩnh chi phối sâu xa tư duy Việt Nam là ở đó. Ưu, nhược điểm của bản lĩnh đó là ưu, nhược điểm của tư duy Việt Nam.
II
Tam giáo đều từ Trung Quốc truyền vào nước ta, được truyền bá với sự xâm lược quân sự từ đời Hán, với chính quyền đô hộ hàng ngàn năm và với những lớp người Hán tị loạn sang Giao Châu, mảnh đất lúc ấy yên ổn hơn ở nội địa. Những người Hán, quan lại và không quan lại mang đến đây cả Nho giáo và Đạo giáo (cả Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy). Đối với Phật giáo thì tình hình có khác. Nằm trên con đường biển từ Ấn Độ sang phương Nam và Trung Quốc, vùng ven biển nước ta đã biết đến Phật giáo từ trước. Cuối đời Hán, Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) đã là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh trung tâm Luy Lâu còn ra đời trước cả trung tâm Bắc Thành và Lạc Dương ở Trung quốc, và về đường biển thì Phật giáo từ Việt Nam mà vào Trung Quốc (1). Thế nhưng chính quyền và tầng lớp trí thức thượng lưu thuộc người Hán và mấy thế kỉ sau đó thì Phật giáo ở đây cũng phát triển theo ảnh hưởng phái Thiền tông, một tông phái Phật giáo Hán hóa. Gói hành lí tinh thần mà các nhà trí thức người Hán mang vào Giao Châu khá hỗn tạp. Đó là thứ Nho giáo đã kinh viện hóa, đã dung hợp với tư tưởng Âm dương, Ngũ hành. Đó là thứ tư tưởng Đạo gia đã biến thành tôn giáo, thần tiên và phù thủy. Đó là Phật giáo đã Hán hóa thành phái Thiền tông. Liệu những thứ đó truyền bá được đến mức nào trong đám dân cư vốn giữ nguyên tổ chức công xã với những phong tục, tín ngưỡng của mình. Điều đáng chú ý là Nho giáo tuy vào sớm và chắc chắn được bộ máy thống trị ưu tiên truyền bá – chứng cớ là những điều sử sách ghi chép về sự nghiệp của Nhâm Diên, Tích Quang, Sĩ Nhiếp – thế nhưng trong thực tế thì nó phát triển chậm, chậm so với Phật giáo và Đạo giáo. Mãi đến thế kỉ XI nhà Lý mới dựng Văn Miếu, tổ chức thi cử. Tuy vậy, các vua nhà Lý và cả nhà Trần sau đó vẫn tìm chỗ dựa chính ở Phật giáo. Phải đến sau chiến thắng quân Nguyên, các nhà nho mới len vào được các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ giữa thế kỉ XV, sau chiến thắng quân Minh, Nho giáo mới thành độc tôn, chi phối mọi mặt hoạt động. Thế là từ thế kỉ VII cho đến thế kỉ XIV có ảnh hưởng nhất trong tư tưởng nước ta là Phật giáo Thiền tông (có lúc kết hợp với Mật tông), còn từ thế XV về sau thì là Nho giáo, và là thứ Nho giáo hậu kì. Trong lịch sử Nho giáo Trung Quốc từ Hàn Dũ (768 – 824) đời Đường đến đời Tống (960 – 1279) có một trào lưu khôi phục Nho giáo chống Phật giáo và Đạo giáo – với ý nghĩa là tôn giáo – kết tinh lại thành học thuyết Tống Nho với tên tuổi nổi bật của Trình Di (1033 – 1107) và Chu Hy (1130 – 1200) (2). Về mặt tư tưởng, ở đời Tống, Trình – Chu không phỉ là phái duy nhất cũng không phải là tiến bộ nhất. Nhưng ảnh hưởng của học phái đó ngay từ đời Nguyên (1279 – 1368) ở phương Nam đã rất lớn (3). Đến đời Minh mà nòi giống họ trị vì tự xưng là con cháu Chu Hy thì cách giải thích kinh điển của Chu Hy được coi là chính thống… Năm 1414, Minh Thành Tổ giao cho Hồ Quảng biên soạn Ngũ kinh đại toàn để ban hành trong thiên hạ, và sau đó cũng do Hồ Quảng biên soạn Tính lí đại toàn, trình bày học thuyết Tống Nho (4). Trong lịch sử tư tưởng nước ta, thứ Nho giáo đời Hán, đời Đường chắc cũng có vào, nhưng rõ ràng ảnh hưởng không thể rộng rãi. Còn Tống Nho thì do sự tiếp xúc khá mật thiết của nước ta dưới thời Lý – Trần với phương Nam Trung Quốc, do có sự đô hộ của nhà Minh nên ảnh hưởng nhanh chóng và rộng rãi hơn. Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Năm Kỉ Hợi (1419), mùa xuân, tháng hai. Nhà Minh sai giám sinh Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lí đại toàn, Vi thiện ân chất, Hiếu luận sự thực cho Nho học các phủ. Châu, huyện” (T. Đ. H nhấn mạnh) (5). Đến năm 1435 nhân có phái đoàn sang chúc mừng vua Minh lên ngôi, vua Minh lại “ban sách Tứ thư đại toàn mới in xong” (6). Cũng cần nhắc đến chiếu định khoa thi của Lê Thái Tông năm 1434 và quy định môn thi “kì thứ nhất: một bài thi kinh nghĩa. Tứ thư mỗi sách một bài” (7). Tách hai thiên Trung dung, Đại học trong Lễ kí cho in thành sách, phân chương mục, chú thích và đưa hai quyển đó cùng với Luận ngữ, Mạnh tử làm thành Tứ thư , coi đó là loại kinh điển như Ngũ kinh là việc làm của trình di và Chu Hy. Đến đời Nguyên Nhân Tông (1312 – 1320) thì Tứ thư thành kinh điển dùng để thi cử (8). Ở nước ta năm 1396 cũng bắt đầu “theo phép thi của nhà Nguyên”. Cũng cần nhắc lại thêm là trước đó Chu Văn An (1292 – 1370) đã soạn Tứ thư thuyết ước. Từ đó cho hết thế kỉ XIX, uy tín của Trình – Chu trong việc giải thích kinh điển là tuyệt đối. Nói từ đời Lê, Nho giáo độc tôn không có ý nghĩa là Phật giáo, tư tưởng Đạo gia và Đạo giáo bị phủ định. Về mặt nội dung tư tưởng Tống Nho là một hệ thống dung hợp với Âm dương, Ngũ hành và chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo. Về mặt xã hội hầu như đã thành một sự thỏa thuận ngầm giữa Tam giáo về một sự phân công, phân vùng. Nho giáo giành toàn quyền trong việc chi phối chính quyền, đời sống chính trị, kể cả việc học hành thi cử - với ý nghĩa đào tạo nhân tài cho bộ máy nhà nước. Trong các địa hạt khác như sinh hoạt xã hội, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật… Tam giáo song song tồn tại, hòa bình, ít có khích bác nhau gay gắt. Có những địa hạt, những địa phương Nho giáo không phải là có thế lực nhất. trong một con người – kể cả nhà Nho – về mặt người dân, họ chịu sự chi phối của tư tưởng Nho giáo nhưng về mặt con người, về đạo đức, tín ngưỡng, cách sống nhiều khi họ chịu ảnh hưởng Phật hay Lão – Trang nhiều hơn. Điều cần đặc biệt lưu ý là một khi nước ta giành được quyền tự chủ, thoát khỏi nạn đô hộ của phong kiến Trung Quốc thì các triều đại bản xứ cũng không thể tự do xóa bỏ những tổ chức, thể chế đã hình thành qua hàng ngàn năm Bắc thuộc. Các triều đại Lý, Trần, Lê chắc chắn có tinh thần dân tộc rất cao nhưng khi lên ngôi đều bắt chước cách tổ chức chính quyền, tham khảo luật pháp, nghi lễ, bắt chước tổ chức học hành thi cử theo kiểu Trung Quốc. Với mô hình tổ chức nhà nước và xã hội: nhà nước chuyên chế + làng xã tự trị + tôn tộc thì Nho giáo giúp các triều đại củng cố sự thống trị giai cấp mà cũng giúp nó củng cố sự thống nhất đất nước vào chính quyền trung ương, tăng cường trách nhiệm đối với nhà nước. Nho giáo cũng là công cụ hữu hiệu giữ gìn trật tự ở làng xã và gia đình. Việc phát triển Nho học, đưa nhà nho vào chính quyền thay cho nhà sư và quý tộc, kéo dài từ thế kỉ XIV cho đến thế kỉ XIX, dưới thời độc lập là một xu thế tất yếu. Trong lịch sử nước ta có hiện tượng các phương thức sản xuất không hình thành đầy đủ, không thay thế nhau bằng cách cái sau phủ định cái trước. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy (như ruộng công làng xã, vai trò bô lão), của một chế độ nô lệ không điển hình (hình thức nô tì công và tư đến con nuôi, đứa ở, đầy tớ), của một chế độ phong kiến phân tán chưa hình thành (như các hào trưởng, hào cường), được chấp nhận và tồn tại phổ biến trong một chế độ phong kiến tập trung quá sớm nhưng không trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị. Các mảnh hình thái xã hội như vậy tồn tại cạnh nhau (9). Cho nên trong tư tưởng cũng có dạng trầm tích như vậy, nhưng nước ta lại sớm thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận, huyện của chính quyền đô hộ rồi dưới hình thức quốc gia độc lập, tạo ra điều kiện để dân tộc hình thành sớm. Ý thức hệ cũng phản ánh sự thống nhất như thế. Sự thống nhất ở đây biểu hiện ở hình thức quốc giáo (chế độ phong Quốc sư, Tăng thống, chế độ khoa cử với kinh điển Tam giáo hay chỉ Nho giáo). Tư tưởng chịu sự chi phối của nhà nước – một loại nhà nước chuyên chế có Bộ Lễ quản lí cả giáo dục, tôn giáo và tư tưởng nhưng không đủ mạnh để nắm chắc cả nước – nên các hệ tư tưởng đã kể không cái nào bị cấm đoán nhưng cũng không phải là phát triển tự do mà bị điều chỉnh (trừng trị tội mê tín, phá dâm từ, hạn chế làm thêm chùa, độ nhiều tăng ni....) nên phát triển thành xu hướng liên kết, phân công, phân vùng để cùng tồn tại, thích hợp với chế độ chuyên chế và đảm bảo vai trò hàng đầu của Nho giáo trong địa hạt chính trị. Trong lịch sử tư tưởng của ta có ba lần nhận ngoại viện từ Ấn Độ, Trung Quốc, từ phương Tây nhưng không trải qua cuộc cách mạng tư tưởng nào. Trong lịch sử các nước, hiện tượng du nhập các hệ tư tưởng từ ngoài vào phổ biến hơn nhiều so với hiện tượng phát sinh ở bản địa. Ngay cả các nước có thể tự hào là có nền triết học phát triển cao cũng thường bắt đầu bằng việc du nhập tư tưởng từ ngoài rồi sau đó mới phát triển nền triết học của mình qua một cuộc cách mạng tư tưởng. Phát triển thành một hệ tư tưởng triết học phải trải qua sự phủ định bằng lí luận hệ tư tưởng cũ. Đó là một bước chuyển nhảy vọt trong tư duy. Bước phát triển như vậy nhất định phải có nhưng nhu cầu thực tế mới và những điều kiện mới, những điều kiện cho phép nhìn ra sự phi lí của cách nhìn thế giới cũ, những nhu cầu san phẳng trở lực lớn trên con đường phát triển. Ở đây những phát kiến vang dội về khoa học có vai trò cực kì quan trọng. Và tất nhiên phải là có người làm: có loại trí thức làm chủ được tri thức cùa thời đại, có người đủ điều kiện vật chất và tinh thần đảm đương nhiệm vụ tổng kết lịch sử đó. Trong lịch sử nước ta không phải không có những lúc có biến động lớn, gặp trở lực lớn. Có những thời đại rực rỡ, mở ra viễn cảnh huy hoàng, chắp cánh cho tư duy con người. Nhưng những thời đại đó thường là liên quan với chống ngoại xâm: chiến thắng của Ngô Quyền, Lê Hoàn xóa bỏ tình trạng Bắc thuộc, chiến thắng oanh liệt đời Lý, đời Trần, đời Lê, đời Tây Sơn… đó là những thời đại tinh hoa dân tộc phát triển đến cao độ nhưng dốc hết cả vào đấu tranh quân sự để bảo vệ độc lập. Thắng lợi huy hoàng đã chắp cánh cho thi ca, cho nghệ thuật nhưng lại không tạo được những điều kiện thực tế cho việc tổng kết triết học. Trong một xã hội mà quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn định, sự nhất trí để đề phòng ngoại xâm; với một thể chế mà làng xã là thành lũy; với một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kĩ thuật không đòi hỏi nhiều khoa học, khoa học không cần nhiều triết học. Nếu có những thời điểm có thể nói là nóng bỏng, xuất hiện những nguy cơ xã hội như thế kỉ XIV, XVI, XVIII còn lại vang bóng trong văn học thì cũng không có điều kiện gì mới để nhìn thế giới theo một cách khác. Với nhu cầu và điều kiện như vậy đặt ra làm gì và ai đặt ra được vấn đề quan niệm thế giới theo cách khác? Có lẽ những điều kiện lịch sử như thế đã làm cho chúng ta không có thói quen cuồng tín để đổ máu tranh chấp tôn giáo, mà cũng không có thói quen xác tín đổ mực để cãi cho ra lẽ trong học thuật tư tưởng. Ta không quen đòi hỏi tính chính xác, tính hệ thống, tính nhất quán: ta không có thói quen tư duy triết học. Nếu như đội ngũ trí thức của ta trước đây – các nhà sư và các nhà nho – không để lại cho chúng ta một di sản triết học thì ta cũng không nên trách họ. Chưa thoát khỏi xã hội nguyên thủy thì người VIệt Nam đã gặp ngay nạn xâm lăng từ phương Bắc và nạn ngoại xâm đe dọa thường trực suốt hai mươi thế kỉ. Hoàn cảnh dẫn ta đi theo con đường tiếp nhận, bắt chúng ta chỉ được nghĩ đến những chuyện thiết thực, dạy chúng ta cách ứng dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó. Nhằm mục đích thiết thực, cha ông chúng ta đã lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận nó, không tính cả chuyện những cái đó hòa hợp hay chống đối nhau, nhưng lại biết sử dụng cho có ích và không gây ra chống đối. Đối với thực tế mà nhu cầu đặt ra đơn giản như vậy, kho kinh, tạng của Tam giáo Trung Quốc là dư thừa, thậm chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện để học đủ. Những trường hợp như Nguyễn Trãi thừa hưởng gia tài sách vở của ông ngoại, một học giả quý tộc làm đến Tể tướng, tiếp xúc rộng rãi, hay như Lê Quý Đôn nhiều lần đi sứ, lưu lại ở kinh đô Trung Quốc, đọc sách và giao du với nhiều học giả nước ngoài là trường hợp rất hiếm. Đại đa số chỉ học đủ kinh sử để đi thi. Đối với họ, Đại toàn còn là quá rườm rà, nên phải làm Thuyết ước, phải làm Toản yếu (10) – những bản tóm tắt – cho dễ học. Trong lịch sử học thuật của ta không có những nhà kinh học để cả cuộc đời tra cứu, biện bác, làm sáng tỏ nghĩa kinh điển mà cũng không có những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ, phê phán, đề xuất kiến giải riêng. Những người lỗi lạc, có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển tư văn ở Việt Nam bằng cách đi theo và tiến kịp không thua Trung Quốc chứ không phê phán nó, tìm cái của mình. Trên tinh thần đó, mà những nhà sử học viết quốc sử cố gắng viết cho được như Thông giám, Cương mục của Tư Mã Quang, Chu Hy, những nhà thơ, nhà văn cố viết cho được như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha… Những cái gọi là phương kĩ như nghề làm thuốc, nghề bói toán, địa lí, thiên văn…cũng là học theo sách Tàu, hoặc làm theo kinh nghiệm bản địa nhưng giải thích theo Âm dương, Ngũ hành. Có một hệ tư tưởng tồn tại trong lịch sử Việt Nam nhưng chưa có triết học Việt Nam. Người Việt Nam đã vay mượn nhiều ở nước ngoài nhất là ở kho tàng tư tưởng Trung Quốc. Thế nhưng người Việt Nam có một cách suy nghĩ riêng, không giống người Trung Quốc. Người Việt Nam có ý thức rõ ràng về thực tế của mình, cởi mở để tiếp nhận cái khác mình, giỏi bắt chước và biết ứng dụng linh hoạt. Các hệ tư tưởng Trung Quốc vào đây đều trải qua một sự lược bỏ, lược bỏ những chỗ khắt khe, tế toái. Lược bỏ tất nhiên là đơn giản hóa, sơ lược hóa. Thế nhưng làm như thế mà giảm bớt đi được những cái tế toái, khắt khe, những cái trái tự nhiên, trái nhân đạo, vốn có nhiều trong cách giải thích kinh điển Trung Quốc, thì không phải là dở. Sự linh hoạt – không biết nên giải thích là tinh thần trung dung của Nho giáo, alf tinh thần nhu đạo, bất tranh của Lão – Trang, là tinh thần phá chấp, hỷ xả từ bi của Phật hay chỉ là tập quán chín bỏ lầm mười của bản địa – tất nhiên là hạn chế lớn cho cách tư duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần thiết để tìm chân lí, để có tư duy khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện nhu cầu đơn giản, hoàn cảnh căng thẳng thì như vậy thường lại có hiệu quả. So với Tam giáo hay Âm dương, Ngũ Hành, người Việt Nam không đưa ra vấn đề gì mới, không vận dụng những phạm trù, khái niệm nào khác. Họ chỉ vận dụng một cách linh hoạt và thiết thực những cái đã có sẵn và chính vì vậy mà một mặt, tinh thần và những kiến giải cụ thể đúc kết trong đời sống thực tế Việt Nam thấm vào, chi phối hệ tư tưởng có sẵn, làm nó thành mềm mại, giản dị nhưng cũng không đến mức thay đổi hệ thống cũ; mặt khác, chính hệ tư tưởng có sẵn cung cấp cơ sở để lí luận hóa những kiến giải bản địa, tức là đưa nó vào hệ thống của mình nhưng cũng không vì thế mà thay đổi cơ bản cả hệ thống để có một Nho giáo VIệt Nam, Phật giáo Việt Nam khác hẳn. Thực tế lịch sử, xu hướng cơ bản, hình thức ra đời và phát triển như ta đã trình bày sẽ định hướng cho chúng ta trong việc lựa chọn tên gọi, xác định cụ thể hơn nội dung của khái niệm tư tưởng và phương hướng giải quyết vấn đề tìm hiểu và trình bày nó. III
Viết lịch sử tư tưởng Việt Nam như chúng ta định làm là khó khăn và có những khó khăn đặc biệt. Người ta cũng đã viết lịch sử triết học của từng dân tộc như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản… Ở các nước có nền triết học phát triển, công việc khác hẳn ở nước ta. Ở đó có những tác phẩm triết học, có những nhà triết học; trận tuyến đấu tranh giữa duy vật, duy tâm, giữa biện chứng và siêu hình có phức tạp cũng vẫn nhận ra được. Người nghiên cứu chỉ cần trình bày tư tưởng trong tác phẩm, không cần tìm sự biểu hiện của nó trong đời sống, trong các hoạt động khác cũng rõ. Ở các nước, tuy không có truyền thống triết học, chỉ du nhập những dòng triết học nào đó rất gần đây, chưa trải qua quá trình dung hợp phức tạp trong thời gian lâu dài, công việc cũng đơn giản hơn. Khó khăn lớn của chúng ta vừa là do đối tượng phức tạp vừa là do thiếu tư liệu. Hơn nữa, chúng ta muốn viết lịch sử tư tưởng dân tộc với một yêu cầu đa diện: chúng ta mong từ công trình đó “hiểu con người và xã hội Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó”, mong từ đó “làm sáng tỏ những vấn đề còn tồn tại trong lịch sử xã hội nói chung và các lĩnh vực văn hóa tinh thần khác”. Chúng ta muốn coi đây là một công việc tự ý thức, tự phê phán, một việc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt tư tưởng, cho nên tư tưởng mà ta coi là đối tượng của cuốn sách không phải là tổng số những quan điểm về kinh tế, chính trị, xã hội… cũng không phải là tổng số những học thuyết tín ngưỡng bản địa và được du nhập, mà là các khái quát, phần cốt lõi của tư duy, nhận thức, dầu chưa thành hệ tư tưởng triết học thì cũng là cách nhìn thế giới vận động, lịch sử…có tác dụng chi phối cách suy nghĩ cụ thể. Tư tưởng hiểu như vậy tuy có nằm trong cách suy nghĩ của số đông người Việt Nam thì cũng phải kết tinh thành sáng tạo thuần thục, phát biểu thành văn, ở những hoạt động học thuật khái quát. Không một nhà tư tưởng nào của ta phát biểu có hệ thống những vấn đề như vậy. Ta gặp những mảnh linh tán trong đó tư tưởng Nho, Phật, Lão, Âm dương, Ngũ hành…đều được nhắc đến. Nếu thừa nhận thực tế trầm tích, liên kết mà tôi đã nói ở trên thì ta sẽ nhìn những cái đó không phải là cô lập hay chồng chất lộn xộn mà liên kết với nhau với độ chặt chẽ bền vững khác nhau. Có cái chỉ là ghi chép hờ, có cái được liên kết chặt chẽ, có những cái được liên kết thành khối riêng, nằm trong cái toàn bộ, nhưng có tác dụng chỉ ở một vài mặt nhất định. Tôi cho rằng Nho giáo là xương sống của khối liên kết đó. Rõ ràng là trong cái toàn thể mà ta hình dung thì Nho giáo chỉ là một phần trong nhiều phần, thế nhưng nó là học thuyết của giai cấp thống trị, của nhà nước, là học thuyết chi phối học thuật, là hình thức ổn định sau cùng. Tôi cũng muốn lưu ý rằng ở đây tinh thần thiết thực, linh hoạt bản địa gặp tính dễ dung hợp, đồng hóa của hệ tư tưởng Nho giáo. Nhiều người nghĩ trong tư tưởng Việt Nam, Nho giáo chỉ là cái vỏ, cái áo khoác ngoài, ta chỉ dùng từ ngữ, khái niệm của Nho giáo chứ nội dung thì khác. Không nên coi thường khả năng đồng hóa, thích ứng, liên kết – nhiều khi là bằng cách nhét nội dung của nó hay khoác cái áo người khác – của Nho giáo, thứ tư tưởng điển hình Trung Quốc. Sự liên kết như vậy không làm hình thành một chỉnh thể, các bộ phận quan hệ hữu cơ với nhau, mỗi mảnh nhất quán với cái toàn bộ. Ở đây cũng có chính trị quan, đạo đức quan, thẩm mĩ quan nhưng quan niệm thành thiên đạo, trí đạo, tu thân tề gia, quan niệm văn…không gắn với vũ trụ quan nhận thức luận theo kiểu tư tưởng phương Tây. Đối với một hệ tư tưởng đang dừng lại ở mức như vậy, sự phân biệt duy vật hay duy tâm, biện chứng hay siêu hình…tùy ở vấn đề người ta bàn mà có ý nghĩa nhiều hay ít: có hiểu nội dung trọn vẹn mới thấy ra phương hướng đi đến triết học. Đánh giá trên bình diện triết học ở đây chỉ có thể làm trên phương hướng chung chứ đọc từng câu, từng tác phẩm – mà đoán định duy tâm hay duy vật, biện chứng hay siêu hình thì ít khi đạt được sự thận trọng đáng tin cậy. Mô hình chỉ là giả định, muốn nghiên cứu đối tượng phải tiến hành việc tìm tòi trong chi tiết cụ thể. Trong bản đề dẫn có đặt ra vấn đề có sử dụng tài liệu văn học dân gian hay không. Nói chung đó là vấn đề tìm tư liệu ở đâu. Tư tưởng, và là tư tưởng có ý nghĩa triết học, lại phát triển đến mức có tính dân tộc thì phải tìm ở tài liệu thành văn. Thế nhưng không phải những tư liệu khác không mách bảo ta nhiều điiều về tư tưởng. Không chỉ văn học dân gian mà cả di vật khảo cổ, di tích kiến trúc, lịch sử tôn giáo, văn học nghệ thuật, tài liệu phương thuật cũng đều giúp ta hiểu thêm về lịch sử tư tưởng. Ở ta, tài liệu thành văn rất ít. Không có chuyên luận, không có cả những bài nghị luận về những vấn đề tư tưởng. Tài liệu thường tìm thấy là ở dạng bình giải, ghi chép, bút kí. Tài liệu đã ít lại rất khó đoán định nội dung xác thực. Văn học dân gian vốn là truyền miệng, không xác đinh được địa điểm và thời điểm xuất hiện, cái ta có hiện nay được ghi chép rất gần đây và cũng không tránh khỏi sự chỉnh lí sửa chữa của những người đương đại. Trong tình hình tư liệu của ta, chúng ta rất dễ phạm phải sai lầm. Hoặc là chúng ta dựa vào những cái không phải là tư tưởng mà là của sử học, văn học, thậm chí là của truyền thuyết dân gian nữa. Hoặc là chúng ta đưa vào những cái của tư tưởng Trung Quốc, làm lẫn lộn khái niệm tư tưởng Việt Nam mà ta xác định làm đối tượng. Cũng có thể vì thiếu tư liệu mà sinh ra suy đoán chủ quan, thêm thắt làm sai lạc diện mạo, thực chất của đối tượng. Nổi bật trong sáng tạo tinh thần của ta là thơ ca. Ngay cả văn xuôi cũng ít phát triển. Trong tình hình như vậy, những bài thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, phần triết lí trong Truyện Kiều, lời Tựa nhiều văn tập…nhiều khi cho chúng ta hiểu được nhiều điều về cách suy nghĩ Việt Nam, không kém những lời trích lục kiểu Vân đài loại ngữ. Trong tình hình ít tư liệu, tất nhiên chúng ta phải cố gắng dùng được càng nhiều càng tốt. Cái khó là ở chỗ làm sao khai thác đến mức tối đa những thông tin trong ấy. Cách đọc, cách hiểu, cách phát hiện ra nội dung, tư tưởng trong những loại tài liệu như vậy thật là việc vô cùng tế nhị. Có am hiểu nhà nho – loại hình nhà tư tưởng Việt Nam – và cách viết của họ mới hiểu trọn vẹn cái họ viết. Trong quan niệm văn của nhà nho, đầu từ chương có phải trau chuốt thì nghĩa lí – tức là tư tưởng – cũng mới là cái chính. Văn quan hệ với Đạo, viết văn để phát huy Đạo, cái họ viết dính dáng nhiều đến kinh điển. Tôi không nói điều đó với ý nghĩa dùng điển tích mà nói với ý nghĩa là những vấn đề họ đề cập, những ý kiến họ phát biểu thường phải coi như là tiếp tục cái đã có trong kinh điển. Đối với họ, kinh điển của thánh hiền là cái vốn chung, kho chung của Tư văn mà Tư văn thì là của tất cả chứ không phải của riêng Trung Quốc hay Việt Nam. Trong tình hình đó, đọc nó tách ra khỏi kinh điển sẽ không hiểu được trọn vẹn, sẽ làm nghèo đi. Có đối chiếu với kinh điển mà xem họ bàn cái gì, bàn ở khía cạnh nào mới biết cái gì là khác lạ, mới biết họ kết hợp các tư tưởng như thế nào, mới biết xu hướng tư tưởng của họ, phần sáng tạo của họ. Cái ta có là phức hợp gắn bó theo cách Nho; phải hiểu Nho giáo mới tháo gỡ ra được để nhìn ra diện mạo thực, tiến trình phát triển thực. Có làm như vậy mới phân biệt được các nhà tư tưởng với các nhà nho uyên bác, thường là các ông thầy rất nổi tiếng. Những người đó có thể viết rất nhiều, nhiều hơn cả các nhà tư tưởng, nhưng chỉ là lặp lại kinh điển, không có ý nghĩa gì nhiều về lịch sử tư tưởng. Tư tưởng Việt Nam là một đối tượng độc đáo, nhìn theo con mắt người nghiên cứu lịch sử triết học. Xử lí cái độc đáo thì phải có công cụ chuyên dùng, một thứ kính phóng đại để nhìn vào các vật nhỏ. Phải có một cách đọc, một cách hiểu cho phép phát hiện ra cái phong phú mà ta tin là có thật trong cái vốn tư liệu hết sức nghèo nàn. Cách đó hiện nay chưa có. Tôi nghĩ để tạm thời thay thế nó, hay là để tìm ra nó ta có thể dựa vào tri thức tổng hợp và nghiên cứu liên nghành. Nhiều người trong chúng ta có tri thức nhiều ngành như văn học, sử học, triết học…và chúng ta cũng đã tổ chức nhiều cuộc họp đủ mặt cán bộ nghiên cứu nhiều ngành để thảo luận. Thế nhưng hình như ta còn thiếu cái tri thức chuyên và sâu, chuyên và sâu ở mức nhìn ra nhiều mối liên hệ chặt chẽ giữa hai, ba ngành khoa học, am hiểu các vùng đệm giữa các ngành khoa học, đặc biệt là giữa các ngành văn, sử và triết học phương Đông để khai thác tri thức ngành này cho ngành khác. Cho nên, nghiên cứu liên ngành không chỉ là tập hợp chuyên gia nhiều ngành, mỗi người nghiên cứu đối tượng của mình, theo phương pháp của ngành mình rồi tập hợp kết quả nghiên cứu lại mà còn là giải quyết những vấn đề có ý nghĩa trung gian, làm sáng tỏ một vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của ngành khác. Nếu như tập hợp được một số chuyên gia các ngành cùng nhau làm hoặc là cá nhân bằng tri thức tổng hợp hoặc là từng nhóm theo cách tổ chức nghiên cứu liên ngành cùng giải quyết một hệ thống đề tài được sắp xếp khoa học thì chắc hiệu quả sẽ cao hơn, tiến trình sẽ nhanh hơn cách mở những hội nghị khoa học đông đảo như hiện nay.
Chú thích: (1) Nguyễn Lang, Phật giáo sử luận, NXB Lá Bối, Sài Gòn 1974; Lịch sử Việt Nam tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên ghiệp, H ,, 1983, tr. 399 (2) Kônrát, Phương Đông và Phương Tây, NXB Khoa hoc, Mátxcơva, 1972. Xem bài: Triết học thời Phục hưng Trung Quốc (về phái Tống Nho). (3), (4) Bì Tích Thụy, Kinh, học lịch sử, NXB Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1959, tr. 289, 278 (5), (6), (7) Đại Việt sử kí toàn thư, tập III, NXB Khoa hoc xã hội, H., 1972, tr. 7, 3, 91. (8) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập III, NXB Sử học, H., 1961, tr.9. (9) Phan Huy Lê, Vấn đề truyền thống và cách mạng trong Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, tập 1, NXB Thông tin lí luận, H., 1982, tr. 80 – 95. (10) Như Tứ thư thuyết ước của Chu Văn An (thế kỉ XIV), Tứ thư ngũ kinh toản yếu của Nguyễn Huy Oánh (thế kỉ XVIII), Tính lí toản yếu (thế kỉ XVIII) |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC