MẤY NÉT CHÍNH VỀ LỊCH SỬ QUAN NHO GIÁO VIỆT-NAM THẾ KỶ 19
TRẦN VĂN GIÀU (1911-2010)
Trần Văn Giàu. “Nho giáo ở Việt Nam” trong Triết học và tư tưởng. Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1998. | Phiên bản điện tử: triethoc.edu.vn
a. “Vận hội”, “khí vận” Mỗi người đọc sử, biết luận sử của dân tộc nào từ xưa cho đến gần đây, đều thấy sự hưng phế và trị loạn của các triều đại. Hưng rồi phế, phế rồi lại hưng, cho đến khi sụp đổ và triều đại mới lại thay vào. Không có triều đại nào vĩnh viễn. Không bao giờ thấy hưng trị mãi. Không bao giờ thấy phế loại hoài. Ngó bề ngoài mà nói, chính trị các nước biến chuyển dường như có vòng, đi hết một vòng thì dường như trở lại chỗ cũ. Giống như mỗi năm xuân, hạ, thu, đông bốn mùa tiếp nhau; giống như mỗi ngày sớm, trưa, xế, chiều nối nhau; giống như trời đất, muôn vật vận động mãi không có lúc cùng, hễ cùng thì sinh biến, có biến thì mới lại thông, thông rồi lại tắc, cứ xoay tròn như thế không lúc nào nghỉ. Hiện tượng chuyển biến đó, người xưa gọi là “khí vận”, là “vận hội”, là “tuần hoàn”, một sự chuyển động tất yếu, đương nhiên, mà sức người có thể làm chậm lại hay mau hơn chớ không thể nào cưỡng nổi. Cũng gọi cái sức xoay chuyển huyền bí ấy là “Trời”. ở đây ta chọn một chữ, chữ “vận hội”, để bàn luận, xem đó là một quan điểm căn bản của các nhà Nho về lịch sử. “Vận hội” là gì? Một trong những người xưa nói về vận hội một cách ràng rọt nhất là Thiệu Ung, nhà tượng số học thời Tống, hồi thế kỷ 11. Sách Hoàng cực kinh thế của ông ta nổi tiếng nhất trong số khá nhiều tác phẩm, sách ấy nói về tượng số của trời đất, về sự biến hóa của thái cực, về đạo của thánh hiền. Hoàng cực kinh thế căn cứ vào Kinh Dịch, vào quẻ của Phục Hy mà suy diễn. Theo thuyết âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc thì sự biến dịch của vạn vật như một vòng tròn. Thiệu Ung dựa theo “tứ tượng” trong Kinh Dịch mà lập thành như một hằng số, cái gì cũng được diễn theo số 4: nhật nguyệt tình thần, thủy hỏa thổ hạch, nóng lạnh ngày đêm, gió mưa sương sấm, xem đó là thể dụng của trời đất, tính tình hình thể, chạy bay cỏ cây, xem đó là trước sau của trời đất. Cứ theo số 4 mà tính. Nhật là “nguyên”, nguyệt là “hội”, tinh là “vận”, thần là “thế”. Rồi Thiệu Ung theo một cái ph1p ông gọi là phép “nạp âm” mà tính từ năm Giáp Thìn là năm đầu vua Nghiêu, đến năm Kỷ Mùi đời vua Mục Vương nhà Chu, ghi lại lúc hưng lúc suy, thời trị thời loạn của khoảng thời gian ấy để làm chứng cho học thuyết “vận hội” của mình. Trong mỗi “nguyên” thì có giai đoạn “trưởng”, giai đoạn “tiêu”. Tính từ Tí đến Tị là trưởng, từ Ngọ đến Hợi là tiêu. Mỗi nguyên là 129.600 năm, gồm 12 hội, mỗi hội là 10.800 năm, gồm 30 vận, mỗi vận là 360 năm, gồm 12 thế, mỗi thế dài 30 năm. Trong cuộc “đại hóa” của vũ trụ thì một nguyên cũng như một năm của trần thế đấy thôi. Nguyên gồm 12 hội, mỗi hội ứng vào một quẻ, từ Tí đến Tị là dương trưởng âm tiêu, từ Ngọ đến Hợi là âm trưởng dương tiêu. Cứ tượng ấy mà tính thì kể từ khi trời lập ở hội Tí, đất thành ở hội Sửu, người sinh ở hội Dần, đến đời vau Nghiêu, cuối Tị, là ở giữa nguyên, lúc cực trưởng. Đời vua Nghiêu hết sức thịnh trị là bởi vì thế. Sang hội Ngọ thì bắt đầu dương tiêu âm trưởng, lúc đi xuống, mãi đến hội Hợi, thì chẳng những loài vật không sinh ra nữa mà lại còn tiêu diệt đi. Song, hễ cái này mất thì cái nọ sinh, cho nên trời đất loài vật lại xuất hiện nữa. Cứ như thế. Trong khoảng dinh hư tiêu trưởng ấy, con người có vai trò gì?. Có lẽ Thiệu Ung đã trả lời bằng câu chuyện ngụ ngôn sau đây trong Ngư tiều vấn đáp: “Tiều hỏi: Bác dùng đạo gì mà được cá? Ngư đáp: Ta dùng 6 vật là cần trúc, dây tơ, phao nổi, đồ chìm, lưỡi câu mà mồi. Sắm đủ 6 vật ấy là việc của người, còn được cá hay không là việc của trời. Nếu 6 vật ấy không đủ mà không được cá thì không phải tại trơi mà là tại người vậy”. Nhiều nhà thơ nhà văn thời phong kiến ở nước ta, mỗi khi than thở về thế sự thì hay nói đến vận hội, dinh hư tiêu trưởng, ấy là nói cái triết lý tượng số vừa kể trên, một học thuyết đầy võ đoán, khẳng định không bằng cớ, mênh mông vô hạn, mờ mịt như sương như khói, vào đó thì chỉ quáng mắt lạc đường. Nhưng lạ thay, đó cũng là một học thuyết có nhiều ảnh hưởng, có lẽ vì nó đã ra sức tìm chìa khóa cắt nghĩa sự suy thịnh xoay vần trong lịch sử mà ai cũng thấy, song không ai hiểu vì sao. Đến đây thì ta càng thấy thiên đạo quan “âm dương, ngũ hành, bát quái” ứng dụng vào lịch sử là điên rồ, nguy hại đến mức nào. Ấy vậy mà các nhà làm sử thời phong kiến Việt-nam nói chung, thời Nguyễn nói riêng, số đông sa lầy tận cổ trong học thuyết thần bí rối rắm ấy. Trong Cương mục có chép lại (nghĩa là tán đồng) lời bàn của nhà sử học Ngô Sĩ Luên về sự thành công của Đinh Bộ Lĩnh trong việc dẹp loạn sứ quân cát cứ: “Theo khí vận của trời đất, bế tắt mãi tất có lúc hanh thông. Xem như ở Trung Quốc, sau những loạn lạc về thời Ngũ đại thì có Thái Tổ nhà Tống nổi lên. Ở nước Nam ta, sau những cuộc tranh giành của 12 sứ quân thì có Đinh Tiên Hoàng nổi dậy. Những việc đó không phải là ngẫu nhiên mà chính là khí vận của trời định đoạt”. Nói do khí vận của trời đất định đoạt, mới nghe dường như là cắt nghĩa sâu sắc, kỳ thực là không cắt nghĩa gì cả, cũng y như nói: Hết suy tới thịnh, hết phân tới hợp, hay nói khác hơn, đó là cắt nghĩa bằng ông Trời, bằng lẽtrời, cắt nghĩa cái chưa hei63u bằng cái không thể hiểu được. Trong Cương mục khi sử sách chép về việc Lê Hoàn được tôn vương thì Tự Đức phê rằng: “Bờ cõi Bắc Nam có khác nhưng vận hội vẫn như nhau. Nhà Lê thì có chuyện khoác áo lông cổn, nhà Lý thì sấm truyền ghi trên thân cây. Sao mà giống chuyện bên Tống đến thế?”. Rồi Tự Đức viết tiếp: “Hay là người làm sử thấy vậy bèn gò ép gán gẫm vào nhau để cho câu chuyện trở nên thần kỳ, chớ trời kia có ý làm ra như thế đâu!”. Vậy, Tự Đức cho rằng cái việc ghi lời sấm trên cây, khoác áo long cổn lên vai tướng soái, đều có thể là do người bày đặt, bắt chước nhau nhưng khi ra quân cho đại nghĩa thống nhất, độc lập, mà phải tôn vương như đã tôn Triệu Khuông Dẫn ở bên kia, tôn Lê Hoàn ở bên này, đó là thuộc vào lẽ tất nhiên trong vận hội chung của trời đất. Tuy vậy, Tự Đức hình như phản đối việc lạm dụng khái niệm “vận hội” để đi đến chỗ buông xuôi. Ông viết: “Nếu cứ đổ cho vận hội mà chẳng nghĩ đến việc làm của người thì khác gì như bịt kín mắt mà biện luận trắng đen, có trúng chăng nữa cũng là họa may thôi!”. Câu nói này dường như biểu lộ ít nhiều tinh thần tiến bộ, nhưng thực ra, không phải như thế. Tự Đức nói ra câu đã kể ở trên là nhân dịp trời hạn hán làm mất mùa liên tiếp, vua tôi nhà Nguyễn ngồi vỗ trán tìm nguyên do vì đâu, đình thần có người cho rằng tại “vận hội của Trời đất”, còn Tự Đức thì cho rằng ấy là tại quan lại tham nhũng gây ra nhiều oan ức trong dân, khí hòa vì thế mà mất, nắng hạn vì thế mà sinh. Cũng như ông và cha của mình, như số đông các đình thần và nhà Nho, Tự Đức đã xuất thân từ cửa Nho thì ắt tin vào vận, vận khí, vận hội, một mặt thiết yếu của thuyết âm dương, ngũ hành. Cho nên (trong Cương mục), cắt nghĩa sự thảm hại của quân Tôn Sĩ Nghị trước sức tiến công mãnh liệt của quân Việt-nam do Nguyễn Huệ cầm đầu, vua Tự Đức không hề nói đến tài cầm quân của Nguyễn Huệ, không hề nói đến tinh thần quật khởi của nhân dân ta lúc ấy, mà lại nói rằng ấy là bởi vận nhà Lê đã hết: “Triều vua Càn Long là thời rất thịnh, thế mà ủy nhiệm không được người giỏi nên hỏng việc. Quân đã kiêu rông thì tất phải bại trận, lời xưa nói thật không sai. Nhưng bởi vì vận nhà Lê đã hết, khó cứu vớt được, âu cũng là bởi trời”. Vậy thì, vận cũng là Trời, là mệnh trời, vận hội, vận khí cũng là lẽ tuần hoàn tất yếu của Trời đất; thịnh suy, trị loạn nối nhau không tùy ý riêng của ai hết, chỉ tùy Trời. Cái nghĩa của những khái niệm kia trong đầu óc của nhà Nho Việt-nam ở Quốc sử quán không có tính khái quát rộng lớn, bay bổng bằng tưởng tượng như trong Trần Đoàn, Thiệu Ung, chỉ sà sà ở mặt đất, trong việc cai trị, ở những sự thật lịch sử và xã hội mà nhà làm sử mù tịt không biết cắt nghĩa ra sao, và cố cắt nghĩa bằng cách dễ dàng nhất, cái gì được thành tựu thì cho là bởi “thời lai”, cái gì bị thất bại thì cho là bởi “vận khứ”. Đặng Dung thời hậu Trần đã chẳng than rằng: Thời lai đồ điếu thành công dị, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Đoàn Hữu Trưng, Cao Bá Quát, cũng như vậy, cũng kêu thời với vận. Thực ra, trên những nét rất lớn, lịch sử biến chuyển theo quy luật khách quan, nghiêm khắc, con người không chạy đâu cho khỏi, theo nó được, đổi nó không nổi, tuy nó vẫn cần phải có sức người mới thành hiệu. Có lẽ bởi vì tính nghiêm khắc đó là những chữ “thời”, “vận” mang tính thiêng liêng, huyền bí, đáng sợ đối với người xưa. Xã hội phương Đông ngày trước, vì một số điều kiện cơ bản nào đó - mà một số nhà khoa học lịch sử gọi là phương thức sản xuất châu Á - cho nên phát triển rất chậm về mặt kinh tế, trong một thời gian dài khó trông thấy những biến đổi xã hội ở trong cơ cấu, trái lại, cái dễ trông thấy nhất là sự biến đổi chính trị: trị rồi loạn, loạn rồi lại trị, phế rồi hưng, hưng rồi phế, triều đại này đổ, triều đại khác lên rồi lại đổ, chia rồi thống nhất, thồng nhất rồi lại chia, cứ lắp đi lắp lại hoài như vậy. Ở kinh thành, cơ quan Khâm thiên giám xem Trời, chuyên ghi chép hằng ngày, tháng, năm, kỷ, thế, những hiện tượng tự nhiên, có sử quan ghi chép việc triều đình cũng hàng ngày, tháng, năm, kỷ, triều đại. Tư tưởng con người liên hệ sự tuần hoàn trong thiên nhiên với sự lập lại trong chính trị. Từ đó nảy sinh ra khái niệm vận hội, vận khí trong cái học thuyết lớn chung là thiên địa vạn vật nhất thể. Lịch sử quan Nho giáo chưa có ý thức về sự phát triển, chỉ có ý thức về sự tuần hoàn: “Thiên địa tuần hoàn, chu nhi phục thủy”. Tuần hoàn là sự biến đổi trong vòng luẩn quẩn, quay hết một vòng trở lại chỗ cũ lúc khởi đầu, tí - sửu - dần - mão - thìn - tị - ngọ - mùi - thân - dậu - tuất - hợi, rồi là tí - sửu… Không biết vì sao mà dùng 12 con thú này chớ không phải 12 con thú khác, không biết vì sao Thiệu Ung trí tưởng tượng ở tứ tượng, số 4, chớ không dừng ở lưỡng nghi, số 2, hoặc bát quái, số 8?. Lựa chọn võ đoán thì vạch vẽ sơ đồ võ đoán. Cứ theo đó thì vũ trụ, vạn vật, nhân loại biến chuyển tựa như tù nhân đi dạo trong sân tù, như bầy kiến bò trên miệng bát, đi một hồi, bò một lúc rồi trở lại chỗ cũ, rồi lại đi, lại bò mãi. Thuở ấy chưa hề nghe nói đến cái hình xoáy trôn ốc, cái hình ảnh leo thang lầu để biểu diễn sự biến hóa có tiến tới, có lên cao của xã hội và lịch sử, dường như lập lại mà thực ở mức khác.
b. Trước hơn sau, sau thua trước Chẳng những nhà Nho theo thuyết vận hội, tuần hoàn, không thấy sự phát triển, mà hơn nữa, họ cho rằng trong lịch sử loài người, trước hơn sau, sau thua trước. Nói trắng ra, dường như họ muốn xã hội phải quay ngược lại thì mới là tốt. Cứ theo lý luận chung của Nho giáo thì thời đại hoàng kim, cực thịnh là hai đời Đế, ba đời Vương. Các vua chúa mãi cho đến thế kỷ 19 rồi mà làm việc gì cũng đều cố gắng hết sức để được như Nghiêu, Thuấn!. “Khiêm tốn” hơn, Tự Đức muốn lấy Hán Văn Đế làm mẫu mực. Cái gốc lý luận của ý thức “quay đầu về xưa” ấy là tư tưởng tôn Chu, phục lễ của Khổng Tử. Từ đó mà nảy sinh nguyên lý “phép tiên vương” tức là làm theo những vua trước, tiên vương đó là hai đời Đế, ba đời Vương. Lấy tiêu chuẩn gì để đánh giá sự hơn hay kém, tiến hay thoái trong lịch sử xã hội? Thuở xưa tuy cũng có người như Tư Mã Thiên chú ý ghi chép những công cụ và khí giới, biết rằng lúc này người ta dùng đồ sắt phổ biến, lúc kia người ta dùng đồ đồng phổ biến, biết rằng thời này thương mại thịnh đạt hơn thời kia, nhưng chưa ai biết gì về cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội, về sản xuất vật chất và giai cấp đấu tranh làm nền móng và động lực cho lịch sử. Người ta đánh giá sự tiến hóa của xã hội và con người chỉ theo tiêu chuẩn đạo lý mà thôi. Người ta thấy rằng nhân dân đời xưa phong tục tính tình thuần hậu hơn đời nay, người ta thấy rằng pháp luật đời nay, người ta nhận định rằng nhân tài đời xưa cao hơn và toàn diện hơn nhân tài đời nay. Trong sách Tứ thư trích giảng, phần nói về Đại học, Nguyễn Văn Siêu cho rằng: “Sau đời Tam đại là đời Xuân Thu – Chiến Quốc cho tới Tần, Hán Đường, hết thảy chỉ so tính công lợi, giả thác nhân nghĩa, những cái hỏng là cố nhiên, đến cả những cái được cũng chưa có gì đáng bắt chước. Lý do là vì giáo lý “minh minh đức, tân tân dân, chi ư chí thiện”, danh thì giống nhau mà thực thì xa nhau lắm”. Về việc nhà Hán sai quan họ Giả (Giả Mang Kiên) qua thú nước ta, Tự Đức bảo: “Ta thấy rõ triều Hán có nhiều nhân tài, đời sau nhân thể so sánh kịp” (Cương mục). Tự Đức than rằng: “Đời sau người toàn tài có ít” (năm thứ 16), “Người nay sao kịp người xưa” (năm thứ 18). Các vua Nguyễn mỗi khi kiểm điểm, phê phán các quan lại của mình thì đều bảo họ phải noi theo gương của Lỗ Trọng Khanh, Trịnh Tự Quân v.v… của Trung Quốc cổ đại. Chẳng những người mình đời nay kém người Trung Quốc xưa, mà người mình đời nay cũng kém người mình đời xưa nữa. Trong một bài dụ gửi Văn Thân Nghệ Tĩnh nhằm bắt bẻ chủ trương kháng chiến của họ, Tự Đức nhận định rằng ngày nay kháng chiến không thể thành công vì ngày nay không còn đức thánh Tản Viên, mà Trần Hưng Đạo cũng đã chết!. Triều đình nhận thấy rằng: người đời xưa dùng dân nào để đánh bại quân Nguyên? - Cũng là dân Bắc hà đấy thôi, nhưng xưa tốt hay xấu, xưa hơn nay kém, cho nên xưa đánh được giặc Nguyên mà nay không đánh được quân Pháp. Đọc suốt Cương mục chỉ thấy có một lần Quốc sử quán nhận định nay hơn xưa, xưa thua nay, ấy là khi họ so sánh triều Nguyễn với các triều đại trước và khẳng định rằng triều Nguyễn thì “từ Lạc Hùng trở lại không lúc nào bằng”!. Giữa thế kỷ 19, chỉ thấy có một mình Nguyễn Trường Tộ là người mạnh mẽ và có lý luận chồng lại sự bảo thủ, sự thụt lùi, chống lại tư tưởng “pháp tiên vương”, tư tưởng “trước hơn sau”. Ông khẳng định sự tiến bộ lớn của đời nay so với đời xưa, nếu ví xã hội với con người, thì xã hội đời xưa là thời thơ ấu, xã hội đời nay là thời trưởng thành. Nguyễn Trường Tộ phản đối cái thói quen “ngày đêm luôn mồm luôn miệng kêu gọi những người Bắc quốc đã chết từ vài nghìn năm rồi như Tiêu Hà, Hàn Tín chẳng hạn. Vì còn chịu ơn họ chăng? Vì người đời nay không bằng người đời xưa chăng? Hay là muốn kêu gào cho họ sống lại”?. Phải đợi đến mấy năm đầu thế kỷ 20, với Phan Bội Châu thì tư tưởng tiến hóa luận, lịch sử đi lên, đi tới trước, mới bắt rễ ở nước ta và lần lần chiếm lĩnh địa vị chủ yếu trong ý thức của học giả và chính khách đi tìm đường mới, đi vào hướng duy tân theo chủ nghĩa tư bản.
c. “Đạo trời” và sự may rủi Các triều đại hưng và phế, trị và loạn nối tiếp nhau. Cái gì là nguyên nhân của sự hưng phế, sự trị loạn?. Các nhà làm sử ở triều đình Nguyễn trả lời rằng tại Trời, tại may rủi, bảo rằng ấy là “đạo Trời”, mà “đạo Trời không xa nhưng không thể biết được”:
Còn có thể lấy nhiều tỉ dụ khác. Theo các sử thần nhà Nguyễn, theo các vua Nguyễn, thì Trời, đạo Trời can thiệp và quyết định khắp mọi nơi, trong mọi việc, từ sự hưng vong của một triều đại, sự mất còn của một đất nước, đến sự xuất hiện của một nhân vật, sự thắng bại của một tướng súy. Hễ thịnh thì nói là nhờ Trời nuông, hễ suy thì nói là Trời bỏ, hễ được thì nói là nhờ Trời, hễ thua thì đổ là Trời hại. Cái “chủ nghĩa tại Trời” ấy là lối cắt nghĩa dễ dàng nhất. Không cần đọc một trang kinh, một chương sử cũng có thể biết cắt nghĩa như vậy: “Gẫm hay muôn sự tại Trời” mà! Đó là cách cắt nghĩa để không cắt nghĩa gì cả, nhưng đó lại là tư tưởng phổ biến trong quần chúng khi mà tư tưởng duy lý còn kém cỏi, tư tưởng duy vật lịch sử chưa hình thành. Vai trò của Trời, đạo Trời, được các sử gia nhà Nguyễn bơm lên đến cực độ bịa đặt thêm ra nhằm thần bí hóa các vương triều, khi họ chép truyện Gia Long lục quốc. Hãy đọc Đại Nam thực lục tiền biên, ghi vài mẫu truyện kỳ thú được sử thần nêu lên để chứng minh rằng Trời còn tựa nhà Nguyễn mặc dầu nó bị quân Tây Sơn đánh bại không còn manh giáp che lưng, không còn tấc đất nghỉ chân: “Đến sông Đằng Giang, có nhiều sấu, không thể lội qua được. Nhân có con trâu nằm bên sông, vua (Nguyễn Ánh) bèn cưỡi trâu sang sông. Giữa dòng, nước lớn mạnh, trâu chìm mất. Cá sấu đến chở vua sang bờ bên kia”. Hoặc: “Vua bị 20 thuyền giặc đến vậy. Thuyền vua liền kéo buồn nhằm hướng đông mà chạy, chơi vơi ngoài biển suốt bảy ngày đêm, quân sĩ đều khát. Vua lo, bèn ngửa mặt lên Trời khấn rằng: nếu ta có phận làm vua thì xin cho thuyền dạt vào bờ, nếu không thì chìm giữa biển cũng cam. Vua dứt lời thì gió yên sóng lặng, trước mũi thuyền, nhìn thấy mặt nước đen trắng hai dong, nước trong sủi lên. Một người trong thuyền thử nếm, thấy ngọt, kêu lớn lên: nước ngọt, nước ngọt!. Ai nấy tranh nhau uống. Vua sai múc lên bốn năm chum, rồi nước biển lại mặn như cũ”. Để cắt nghĩa sự kiện lịch sử, vua tôi nàh Nguyễn dùng “Trời” và “đạo Trời” làm cái “chìa khóa mở cửa nào cũng được”. Nhưng theo truyền thống Nho giáo, họ cho rằng “đạo Trời là điều không thể biết”. Nói một cách khác, trong lịch sử chính trị, không thể đoán chắc được cái gì. Sách Cương mục chép: “Trong lúc vua Trần Thái Tông đang thết tiệc triều thần vào một đêm tháng bảy, mùa thu, bỗng thấy sao chổi mọc ở hướng đông bắc. Vua bảo: “Ta xem ngôi sao này tia sáng rất lớn, đuôi rất dài, chắc không phải sự tai biến ứng về nước ta. Rồi vua cho tiếp tục ăn yến đến xong. Tháng 10 năm ấy, nhà Tống mất”. Chách chép sử như thế ngụ ý rằng: vua Trần hiểu được điềm Trời, rõ được đạo Trời: sao chổi lớn mọc ở đông bắc nước ta, tức là nước Tống lâm nguy đó. Về sự kiện này, vua Tự Đức phê: “Câu nói (của vua Trần) may mà trúng chớ biết thế nào được đạo Trời?”. Vì xác định rằng không thể biết được đạo Trời, cho nên, để cắt nghĩa lịch sử, vua tôi nhà Nguyễn thường xuyên dùng khái niệm may rủi, dùng chữ may để cắt nghĩa cái gì hay, dùng chữ rủi để cắt nghĩa cái gì dở. Chắc họ không biết rằng khái niệm “may rủi” xét cho cùng là sự phủ định khái niệm “đạo”, “đạo Trời” như là cái lý biến chuyển, cái lý sinh thành tiêu hủy của mọi sự vật. Ngày nay, chúng ta không phủ nhận rằng trong đời người, trong xã hội, trong lịch sử, thực có sự may rủi, nhưng may rủi không bài trừ quy luật khách quan của lịch sử, chính quy luật đó là cơ sở để cắt nghĩa sự thành bại, thịnh suy, trị loạn. Nhược bằng không ngớt cắt nghĩa mọi biến cố lịch sử, biến cố xã hội bằng may rủi là chính, hay chỉ bằng may rủi thôi, thì cũng giống như cắt nghĩa tất cả bằng Trời, bằng đạo Trời, nghĩa là không cắt nghĩa được gì hết mà cuối cùng phó mặc cho vận số, vận mệnh, tới đâu hay đó. Đánh giá cuộc chiến thắng của Ngô quyền trên sông Bạch Đằng, diệt Hoằng Thao, đuổi quân Nam Hán, vua Tự Đức (trong Cương mục) xem đó là một cái may, không có gì đáng khen!. Ông viết: “Ngô Quyền gặp được ngụy triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Thao là một chàng hèn kém, nên mới thắng được trên sông Bạch Đằng. Đó là một việc may, có gì đáng khen?. Nếu gặp phải tay Trần Bá Tiên mà bảo rằng Ngô Quyền không phải đến theo gót Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương thì ít có lắm”. Mới nghe lời bàn của vua Nguyễn thì tưởng tượng chừng đâu ông là sử gia của Bắc quốc, là bồi bút của nhà Tống, nhà Minh! Nếu Nam Hán của cha con Hoằng Thao là ngụy thì nước Việt-nam của Ngô quyền, Lê Hoàn cũng là ngụy sao? Ngụy đối với ai? Đứng về mặt lập trường phong kiến Việt-nam mà nói, nếu ở vùng Bách Việt xưa mà có nhiều nước độc lập thì chỉ có lợi cho Việt-nam giữ quyền độc lập của mình đối với quốc gia phong kiến to lớn, đông đúc của người Hán, thì sao lại lên án Nam Hán?. Về việc nước mình, nếu Ngô quyền “ắt may” thì sự nghiệp hiển hách của Ngô Quyền lập lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc ta hồi thế kỷ thứ 10, cũng chỉ là một giải may, một điều ngẫu nhiên, không phải nhất thiết phải đến, không phải nhờ tâm huyết của nhân dân và tài ba xuất sắc của tướng soái hay sao?. Lời bàn này của Tự Đức chứng tỏ nhà vua nặng đầu óc trọng người khinh mình, trái với một tinh thần dân tộc tối thiểu. Có lẽ sử thần nhà Nguyễn không đồng ý lắm với Tự Đức về đánh giá cuộc chiến thắng của Ngô Quyền cho nên, trong Cương mục, bên cạnh lời phê của Tự Đức, họ ghi lời bàn của Ngô Thì Sĩ: “Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa (Dương Đình Nghệ), đuổi giặc ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại”, và: “Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến ngàn thu, đâu phải lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu!”. Một sự kiện lịch sử, hai lối đánh giá, hai tư tưởng trái nhau, một bên là yêu nước, một bên thì sùng ngoại. Không phải chỉ có chuyện đánh giá Ngô Quyền mà thôi, chuyện đánh giá Trần Hưng Đạo cũng dắt vua tôi Tự Đức tới chữ “may”. Ngô Quyền thắng Nam Hán một lần, Trần Hưng Đạo thắng Nguyên những hai ba lần, tuy vậy, hai ba lần chiến thắng đó vẫn không đủ sức gỡ chữ “may” ra khỏi miệng Tự Đức và sử thần nhà Nguyễn. Họ viết: “Lúc bấy giờ nhà Nguyên mới nổi lên, các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và các tướng văn tướng võ phần nhiều là người tài, mới có thể đánh bại được giặc, giữ được nước, chớ nếu gặp người khác, lúc khác thì chưa biết thế nào”. Thế cũng là “may” cho nhà Trần gặp lúc nhà Nguyên mới nổi lên! “May” cho nhà Trần có tướng tài!. “May” cho nhà Trần vì Nguyên đế gửi sang những tướng không giỏi. Cương mục viết: “Nhà Nguyên hai lần đem quân xâm lấn, nhưng được phái sang đều không phải là tướng giỏi, đây cũng là may cho nhà Trần!”. Ở đây chúng ta không có nhiệm vụ giải thích tại sao Nguyên thua, Trần thắng, tại sao đạo quân hùng mạnh và tàn bạo nhất thế giới lúc ấy, đánh đâu thắng đó, khét tiếng tư đầu đến cuối lục địa, mà phải ba lần bị đánh cho không còn manh giáp trên đất Việt-nam này. Chúng ta chỉ cần nói đến chữ “may”. Thầy trò, vua tôi Tự Đức khoái cái chữ “may” này lắm, họ viết trong Cương mục: “Lúc đầu đời Trần may mà gặp Thoát Hoan nhà Nguyên, lúc cuối đời Trần không may mà gặp Trương Phụ nhà Minh”. Hễ ta thắng, địch thua thì họ bảo là ta gặp may vì đụng phải tướng địch tồi, hễ ta thua, địch thắng thì họ bảo là ta không may đụng phải tướng địch giỏi. Những khái niệm “may” hay “không may” quả là không cắt nghĩa gì hết, y như khái niệm “Trời” và “đạo Trời”. Trăm sai cũng có một đúng, mà cái đúng này mới quả thật là một điều “may”: vua tôi tự Đức co lý và chỉ có lý trong trường hợp này thôi, khi họ nhận định rằng: “May đó thôi, không có tài cán gì” để bói việc tướng trần Khắc Chân nhờ được tên Ba Lậu Khê bội phản chúa Chiêm Thành, sang doanh trại Trần và chỉ rõ chiếc thuyền chở Chế Bồng Nga để quan Trần tập trung hỏa pháo mà giết được chủ tướng địch. Cái sai lầm của Tự Đức và các sử thần nhà Nguyễn hiển nhiên không phải là ở chỗ thừa nhận có may rủi trong lịch sử, mà ở chỗ đã đưa may rủi lên thành một nguyên lý, một quy luật của lịch sử.
d. Vai trò quyết định của người tài độc lập với điều kiện lịch sử, quần chúng nhân dân hoàn toàn bị bỏ lãng Trong khi cắt nghĩa sự hưng vong của các triều đại bằng đạo Trời, bằng may rủi, thì sử gia Nho giáo cũng cắt nghĩa bằng sức người, bằng nhân tài. “Có trời mà cũng có ta”, họ thường bảo như vậy. Trong sách Nam sơn tùng thoại, thiên Nhậm sử, Nguyễn Đức Đạt nói về vai trò quyết định của người tài như sau: “Vua Thành Thang không được ông Sần Chi (Y Doãn) thì không nên nghiệp vương. Việt Tử (Câu Tiễn) không được ông Kế Nhiên (Phạm Lãi) thì không nên nghiệp bá”. Nhân tài quan trọng như thế, nhưng kẻ sĩ ít ỏi và khó kiếm: “Trong khu vực ngàn dặm mới có một kẻ sĩ”. Nhiều, không nghĩa lý gì. “Vì vô dụng hơn nhiều”. Hoàng Yết, tướng nước Sở có 3.000 khách mà bị giặc giết, Điền Hoành (vua nước Tề) có 500 đồ đảng mà không giải được nguy. Vậy, số đông không quyết định, cái quyết định là người tài cao. Tự Đức (năm thứ 30) có nói với quần thần rằng: “Nước Thục là một nước nhỏ ở một góc, có Võ hầu thì yên, không có Võ hầu thì nguy. Vậy thì an hay nguy không quan hệ ở nước lớn nhỏ mà chỉ do người thế nào đó thôi” (Đại Nam thực lục chính biên). Ở đây “người”, không phải là quần chúng nhân dân mà là vua quan, quan ở triều đình cũng như quan hàng ở tỉnh. Đạo đức càng tốt thì tác dụng càng tích cực. Vua Nguyễn hàng chục lần nói: muốn chuyển tai biến thành điểm lành, duy chỉ có biết chọn người, dùng người và biết cách an dân là việc cần kíp nhất. Quan kính trời, trung vua, thường thì ân huệ của triều đình thấm tới dân chúng, cảm hóa được trời đất, sinh khí hòa, mùa màng tốt, bá tính an cư lạc nghiệp. Chữ “tài” chủ yếu nghĩa là “có đức”. Các quan ở tỉnh huyện mà còn quan trọng như thế thì quan ở triều đình càng quan trọng hơn, có tác dụng quyết định đối với sự còn mất, hưng phế của một chế độ. Cho nên, theo phương châm “thượng hiền” có từ thời Khổng Tử, trách nhiệm của nhà vua là nuôi chọn và dùng nhân tài: “Đời há thiếu gì người tài, chỉ sợ chưa tìm thấy đó thôi. Trước kia, Bách Lý Hề nếu không gặp Công Tôn thì lẩn quẩn chăn trâu. Gia Cát Lượng nếu không vì Thủy Kính thì một đời ở chốn thảo lư” (Tự Đức năm thứ 12). Nước đã được Bách Lý Hề, Gia Cát Lượng thì nguy trở thành an. An nguy của một nước được định đoạt bởi nước ấy có hay không có nhân tài. Cái sai của các vua Nguyễn và sử thần của họ không phải ở chỗ khẳng định vai trò vai trò quan trọng của nhân tài, mà ở chỗ khẳng định rằng việc có hay không có nhân tài là sự quyết định tồn vong, thịnh hay suy của một chế độ, một triều đại, không còn phải đi tìm sâu hơn nữa. Nếu khi nào nhân tài sẵn đó mà sự nghiệp không thành, nghĩa là nhân tài không quyết định nổi sự an nguy thành bại, vì như Gia Cát Võ hầu như tài cao mà không cử nổi vạc Hán như Hàn Tín, Tiêu Hà mấy trăm năm trước, thì khi ấy họ quay về với Trời, mệnh trời, đạo Trời và may rủi! Cái sai của vua tôi Tự Đức còn ở chỗ nghĩ rằng: “Đời há thiếu người tài, chỉ sợ chưa tìm thấy đó thôi”. Nào phải như vậy!. Đã biết thời thế tạo anh hùng nhưng không phải thời thế nào cũng tạo ra anh hùng: một chế độ hung tàn mấy khi mà sinh anh hùng quay ngược nổi bánh xe lịch sử, chỉ có phía đối lập với chế độ suy tàn đó, phía đang lên, mới dễ sinh ra anh hùng đẩy mạnh lịch sử tới trước. Nhiều thời thế yêu cầu cấp bách có anh hùng xuất chúng mà anh hùng vẫn vắng mặt như sao buổi trưa. Cương mục cho rằng chế độ nhà Trần sở dĩ tiêu vong là vì vua Trần, cụ thể là Trần Dụ Tông bất tài, bất đức, bất kính. Sách đó cắt nghĩa sự suy sụp đổ nát của nhà Trần bằng lời phê phán sau đây của Ngô Thì Sĩ mà sử thần nhà Nguyễn tán dương: “Tháng 8 đã là mùa không có sấm, thế mà ở đây tháng 9 hãy còn sét đánh và sét đánh có phải một chỗ đâu, thực là một sự lạ lắm. Trần Dụ Tông lên ngôi đến đây mới 16 năm đã có 6 lần nhật thực, 3 lần thủy tai, một số lần sâu cắn lúa, lại luôn năm mất mùa đói kém. Đến đây, từ mùa xuân đến mùa thu, nào núi lở, nào đất động, không tháng nào không tai biến. Ý chừng trời phạt tội đại ác, đại dâm, răm mầm biếng nhác chính sự. Thế mà cha con vua tôi vẫn cứ nhơn nhơn không hề lo âu. Kẻ trên thì không thật lòng xét mình, kẻ dưới không có mưu chước gì để cứu đời giúp nước, coi thường điềm Trời mà không biết sợ, khinh bỏ việc người mà không lo toan. Qua năm sau, Trần Minh Tông mất. Dụ Tông rông rở chơi bời, giặc cướp từng đàn nổi lên, xuôi nân vận hội không thịnh đạt nữa, rồi ngôi báu nhà Trần suýt mất về tay họ Dương. Đạo Trời có xa đâu”. Đoạn bình sử nói “đạo Trời”, “tai dị”, nhưng chính thực là nói vua bất tài, bất đức, bất kính đó vậy. Nói cho đúng, từ thế kỷ 19 trở về trước, khoa học lịch sử chưa xau16t hiện hay là còn rất non nớt, mới có nghề biên niên là chính, tích tụ tư liệu lịch sử, bình luận đạo đức về chính sự, thì làm sao mà cắt nghĩa nổi sự thịnh suy của một triều đại, làm sao hiểu nổi lý do chính xác và sâu xa, cắt nghĩa sự thay đổi các triều đại trong thời phong kiến dài đằng đẵng?. Gặp khi nhà cầm quyền đã vô đạo lại chẳng có tài ba gì mà triều đại và quyền bính của họ kéo dài vài trăm năm, bất chấp vô số những tai dị, như trường hợp vau Lê - chúa Trịnh, thì các sử thần và Tự Đức nói năng rất lúng túng. Cho rằng Cương mục có lời phê rằng: “Nhà Lê từ Thái Tổ sáng lập cơ nghiệp, truyền nối chưa được mấy đời, chỉ có đời Thánh Tông được kể là rất thịnh trị, còn mấy vua khác đều mờ tối, ươn hèn, không đáng đếm xỉa. Từ khi trung hưng về sau, chính quyền về cả trong tay họ Trịnh, mà nhà Lê chỉ còn có tiếng suông. Lúc khai sáng thì chính đại và gian nan như vậy, đến sau truyền ngôi thì rối ren còi cõm như kia, không biết việc báo ứng như thế nào nhỉ?”. Đó là câu hỏi của Tự Đức, nói lên cái lúng túng của các sử thần. Có điều là vua “mờ tối ươn hèn” như thế, chúa “vô đạo, gian ác” như thế, mà sao chế độ Lê – Trịnh lại dài đằng đẵng hai ba thế kỷ như thế?. Thầy trò Tự Đức giải thích về phần vua Lê rằng: “Do tổ tông nhân hậu lập quốc, ân đức lưu truyền, nếu không do đó thì sao được như vậy”, tức là cắt nghĩa lịch sử chính trị bằng cái vốn đạo đức luân lý. Còn về phần chúa Trịnh thì Cương mục viết: “Từ trước đến nay, trong nước mà có quyền thần chân chính, thì không đầy vài đời, kẻ quyền thần cướp lấy ngôi sao chưa từng có bao giờ lại như nhà Lê, nhà Trịnh hai bên cứ song song nhau từ trước đến sau như thế… Có lẽ kẻ kia mắt trông thấy nhà Mạc không thể giữ ngôi vua được lâu dài nên rất lấy làm răn sợ. Tuy chưa xưng tôn hiệu nhà vua mà quyền bính hiệu lệnh trong nước đều tóm thu hết trong tay, như thế cũng đã mãn nguyện rồi, còn muốn gì nữa!. Tục truyền câu “thờ Phật ăn oản” cũng không ngoài sự xét đoán về thâm tâm họ Trịnh”. Nhưng, dường như các nhà làm sử không được thỏa mãn lắm với cách giải thích đó, cho nên, tiếp theo, Cương mục lại có đoạn: “Kể từ khi nhà Lê suy yếu, tự mình không phấn chấn lên được, họ Trịnh đời này qua đời khác làm mãi những sự hung bạo, nhiều lần ròng rỡ lấn hiếp, nhưng cuối cùng cũng không chiếm lấy ngôi vua, để nhà Lê vẫn được truyền đời lâu dài đến hơn 200 năm, có lẽ cũng do ở trong Nam các thánh vương triều ta gây dựng cơ sở, nêu cao nhân nghĩa, tiếng tăm thiêng liêng vang mọi khắp nơi, có đủ sức làm tiêu tan tấm lòng ngấp nghé của họ Trịnh, nên họ Trịnh mới sợ mà không dám làm sự thoán đoạt đó thôi”. Lần này thì Quốc sử quán đã dùng sử để giải thích sử, cho nên có tiếp cận với chân lý khách quan. Nhưng, loại giải thích sử như thế này rất ít thấy trong Cương mục cũng như trong Thực lục. Tất nhiên không phải chúng ta ngày nay là những người phủ nhận vai trò cá nhân trong lịch sử. Vai trò ấy quan trọng lắm chớ. Nhưng vấn đề là còn ở chỗ hiểu vậy điều kiện nào đã cho phép nhân tài xuất hiện, vấn đề còn là ở chỗ sự nổ lực và tài nghệ của nhân tài phải có những điều kiện gì mới được hiệu nghiệm, bằng không thì anh hùng cứ phải “ân hận” thôi. Lãnh tụ là quan trọng, quan trọng hơn hết là quần chúng nhân dân - người chủ yếu làm ra lịch sử. Các nhà làm sử từ thời Tự Đức trở về trước không ai có ý kiến gì về tác động cơ bản của kinh tế, về tác động của đấu tranh giữa các giai cấp, tập đoàn xã hội, về tác động của sức mạnh quần chúng nhân dân… Tuy cũng có những sử gia như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú chú ý biên chéo chế độ kinh tế, chế độ xã hội, chế độ pháp luật, biến đổi chính trị v.v… một cách ít nhiều có hệ thông, tuy cũng có lúc trong triều ngoài dân có một số nhà làm sử vì lý do này hay vì lẽ khác đã chú ý biên chép nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân (ấy là trường hợp của bộ Hoàng Lê nhất thống chí). Từ thế kỷ 19 trở về trước, lịch sử viết được quan niệm là lịch sử của các nhà (nhà Nguyễn, nhà Trịnh, nhà Lê) chớ không phải của nước, ấy là lịch sử của vua chúa, tướng soái, nhân vật, thần thánh, chớ không phải của quần chúng nhân dân, của dân tộc, của các dân tộc hợp thành quốc gia. Theo các nhà Nho, các sử gia ngày nọ, nhân dân chỉ là đối tượng “chăn nuôi” của vua, là những con tốt trên bàn cờ, luôn luôn là dành để khoét đẽo, bóc lột. Nhân dân chưa hề được quan niệm như người làm ra mọi sự giàu có vật chất và văn hóa, mọi sức mạnh cứu nước, chưa hề được quan niệm là nền tảng, là động lực của lịch sử. Lịch sử quan lúc đó chỉ có hạn chế trong vòng những nguyên lý Nho giáo về thiên đạo và nhân đạo. Viết sử chưa thành một khoa học. Sử viết chưa mang được tính chất lịch sử đầy đủ của nó. Mong rằng trong tương lai, nhờ sự phát hiện những sách cũ của ông cha để lại, ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm và nguyên lý khác, tiến bộ hơn về lịch sử, so với những điều chúng ta vừa kể bên trên về quan niệm lịch sử của Nho gia, quan niệm của Nho gia về lịch sử ăn khớp một cách rất hoàn toàn với quan niệm của họ về thiên đạo, về thế giới.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC