Thuyết Duy nghiệm

Khảo luận của Locke về giác tính con người

 

KHẢO LUẬN CỦA LOCKE VỀ GIÁC TÍNH CON NGƯỜI

 

JOHANNES HIRSCHBERGER (1900-1990)

Vũ Hoàng Lan Phương dịch

 


Vũ Hoàng Lan Phương trích dịch từ The History of Philosophy. USA: The Bruce Publising Company, 1959. | Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn do dịch giả gửi.


 

Locke được xem là đại diện quan trọng nhất của triết học Anh là vì tác phẩm Khảo luận về Giác tính Con người (Essay  concerning Human Understanding) của ông đã trở thành bản văn nền tảng cho thuyết duy nghiệm Anh. Thêm nữa, những phẩm chất riêng biệt của tính cách dân tộc Anh đều được phản ánh qua những đặc điểm quan trọng trong triết học Locke. Những đặc điểm này bao gồm phán đoán khôn ngoan và thận trọng, không ưa thích những điều cực đoan, thuyết duy thực chín chắn, sự kết hợp tài tình của thuyết bảo thủ và thuyết tiến bộ, chủ nghĩa tự do, lòng khoan dung và cảm xúc dành cho cuộc sống thực tế của ông. Hobbes đặc biệt mạnh mẽ khi phê phán về người khác. Locke cũng thực hiện công việc phê phán; nhưng sự phê phán của ông không gay gắt và gây tổn thương như những phê phán của Hobbes. Nỗ lực triết học của Locke là đánh giá một cách có phê phán những thành tựu quan trọng trong quá khứ và đặt cơ sở cho sự tiến bộ xa hơn trong tương lai.

* * *

Trong tác phẩm Khảo luận về Giác tính Con người, Locke nỗ lực giải quyết vấn đề về giác tính con người vốn đã được Descartes giải quyết bằng phương pháp hoài nghi. Trong quá trình thực hiện, Locke đã khơi mào một cuộc thảo luận sôi động về những nền tảng, giá trị và phạm vi thực sự của nhận thức con người, những chủ đề luôn là mối quan tâm chính yếu của các triết gia xuyên suốt thế kỷ XVII và XVIII. Năm 1704, Leibniz đã phản hồi Locke trong tác phẩm Tiểu luận Mới về Giác tính Con người (New Essay) của mình; năm 1709, Berkeley viết tác phẩm Khảo luận về những Nguyên tắc của Nhận thức Con người (Treatise concerning the Principles of Human Knowlegde); và năm 1748, tác phẩm Thẩm tra về Giác tính Con người (Enquiry Concerning the Human Understanding) của Hume được công bố. Cuối cùng, Kant đã nỗ lực làm sáng tỏ dứt điểm toàn bộ vấn đề này trong tác phẩm Phê phán Lý tính Thuần túy (Critique of Pure Reason) của ông.

Nguồn gốc của nhận thức

Trong phần trả lời cho câu hỏi “Đâu là nguồn gốc của nhận thức?”, Locke nói: Tâm trí ta không có bất kỳ nguyên tắc bẩm sinh nào, cả ở phương diện lý thuyết lẫn thực hành. Toàn bộ quyển đầu tiên và chương đầu tiên trong quyển thứ hai của tác phẩm Khảo luận về Giác tính Con người được dành để chứng minh quan điểm này. Nếu có tồn tại những thứ như là các ý niệm bẩm sinh thì trẻ em tất yếu phải sở hữu chúng. Tuy nhiên, sự thật không phải vậy: ta trước hết phải dạy dỗ trẻ cho đến khi chúng thành niên. Ngay cả khi đã hoàn tất, việc dạy dỗ không phải lúc nào cũng thành công, vì có nhiều người trưởng thành thậm chí còn không thông thạo chẳng hạn như những nguyên tắc lôgic học về sự không-mâu thuẫn và về sự đồng nhất. Trong thực tế, không phải ở đâu ta cũng tìm thấy được quan niệm về Thượng đế, có những quốc gia không hề có sự hiện diện của Thượng đế. Điều tương tự cũng đúng đối với những nguyên tắc luân lý được hình thành theo nhiều cách thức đa dạng trong những cộng đồng khác nhau. Thực tế là bất kỳ nơi nào có sự đồng thuận chung về những nguyên tắc này thì đều có thể được giải thích bằng việc những sự xác tín nhất định nào đó đã thành công trong việc tìm kiếm sự chấp thuận ở nơi đó.

Ta đã thấy cách thức Leibniz trả lời phản bác của Locke về những ý niệm bẩm sinh (xem tập 2, phần I, mục 2, I, chương 8: Leibniz: Triết học vĩnh cửu). Nhưng Locke lại đưa ra những luận cứ rất thuyết phục để phản bác trả lời của Leibniz. Ông viết: “Vậy ta hãy giả sử rằng tinh thần là tờ giấy trắng như đã nói, khuyết thiếu mọi đặc tính, không có bất kỳ ý niệm nào: - Vậy nó được trang bị những ý niệm này bằng cách nào?” (Khảo luận, II, 1, 2; Fraser ed., I, 121). Theo Locke, nguồn suối duy nhất cho những ý niệm chính là kinh nghiệm. Kinh nghiệm này gồm hai dạng: một là kinh nghiệm của các giác quan bên trong, cái còn lại là kinh nghiệm đến từ các giác quan bên ngoài. Kinh nghiệm bên ngoài được chuyển giao và truyền đạt bằng những giác quan của cơ thể và được gọi là cảm giác; kinh nghiệm bên trong là tri giác về bản ngã và được gọi là sự phản tư, là tri giác. Những ví dụ cho loại kinh nghiệm này gồm có những tri giác của ta về hành vi nhìn, hành vi cảm xúc và hành vi đam mê, vân vân. Theo Locke, sự phản tư tiền giả định cảm giác. Trong thực tế, đây là sự tái lập của ông đối với câu châm ngôn cổ xưa: không có gì trong trí tuệ mà không có nguồn gốc trước đó từ các giác quan (nihil est in intellectu quod non fuit prius in sensu). Locke giải thích ý nghĩa ông muốn nói đến trong phát biểu rằng nội dung tinh thần có nguồn gốc từ trong kinh nghiệm khi ông khảo sát sự hình thành các ý niệm của ta.

Những ý niệm

Mặc dù nghiên cứu chính thức của Locke về ý niệm chỉ giới hạn trong phần bàn luận của ông ở Quyển thứ Hai của tác phẩm Khảo luận về Giác tính Con người, song Locke cảm thấy cần phải nói thêm về các ý niệm trong tâm trí ta ở những nơi khác nữa, và ông đã tự biện minh cho việc thường xuyên đề cập đến thuật ngữ này (I, 1, 8). Đối với Locke, ý niệm là “bất cứ cái gì là đối tượng của giác tính khi con người tư duy… bất cứ cái gì có nghĩa là tưởng tượng, khái niệm, các loài, hay bất cứ cái gì tâm trí có thể sử dụng trong tư duy” (Khảo luận về Giác tính Con người, Lời dẫn nhập, 8; Fraser ed., I, 32). Từ đây, ta dễ dàng thấy rằng ý niệm của Locke không còn là ý niệm theo kiểu của Plato nữa. Locke mô tả những phẩm tính chính xác của ý niệm trong Quyển II, 8, 7, nơi ý niệm như là nội dung của ý thức được phân biệt với đối tượng do nó biểu thị, cũng như được phân biệt với những phẩm tính của nó vốn sở hữu năng lực tạo thành hay sinh ra những nội dung này bên trong ta. “Bất cứ cái gì tâm trí tri giác trong chính mình, hay là đối tượng trực tiếp của tri giác, tư duy, hay giác tính, thì tôi gọi đó là ý niệm (Idea); còn năng lực tạo thành bất kỳ ý niệm nào của tâm trí được tôi gọi là phẩm tính của chủ thể sở hữu năng lực đó” (Khảo luận về Giác tính Con người, II, 8, 8; Fraser ed., 1, 169). Locke đôi khi nói rằng phẩm tính khách quan này tự nó là một ý niệm, nên ta hầu như tưởng là ông có ý muốn nói rằng ý niệm có trong bản thân sự vật. Tuy nhiên, sự thật không phải vậy. Locke đã khẳng định rõ ràng rằng ông chỉ đơn thuần muốn biểu thị nguyên nhân bằng hệ quả thông qua hoán dụ. Trong thực tế, đối với Locke, những ý niệm chỉ là những cảm giác và tri giác trong giác tính của ta; do đó, các ý niệm chỉ tồn tại trong tâm trí mà thôi. “Có thể ta không cho rằng chúng [những ý niệm] chính là những hình ảnh và sự tương đồng của cái gì vốn có trong chủ thể (như thường vậy); hầu hết cảm giác về chúng ở trong tâm trí không phải là sự tương tự của cái gì hiện hữu mà không cần có ta, mà đúng hơn là: những tên gọi đại diện cho chúng là sự tương tự của những ý niệm của ta, cái khi được nghe thấy thì có xu hướng kích thích ta” (Khảo luận về Giác tính Con người, Fraser ed., I, 168). Ta sẽ biết được những chi tiết rõ ràng hơn nữa về sự đồng nhất hóa hay không-đồng nhất hóa của các ý niệm của ta với những đối tượng của chúng, về tính khách quan hay tính chủ quan của tâm trí con người, khi Locke nỗ lực xác định giá trị-chân lý của những biểu tượng của ta.

Ít nhất, rõ ràng là trong phân tích của mình về những nội dung của tâm trí con người, Locke chỉ xem xét đến những yếu tố có tính duy cảm. Hiển nhiên là ý niệm của Locke – với tư cách chỉ là một biểu tượng cảm tính – là thứ khác xa với ý niệm phi-cảm tính của Plato trong thực tế đã cấu thành nên cái eidos, mô thức, thực tại đích thực của tồn tại. Chính sự thay đổi triệt để về khái niệm ý niệm này đã tạo nên đóng góp đặc biệt của Locke cho lý thuyết nhận thức. Việc ông xem tinh thần chỉ như tổng số những biểu tượng cảm tính được thể hiện rõ ràng nhất trong việc ông phân chia nội dung của tâm trí và giải thích về nguồn gốc của chúng.

Locke đã nỗ lực thực hiện phân tích tâm lý học cặn kẽ và toàn diện nhất có thể về tâm trí (Khảo luận về Giác tính Con người, II, 2 và tiếp). Ông phân biệt hai loại ý niệm khác nhau là: ý niệm đơn giản và ý niệm đa hợp. Những ý niệm đơn giản được xếp vào bốn nhóm sau: (1) Những ý niệm ta chỉ ý thức được về chúng thông qua một giác quan duy nhất, như  màu sắc, âm thanh, mùi, vị,những cảm giác xúc chạm như nóng, lạnh và nhất là tính cứng chắc vốn không thể thiếu trong tri giác về các vật thể – chính việc Descartes không hiểu về vai trò của tính cứng chắc đã dẫn đến quan điểm thiếu sót của ông về thực tại hữu hình. (2) Những ý niệm là kết quả từ hoạt động của nhiều hơn một giác quan, như là quảng tính vật chất, mô thức, vận động, và đứng yên, trong đó, thị giác và xúc giác cùng cộng tác với nhau. (3) Những ý niệm được tạo ra bằng sự tự quan sát, như tư duy, ước muốn, hồi tưởng, dị biệt hóa, kết luận, phán đoán, hiểu biết và tin tưởng. (4) Những ý niệm có nguồn gốc cả nơi tri giác giác quan lẫn sự tự quan sát, như niềm vui hay ham muốn, vui sướng hay không hài lòng, sức mạnh, sự hiện hữu, sự thống nhất, sự tiếp diễn theo thứ tự thời gian. Những ý niệm đơn giản này là toàn bộ chất liệu cho nhận thức của ta. Mặc dù tâm trí con người có thể bay cao hơn cả những vì sao và mơ những giấc mơ phi thường, nhưng tất cả đều cần phải có những sự kết hợp mới mẻ của các chất liệu cơ bản trong những ý niệm đơn giản của ta. Nếu người nào đó phản bác rằng Locke đã hạn chế quá mức năng lực của tâm trí con người bằng việc coi những ý niệm đơn giản này là toàn bộ chất liệu của nhận thức, thì người đó nên suy ngẫm về cách thức mà vô số từ ngữ đã được tạo nên từ việc kết hợp hai mươi sáu mẫu tự trong bảng chữ cái theo những kiểu khác nhau hay số lượng vô hạn những khả thể được bao gồm trong những sự kết hợp đa dạng của các ý niệm ngầm ẩn trong những khái niệm về không gian và thời gian (II, 7, 10).

Bên cạnh những ý niệm đơn giản còn có những ý niệm phức tạp hay những ý niệm đa hợp. Giác tính không có năng lực phát minh hay tạo dựng ý niệm mới; tất cả những gì nó có thể làm là kết hợp và phân chia (II, 2, 2). Ý niệm phức tạp không phải là một sáng tạo mới mẻ. Locke không công nhận có trí tuệ chủ động cùng với “tính tự khởi không pha tạp” của nó. Ông kiên định vững tin rằng mọi thứ đều có nguồn gốc từ kinh nghiệm. Sự hình thành các ý niệm phức tạp xảy ra chỉ đơn giản bằng việc lặp lại và so sánh những chất liệu sẵn có và biểu thị cùng với những chất liệu vừa mới sở đắc (sđd.) Ở khía cạnh này, sự hồi tưởng giữ vai trò quan trọng trong những diễn trình thuần lý của ta, và Locke đã phát triển đầy đủ chi tiết cả về ký ức lẫn sự chú ý.

Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành những ý niệm mới chính là sự trừu tượng hóa, vì thông qua nó, những ý niệm chung, khái quát được tạo thành. Trừu tượng hóa là “tách biệt chúng [những ý niệm này] ra khỏi tất cả những ý niệm khác vốn đi kèm theo chúng trong sự hiện hữu thực tồn” (Khảo luận, II, 12, 1; Fraser ed., I, 211-212). Ít nhất theo như Locke nghĩ thì ta không thể đặt một tên gọi đặc biệt cho tất cả những sự kết hợp khả hữu; đó là một nhiệm vụ bất khả thi. Do đó, ta hình thành những ý niệm chung, khái quát của mình thông qua việc trừu tượng hóa, “nhờ đó, những ý niệm từ các hiện hữu đặc thù trở thành những đại diện chung cho mọi cái cùng loại; và tên của chúng cũng trở thành tên chung, có thể áp dụng cho bất cứ cái gì hiện hữu phù hợp với những ý niệm trừu tượng đó” (Khảo luận, II, 11, 9; Fraser cd., I, 207). Với “những hiện tượng rõ ràng trần trụi như vậy trong tâm trí” cùng những tên gọi của chúng, ta có thể phân loại và đặt tên cho mọi sự vật miễn là chúng phù hợp, hoặc khác biệt, với những hình mẫu của chúng. “Vì thế, cùng một màu sắc được quan sát thấy trong viên phấn hay trong tuyết hôm nay, cũng là màu sắc tâm trí cảm nhận được trong sữa hôm qua, tâm trí chỉ xem xét riêng mình hiện tượng đó [tức màu trắng], khiến nó trở thành đại diện cho mọi cái thuộc cùng loại đó; và đặt cho nó tên gọi là màu trắng, nó biểu thị cùng một phẩm tính ở bất kỳ nơi nào được hình dung hay bắt gặp, và vì thế, hình thành nên những cái phổ quát dù là những ý niệm hay thuật ngữ” (Khảo luận, II, 11, 9; Fraser ed., I, 207).

Điều quan trọng là phải phân biệt khái niệm trừu tượng hóa của thuyết duy nghiệm hiện đại với khái niệm về trừu tượng hóa trong triết học Aristotle-Kinh viện. Khái niệm trừu tượng hóa của triết học Aristotle-Kinh viện có tính cách lôgic học và hữu thể học; nó là khái niệm đích thực về bản chất; do đó, nó vượt khỏi kinh nghiệm giác quan dựa trên sự quy nạp và bao hàm bên trong nó những thức nhận và trực giác siêu hình học tổng quát. Ngược lại, sự trừu tượng của Locke hoàn toàn bị giới hạn trong “những hiện tượng trần trụi” và chỉ đơn thuần là vấn đề đơn giản hóa những ý niệm và tên gọi. Nó là hoạt động thuần túy tâm lý học và không được biện minh bởi một siêu hình học về bản chất. Điều quan trọng cần lưu ý là Locke không đưa ra tiêu chuẩn khách quan nào biện minh cho lập trường của ông về nguồn gốc và sự hình thành những ý niệm phổ quát. Nhận xét “ta cần tách biệt chúng [những ý niệm] khỏi tất cả những sự hiện hữu khác và những hoàn cảnh hiện hữu thực tồn như là thời gian, không gian hay bất kỳ ý niệm kèm theo nào khác” (Khảo luận, II, 11, 9; Fraser ed., I, 207) không giúp ta xác định được bản chất nào cả. Locke chỉ quan tâm đến nhân tố tâm lý học trong sự đơn giản hóa do ông đề xuất mà thôi. Tuy nhiên, ta sẽ bắt gặp những vấn đề siêu hình học khác trong triết học của Locke, chẳng hạn như khi ta xem xét nghiên cứu của ông về những vấn đề của sự đồng hiện hữu, bản thể, và hiện hữu thực tồn, những khái niệm được ông đưa ra liên quan đến thế giới của những ý niệm. Nhưng lý thuyết của Locke về sự trừu tượng hóa đã đặt nền tảng cho thuyết duy tâm lý của Hume và cho tâm lý học về sự liên tưởng, trong đó, ta chỉ nghiên cứu về những nội dung chủ quan của ý niệm cùng những sự vận động của chúng nhưng lại gạt sang một bên những gì thực sự được hình dung, tức những nội dung khách quan, siêu nghiệm của ý niệm.

Nguồn suối cho những quan điểm mới mẻ của Locke thật quá rõ ràng. Trong chừng mực liên quan đến sự phát sinh nhận thức, học thuyết của Locke song hành với thuyết nguyên tử của khoa học tự nhiên thời hiện đại, nhất là với thuyết nguyên tử của Gassendi. Locke quả thực đã chịu tác động từ nhiều luồng ảnh hưởng trong thời gian ông lưu lại Paris. Ông so sánh minh nhiên sự hình thành những ý niệm đơn giản bằng tâm trí của ta với vận động của các nguyên tử: “Quyền lực thống trị của con người đối với giác tính của chính mình trong thế giới nhỏ bé này giống hệt như trong thế giới rộng lớn của những sự vật khả kiến; nơi mà sức mạnh con người dù được điều khiển bằng tài khéo và kỹ năng đến như thế nào vẫn không thể làm được gì nhiều hơn là kết hợp và phân chia những chất liệu được trao vào tay họ; nhưng lại không có khả năng tạo ra hạt vật chất mới nào dù nhỏ bé nhất hay phá hủy bất kỳ một nguyên tử nào của những thứ đang hiện hữu” (Khảo luận, II, 2, 3, và II, 12, 1; Fraser ed., I, 145). Sau đó, John Stuart Mill đã mô tả tâm lý học về sự liên tưởng như là một môn hóa học của tâm trí. Theo nhà nguyên tử luận, tự nhiên gồm những nguyên tử phân tán khắp không gian rỗng. Đối với nhà tâm lý học về sự liên tưởng, tâm trí là sự phối kết của những ý niệm đơn giản. Trong một lý thuyết như vậy, không có bất kỳ nội dung nào bàn về những cái toàn bộ hay những mô thức vĩnh hằng, hay thậm chí là những mệnh đề tất yếu. Do đó, ta có thể hiểu được vì sao Leibniz phê bình Locke đã ngộ nhận về bản tính của cả tinh thần lẫn của chân lý.

Tuy nhiên, việc Locke phân chia những ý niệm phức hợp thành ba loại – thể cách, bản thể, và tương quan – gợi ta nhớ đến truyền thống xem ý niệm như là thực tại có giá trị hiệu lực khách quan (truyền thống lôgic-hữu thể học). Đối với Locke, trước đó, chúng từng là những phạm trù. Nhưng ta vẫn có thể thấy được chút gì đó còn sót lại của chúng.

Những thể cách (modes) luôn là những trạng thái hay phẩm tính trong một vật mang những phẩm tính ấy; do đó, chúng cũng tương tự như những tùy thể theo nghĩa truyền thống. Chúng tiền giả định sự hiện hữu của những bản thể, những hữu thể thực tồn hiện hữu tự mình và do mình, không phụ thuộc vào cái khác, trái lại, là chỗ dựa cho những cái khác.

Mặc dù vẫn nói về bản thể, nhưng Locke cũng phê phán gay gắt khái niệm siêu hình học này: “Bản thể và các tùy thể rất ít hữu dụng trong triết học… ta không biết bản thể là gì mà chỉ biết một cách mơ hồ, không rõ ràng về những gì nó thực hiện” (Khảo luận, II, 13, 19; Fraser cd., I, 230). Một người Ấn Độ được hỏi rằng: Cái gì nâng đỡ trái đất? Anh ta đáp là một con voi. Con voi đến lượt nó lại được nâng đỡ bởi một con rùa. Và khi câu hỏi tiếp tục được đặt ra: Cái gì nâng đỡ con rùa? Anh ta trả lời: một cái gì đó, nhưng tôi không biết đó là cái gì. Locke có quan điểm hoài nghi tương tự về bản thể. Theo ông, ta “hoàn toàn không biết gì về nó [bản thể]” (Khảo luận, II, 23, 2; Fraser ed., I, 392). Trong toàn bộ vấn đề này, ta thực tế đang bàn về sự đồng hiện hữu của một số ý niệm đơn giản. Kinh nghiệm cho ta thấy rằng những ý niệm đơn giản này đồng hiện hữu trong cái gọi là sự vật, chẳng hạn như trong một con ngựa hay trong một hòn đá. Ta giả định có một vật mang hay nâng đỡ cho chúng song lại không được ta biết đến (II, 23, 4).

Vấn đề giờ đây nằm ở bản tính của “sự nâng đỡ” này. Locke sẽ bàn về nó khi ông giải quyết vấn đề về sự đồng hiện hữu, và ta sẽ thấy rằng ông gán cho nó rất ít thực tại tính, bằng cách ấy, ông đã đặt mình ở lập trường đối lập với siêu hình học truyền thống. Locke không xem bản thể như là một thực tại được phú cho tính thống nhất khách quan, như một mô thức hay ý niệm hữu thể học, như cái gì có giá trị hiệu lực riêng của nó. Locke xem xét bản thể từ quan điểm tâm lý học như được thể hiện trong cụm từ ông thường xuyên sử dụng: “ta thường thấy rằng”. Ông chỉ quan tâm đến thế giới của các hiện tượng. Theo Locke, nhận thức của ta bị giới hạn trong những biến thái [biến thể] ngẫu nhiên của bản thể. Trong tác phẩm Khảo luận Mới về Giác tính Con người (II, 23, 2 và 4), Leibniz thừa nhận rằng bản thể chỉ là cái gì đó trống rỗng và là cái “Tôi-không-biết-là-cái-gì”. Tuy nhiên, như Leibniz đã chỉ rõ, vấn đề về bản thể phải được giải quyết cùng với việc giải thích về tính thống nhất, về tính toàn bộ của mô thức và tính toàn bộ của mục đích được biểu hiện bởi các tùy thể. Nói ngắn, vấn đề tập trung xoay quanh bản chất như là cơ sở tất yếu mang lại giá trị hiệu lực cho nhận thức của ta về các tùy thể. Đây chính là vấn đề liên quan đến bản thể mà các nhà siêu hình học phải đối mặt ngay từ đầu. Locke, một triết gia duy nghiệm, đã không nhìn thấy vấn đề này; tất cả những gì ông có thể thấy được chỉ là tính bất tất của những sự kiện thường nghiệm (Faktizität), ông cũng không thể khám phá được lý do vì sao những nội dung của kinh nghiệm lại là như vậy. Đây chính là điểm xuất phát của Hume, khi ông kết hợp những ý niệm thành cái gì đó có tính cách tâm lý (xem phần sau, chương 11: Hume: Thuyết duy tâm lý và Chủ nghĩa Hoài nghi). Hume hoàn toàn bỏ qua khái niệm truyền thống về ý niệm như là một thực tại có giá trị khách quan, tức là bỏ qua vấn đề lôgic-hữu thể học.

Loại ý niệm phức hợp thứ ba theo Locke là sự tương quan hay sự liên hệ lẫn nhau của các ý niệm. Phạm trù này “không bao gồm trong sự hiện hữu thực tồn của các sự vật mà là cái gì đó xa lạ từ bên ngoài và được đưa thêm vào” (Khảo luận, II, 25, 8; Fraser ed., I, 430). Sự tương quan có thể thay đổi mặc dù chủ thể làm nền tảng cho sự tương quan, tức reiatum, vẫn đồng nhất không đổi. Ví dụ như Caius, người hôm nay có thể là một người cha, nhưng ngày mai có thể không còn là vậy nữa vì con trai của anh ta đã chết rồi. Do đó, sự tương quan là một thể cách để xem xét và quy chiếu đến chủ thể; nó là một sản vật của đầu óc (ens rationis), như các nhà Kinh viện đã từng phát biểu. Song sự tương quan lại vẫn có nền tảng trong thực tại (fundamentum in re) như các nhà Kinh viện đã dạy (sđd.).

 

Bản chất của nhận thức

Nhận thức là kết quả từ sự bận tâm của ta đến những ý niệm của mình (Khảo luận, IV, 1). Nhận thức của ta không có đối tượng tức thời hay trực tiếp nào ngoài chính những ý niệm của nó. Theo Locke, bản tính của nhận thức cốt ở “tri giác về sự kết nối và sự nhất trí, hay sự bất đồng và sự mâu thuẫn của bất kỳ ý niệm nào trong các ý niệm của ta. Bản tính của nó chỉ cốt ở chỗ này mà thôi” (Khảo luận, IV, 1, 2; Fraser ed., II, 167-168). Những loại phán đoán khác nhau phụ thuộc vào những tương quan nhất trí hoặc không nhất trí giữa các ý niệm của ta. Theo Locke, có bốn loại tương quan là: đồng nhất và đa dạng, tương quan, đồng hiện hữu và kết nối tất yếu, và hiện hữu thực tồn.

Tri giác về sự đồng nhất là hoạt động đầu tiên của tâm trí ta. Không có nó ắt không có thứ gì như là nhận thức cả. Ý niệm “trắng” có nghĩa là “trắng” mà không phải là “đen”. Tam giác có nghĩa là tam giác chứ không phải là hình tròn, và điều này cũng đúng tương tự đối với mọi ý niệm của ta. Tri giác về sự đồng nhất cũng là cơ sở cho những tiên đề lý thuyết vốn là các nguyên tắc của khoa học và là cơ sở cho mọi phán đoán hiển nhiên (iudicia per se nota của các triết gia cổ đại). “Có rất nhiều cái khác, thực tế là một số lượng vô cùng lớn những sự liên tưởng như vậy” (Khảo luận, IV, 7, 3; IV, 1, 4) thuộc loại này. Trong đó, ta bàn về nhận thức trực quan được minh họa trong phát biểu A = A. Không khó để thấy rằng ở đây, ta đang áp dụng nguyên tắc không mâu thuẫn của Aristotle. Thực tế là bản thân Locke đã viện đến nguyên tắc này. Song, trong triết học của Locke, nguyên tắc không mâu thuẫn không được xem như là một quy luật của lý tính và thực tại; trái lại, ông xem xét nguyên tắc này từ quan điểm tâm lý học.

Tri giác về sự tương quan thúc đẩy nhận thức của ta, cho phép ta đạt đến những kết luận rõ ràng. Sự tương quan giúp ta xem xét và trình bày sự quy chiếu lẫn nhau giữa các ý niệm mà điều đầu tiên ta nhận thấy được chính là tính thống nhất và tính đa dạng của chúng, bằng cách đó, ta đã đặt nền tảng cho nhận thức về sự tương quan.

Đặc điểm khó nắm bắt của sự sinh triển nhận thức xuất hiện đầu tiên trong hình thức khả hữu thứ ba của sự nhất trí, đó là sự đồng hiện hữu (coexistence). Với tri giác về sự đồng hiện hữu của mình, ta lần nữa đối diện với vấn đề về bản thể và cùng với nó là vấn đề về sự phát biểu những quy luật. Ý niệm về một sự vật, chẳng hạn như vàng, không biểu thị điều gì khác hơn là tổng số một chuỗi những ý niệm. Ví dụ như, ý niệm về vàng bao gồm những ý niệm về vật thể có trọng lượng nhất định, chịu được lửa, có màu vàng, dễ dát mỏng và tan trong nước cường toan (aqua regia) (IV, 1, 6). Ở đây, Locke nhấn mạnh đến những giới hạn được đặt ra cho khả năng của ta khi thực hiện việc thống nhất những ý niệm đa dạng đó thành một thể đồng nhất. “Lý do là bởi các ý niệm đơn giản từ đó hình thành nên những ý niệm phức hợp của ta về bản thể hầu hết – theo cùng với chúng, trong chính bản tính của chúng – đều không có sự kết nối hay không kết nối tất yếu hữu hình với bất kỳ ý niệm đơn giản nào khác, ta cần phải tự mình nhận thức về sự đồng hiện hữu của chúng” (Khảo luận, IV, 3, 10; Fraser ed., II, 200). Qua phát biểu này, Locke đã phác thảo cho ta toàn bộ vấn đề hiện đại về bản thể. Các triết gia cổ đại cho rằng họ có thể nắm bắt mô thức của những sự vật trong trực giác về bản chất, và họ còn khẳng định xa hơn rằng những mô thức này là những mô thức vĩnh hằng. Thuyết duy lý ở thời đại của Locke cực lực phê phán những liên tưởng tất yếu này. Locke đã đặt nghi vấn rằng liệu những phẩm tính đa dạng mà ta quen tập hợp chúng lại với nhau thành nhóm khi bàn về một đối tượng nhất định nào đó có thực sự và tất yếu thống nhất với đối tượng đó hay không. Ông phát hiện ra rằng thật khó để thiết lập cơ sở cho những sự kết nối tất yếu này. Khi Kant mở đầu phân tích của mình về lý tính thuần túy bằng cách đặt câu hỏi rằng làm thế nào những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm có thể có được thì ông đã quan tâm đến cùng một vấn đề tương tự như Locke.

Hình thức thứ tư nhưng cũng không kém phần quan trọng của sự nhất trí giữa các ý niệm được tìm thấy trong tương quan của chúng với hiện hữu thực tồn (IV, I, 7). Mặc dù Locke chủ yếu quan tâm đến ý niệm như là thực tại của cấp độ tâm lý học có tính chủ quan, nhưng ông cũng nhấn mạnh việc những ý niệm của ta không thể chỉ được hiểu như là những nội dung của ý thức, như những thực tại thuần túy nội tại: “Nếu nhận thức của ta về những ý niệm dừng lại nơi những ý niệm và không tiến xa hơn đến cái gì nhiều hơn được dự kiến, thì những tư tưởng nghiêm túc nhất của ta cũng sẽ trở nên vô dụng không khác gì những ảo tưởng mộng mơ của một đầu óc xuẩn ngốc không tỉnh táo; và những chân lý được hình thành nên từ đó cũng không có trọng lượng gì hơn so với diễn ngôn của một kẻ chỉ nhìn thấy sự vật rõ ràng trong giấc mơ và rồi kể về chúng với một giọng điệu vô cùng chắc chắn” (Khảo luận, IV, 4, 2; Fraser ed., II, 228). “Mọi tên gọi nếu không phải là những âm thanh trống rỗng thì đều phải biểu đạt cho ý niệm nào đó, ý niệm này hoặc ở trong những sự vật mang tên gọi ấy, khi đó, ý niệm trở nên thực chứng và được xem là hợp nhất và hiện hữu trong sự vật được đặt tên; nếu không, ý niệm đó phát sinh từ khía cạnh mà tâm trí tìm thấy trong đó cái gì khác biệt với nó, nó xem xét chính mình qua cái khác biệt đó, và khi đó, nó bao hàm sự tương quan” (Khảo luận, II, 25, 2; Fraser ed., I, 428). Ở đây, Locke tiền giả định rằng nhận thức của ta siêu vượt những trạng thái chủ quan của chính ta và đạt đến những đối tượng thực tồn ở bên ngoài tâm trí. Ông nói về sự tương đồng giữa những ý niệm của ta đối với các đối tượng của chúng (Khảo luận, II, 25, 6; II, 8, 15). Đây chính là thuyết duy thực xác định.

Liệu khi đó, ta có thể có được sự chắc chắn trong các phán đoán về thực tại hay không? Locke cho rằng ta có nhận thức trực quan về hiện hữu thực tồn của chính mình; có nhận thức chứng minh về Thượng đế; có nhận thức cảm tính về những tồn tại ở cấp bậc thấp hơn (Khảo luận, IV, 3, 2). Ta sẽ xem xét chi tiết hơn về những loại nhận thức này trong quan hệ với vấn đề về giá trị-chân lý của các ý niệm của ta. Ở đây, ta sẽ tóm tắt cách thức Locke chứng minh toàn bộ nhận thức của ta chỉ cốt ở bốn loại nhất trí khác nhau giữa những ý niệm đã được đề cập ở trên (xem ở trên, tiểu mục II, chương 10: Lo), ắt không bao giờ có khả năng được viện dẫn. Ở khía cạnh này, Locke khéo léo hơn so với Hobbes, vì ông đã định đề hóa luật tự nhiên như là cái có trước mọi hành vi của con người. Tuy nhiên, khi giải thích sự hình thành và mục đích của nhà nước, ông lại rất ít sử dụng khái niệm này như cách ông sử dụng khái niệm quy luật trong đạo đức học của mình. Song, thật đáng ngạc nhiên khi phát hiện một khái niệm như vậy lại xuất hiện trong từ vựng của một nhà duy nghiệm, duy hạnh phúc và vị lợi.

Bằng việc nghiên cứu về khế ước dân sự bổ sung cho lý thuyết về trạng thái tự nhiên của mình, Locke trở thành người ủng hộ cho chủ nghĩa cá nhân. Trong triết học về nhà nước của Locke, ảnh hưởng của thuyết nguyên tử đến từ giai đoạn ông tham gia vào nhóm người tập hợp xung quanh Gassendi bộc lộ ra bên ngoài tương tự như trong lý thuyết về nhận thức và trong tâm lý học của ông. Đối với ông, nhà nước không có tính “tự nhiên”. Trái lại, nhà nước bắt nguồn từ ý chí của các cá nhân và từ những quan điểm riêng của họ. Nhà nước giống như tổng số ý chí và ý kiến của những cá nhân này. Do đó, nhà nước phụ thuộc vào hoạt động của tâm trí con người, cũng như sự đồng hiện hữu của những hiện tượng vật chất trong tự nhiên và dự đoán trước phát biểu của Hume về “bó những tri giác” trong linh hồn. Ba nhân tố khiến ta nhận ra chủ nghĩa cá nhân vốn cố hữu trong triết học chính trị của Locke là: Thứ nhất, quyền lực của nhà nước có thể bị những cá nhân thu hồi lại bất kỳ lúc nào, vì những quyền tự nhiên của con người không thể nào bị xuất nhượng, và đây cũng chính là sự khác biệt giữa quan điểm của ông và Hobbes. Thứ hai, nhà nước có nhiệm vụ duy nhất là phục vụ cho những cá nhân và góp phần vào phúc lợi chung của họ, nhất là bảo vệ tài sản sở hữu của họ mà nhà nước không thể tước đoạt khi không được họ cho phép. Thứ ba, quyền lực của nhà nước phải được phân chia thành quyền lập pháp và hành pháp nhằm ngăn ngừa bất kỳ sự thực thi quyền lực nào gây tổn hại đến lợi ích cá nhân; cả hai phải được cân bằng sao cho cái này có thể thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với cái kia. Nếu con người khiếp sợ nhà nước, ta có thể đặt câu hỏi một cách chính đáng rằng vậy thì vì sao họ lại hợp nhất với nhau để hình thành nên một nhà nước làm gì? Locke khẳng định lý do cơ bản nằm ở việc mỗi con người đều là quan tòa của chính mình trong trạng thái tự nhiên. Từ đó làm tăng nguy cơ bùng nổ cuộc chiến của tất cả chống lại tất cả. Để ngăn ngừa hiểm họa này, các cá nhân tình nguyện hình thành nên những quy luật chung. Nhằm mang lại giá trị hiệu lực ở mức cao nhất cho quyền dân sự, những cá nhân có thể tuyên bố rằng nhà nước là khế ước bắt nguồn từ ý chí của những cá nhân và về bản chất là phụ thuộc vào những ý chí này.

Locke đã trở thành nhà diễn giải kinh điển cho chủ nghĩa tự do qua việc phát triển lý thuyết này. Để bảo vệ tự do của con người, ông công kích lý thuyết phụ quyền của Filmer và trong quá trình đó, ông đã phác thảo lý thuyết về khế ước dân sự của mình. Khế ước này khiến nhà nước phụ thuộc tuyệt đối vào phiếu bầu của công dân và giao cho nhà nước nhiệm vụ nâng cao phúc lợi và đảm bảo an toàn cho công dân của mình. Những người phản đối đã chế nhạo quan điểm của ông bằng cách gọi đó là “nhà nước ‘gác dan’ hay nhà nước ‘giữ của’ [cho người có tài sản]”.

Những tư tưởng của Locke lan truyền đến lục địa nhờ Montesquieu, người đã mở rộng và phát triển chúng bằng cách đề xuất việc phân chia quyền lực nhà nước làm ba phần gồm: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lý thuyết của Montesquieu được đón nhận đến mức nó để lại dấu ấn mạnh mẽ lên mọi tư tưởng hiện đại về nhà nước. Cụ thể, những quan điểm của ông được phản ánh trong những bàn luận hiện đại về cái gọi là các quyền cơ bản hay các quyền tự nhiên của con người, được thiết lập dưới nhiều hình thức đa dạng và đưa vào nhiều thể chế khác nhau. Không nghi ngờ gì nữa, bằng việc đề xuất những ý niệm này, Locke đã có đóng góp vô cùng to lớn cho nhân loại.

Bất chấp những đóng góp rõ ràng và được công nhận, lý thuyết về khế ước của Locke vẫn còn nhiều thiếu sót. Lý thuyết của ông không giải thích được vì sao ta phải tuân lệnh nhà nước, do đâu mà đa số lại có quyền áp đặt luật lệ của mình lên thiểu số, và những cá nhân nên làm gì với phiếu bầu của mình. Phải chăng quyền năng vô hạn của các cá nhân đã thay thế cho quyền lực tối cao của những gia trưởng mà ông đã tìm cách loại bỏ? Trong khế ước, ta không thể tìm thấy một yếu tố nào – để chỉ nêu một khuyết điểm cụ thể – ngăn chặn sự độc tài, chuyên chế của số đông.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt