VƯƠNG KIỆT - TRƯƠNG HỮU NGHỊ | VŨ HUY VĨ dịch || Luận thuyết “phục hưng Nho học” từng gây xôn xao một thời. Thời điểm ra đời của luận thuyết này có thể truy ngược lên từ cuộc luận chiến văn hóa Đông Tây thời kì Ngũ Tứ.
DONALD HOLZMAN || Đối với Khổng Tử, chữ hiếu là nền tảng triết lý của ông, nhưng các ý kiến của ông cho thấy rằng, đối với ông, đức tính này phải vượt lên trên sự hợp lý thông thường và phải được coi là một cái gì bất khả xâm phạm.
Những kinh nghiệm gian lao của tuổi thơ đã giúp ông nhận chân nỗi thống khổ của dân nghèo và ông bắt đầu suy tư sâu sắc về nó. Ông nhận thấy cái thế giới mà ông đang sống đang phân rã ghê gớm và vì thế rất cần có những đổi thay quyết liệt.
Một trong những nhân tố thống nhất và làm cho các trường phái triết học nhích lại gần nhau là niềm tin cho rằng: tri thức triết học không phải là mục đích tự thân, mà nó chỉ là một phương tiện để chuyển hóa nội tâm nhằm đạt tới giải thoát tức mukti hay nirvana (Niết bàn)
Sự khó khăn trong việc đạt đến một hiểu biết mang tính chất phân tích về chủ nghĩa nhân văn Nho giáo, một trong những truyền thống phức tạp nhất và có ảnh hưởng lớn nhất vẫn tiếp tục tồn tại tại Đông Á, chủ yếu là do các lĩnh vực quan tâm căn bản của Khổng Tử
Vaisùesïika là một từ ngữ phát xuất từ chữ visùesïa. Chúng ta có ít nhất hai giải thích về ý nghĩa chữ này. Trên tổng quát, visùesïa có nghĩa là dị biệt hay đặc thắng, cho thấy khuynh hướng phân tích của hệ phái này. Hậu quả của khuynh hướng phân tích dẫn nó đến một đa nguyên thực tại luận.
Không thể qui con người cá nhân phương Ðông thành một số đặc trưng đơn giản và thuần nhất. Không, chúng ta cần tránh lối làm quen thuộc là lập ra một sơ đồ khái quát về con người cá nhân phương Ðông, từ sơ đồ “không có con người cá nhân” đến sơ đồ “có một khuôn mẫu cá nhân” cứng nhắc
Vedànta, khởi thủy là một danh hiệu được chỉ cho các tập Upanishads, bộ phận cuối của Veda. Nội dung của danh từ này chỉ định cho cứu cánh hay cùng đích của tư tưởng Veda. Cùng đích đó như đã được chính các bộ Upanishads quy định, hướng tới con đường tri thức của chiêm nghiệm thay thế cho con đường tế tự.
Tôi muốn tỏ ra cho biết hai bên trái ngược nhau, không thể dung nhau mà thôi: Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học; Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc; Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận. Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông và Tây nó phản đối nhau như phương nam với phương bắc, như mặt trăng với mặt trời.
Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử tới vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc chí Thánh vậy
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế, luôn luôn có những tiếng nói nghe ra như những cơn gió rì rào giữa các sa mạc của hư vô: ý nghĩa của một cứu cánh nào đó - cũng suy lý hay của đời sống - như một ngôi sao trên bầu trời của sa mạc.
Nghìn vàng là lợi to, khanh tướng là ngôi quý đấy. Nhưng ông không thấy con bò lúc tế giao hay sao? Nó được ăn mấy năm, được mặc đồ vóc thêu để đưa vào nhà thái miếu. Lúc bấy giờ, muốn làm con lợn nhỏ có được không ? Ông đi ngay cho , đừng làm bẩn đến ta.
Sự gặp gỡ giữa phương Tây và phương Đông từ thế kỷ XVIII đã gây nên một sự đảo lộn văn hóa quan trọng ở Châu Á. Từ thế kỷ XVIII, những giáo sĩ truyền giáo Dòng Tên đã du nhập tư tưởng phương Tây vào Châu Á. Từ đó, một bộ phận giới tinh hoa tri thức Trung Quốc bị quyến rũ và quay lưng lại với Khổng giáo còn chiếm ưu thế hồi đó. Những phong trào duy tân chủ yếu bắt đầu từ thế kỷ XX. nhiều trí thức Trung Hoa và Ấn Độ đến học ở phương Tây.
Triết học Đông phương. Trên quan điểm siêu hình, Nyàya là một học phái (darsùana) với đầy đủ những luận thuyết về bản thể và thực tại. Nhưng trên phương diện luận lý, nó là một hệ thống pháp thức suy luận được chấp nhận gần như phổ biến đối với tư tưởng triết học Ấn Độ. Nếu không xét đến tính cách dị biệt của triết lý, danh từ Nyàya được chấp nhận trên toàn thể như là căn cơ và pháp thức suy luận, mà chính ngay cả hậu kỳ Phật giáo cũng chấp nhận một cách tự nhiên.
Chính nhờ tư tưởng đã đi trước thời đại như vậy tự bên trong, không cần có bên ngoài tác động, mà vua Minh Trị mới dám quả quyết khi mở nước Nhật ra cho thế giới bên ngoài: duy tân là giữ hồn Nhật, chỉ mượn phương Tây về kỹ thuật mà thôi.
Con người hôm nay và con người hôm qua – con người của ngàn xưa – dường như không khác nhau là mấy. Cởi bỏ lớp vỏ bọc văn minh vật chất, con người ấy, dẫu hình hài có thanh tú mỹ lệ hơn con người ban sơ, nhưng nỗi khắc khoải vẫn còn nguyên vẹn...