ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
PHẬT GIÁO SAU THỜI ĐẠI VÔ TRƯỚC VÀ THẾ THÂN (thế kỷ VI-VIII)
KIMURA TAIKEN
Kimura Taiken. Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận. Thiên thứ nhất "Lịch sử tư tưởng của Đại thừa Phật giáo". Thích Quảng Độ dịch. Viện Đại học Vạn Hạnh. 1969. | Phiên bản điện tử: thuvienhoasen.org
Nhờ có Vô-Trước và Thế-Thân mà nền Phật Giáo sau thời Long Thụ được hoàn chính một phần lớn. Song, như đã nói trên kia, nếu nói một cách triệt để thì về phương diện lý luận, vẫn còn nhiều điểm cần phải khảo cứu. Hơn nữa, Phật Giáo thuộc hệ thống Long Thụ, do những người thừa kế như Đề Bà (Aryadeva), La Hầu La (Rahulabha-dra), Thanh Mục (Pingalga), v.v…đã căn cứ vào luận Trung Quán để chỉ chuyên khai triển về mặt Không Quán, và để bổ túc cho Phật Giáo Không Quán đã khởi xướng Phật Giáo Duy Thức, do đó mà lập trường của Phật Giáo Long Thụ hệ đã trở thành bất đồng. Như vậy, Đại Thừa Phật Giáo sau thời đại Vô-Trước và Thế-Thân đã trở thành người thừa kế cái gọi là Trung Quán phái (Không Quán phái) của hệ thống Long Thụ, cùng với Du Già Phái (Duy Thức phái), thừa kế hệ thốngVô-Trước, Thế-Thân là hai phái chỉ dương giữa các trào lưu Như-lai-tạng hệ. Kết quả, do các trào lưu cùng nhau luận chiến mà trong đó, bất luận là phái Trung Quán, phái Du-Già hay phái Như Lai Tạng đều đã phân hóa rất nhiều và cũng nhờ đó các Đại Luận sư, Tiểu Luận sư kế tục nhau ra đời và đã nhiều tư tưởngđẹp nảy nở. Đứng về mặt luận lý mà nói, Phật Giáo đến đây đã gần như hoàn bị. Đó là cái trạng huống của Phật Giáo trong khoảng hai trăm năm sau Vô-Trước và Thế-Thân. Nhất là ngôi chùa Na Lan Đa. một Đại Học Phật Giáo tại tiểu bang Bihar (Ấn Độ) ngày nay đã được thành lập sau thời đại Vô-Trước và Thế-Thân không bao lâu, và tại đây tất cả tài năng và nỗ lực đã được tập trung vào việc nghiên cứu và phát huy học vấn. Song, nếu xét ở một phương diện khác, vì sự nghiên cứu quá tinh vi nên Đại Thừa cũng đã lại mắc những khuyết điểm như Tiểu Thừa. Nghĩa là quá chú tâm vào việc nghiên cứu một cách quá chi ly mà làm cho Đại Thừa mất cái chân tinh thần hoạt bát của nó. Do đó mà Đại Thừa mất đi một phần nào tính cách thông tục, và trên phương diện tôn giáo thực tiễn, đã mất hiệu lực, đó là một sự thật hiển nhiên. Để cứu vãn tình thế này, tuy đã có một số kinh điển mới được kết tập, nhưng những kinh điển này đại kháichỉ bàn đến lý, chứ không có được cái phong thái ung dung, phóng khoát và hùng đại như các kinh Bát Nhã, Pháp-Hoa hay Đại Thừa Niết Bàn xưa kia. Để bổ cứu cho mối quan tệ đó, và cũng để thích ứng với thời đại mới mà làm cho tinh thần hoạt bát của Phật Giáo sống lại, những kinh điển của Bí Mật Bộ được kết tập được kết tập. Những kinh điển này bao hàm tất cả những tư tưởng Đại Thừa từ trước đến nay, hơn nữa, lại còn thân nạp cả chủ nghĩa Tân-Bà-la-môn, tuy có vẽ hùng vĩ, tráng lệ đấy. Song thật ra thì phần lớn tư tưởng Tân-Bà-la-môn được thâu nạp vẫn chưa có hệ thống. Chân-Ngôn-Mật-Giáo tại Ấn Độ chưa đủ để thành lập. Đề mục của chương thứ sáu này là thuyết minh những thứ tự đó nhưng vì vấn đề quá bao la nên ở đây chỉ nói một cách đại lược thôi.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC