PHÂN TÂM HỌC – MỤC LỤC
KHÁM PHÁ VÔ THỨC
J. P. Charrier. Phân tâm học. Lê Hoàng Thanh Dân dịch. Trẻ xuất bản, Sài Gòn, 1972. | Phiên bản điện tử do bạn Võ Trần Xuân Lộc thực hiện.
Trước Freud[1] những nhà tâm lý thường đồng hóa đời sống tâm linh với đời sống ý thức. Họ nghĩ rằng tất cả những hiện tượng tâm linh đều ý thức(2) Descartes chẳng hạn, đã đồng hoá cái “Tôi” với một “vật suy tưởng”, một vật mà bản chất là suy tưởng. Như vậy, tất cả những gì chúng ta gọi là vô thức đều được xếp vô đời sống sinh lý. Thật ra một vài triết gia cũng đã ghi nhận sự hiện diện của những lực lượng tâm lý, những lực lượng này thoát khỏi tư tưởng ý thức của chúng ta. Vào thế kỷ thứ 17 chẳng hạn, La Rochefoucauld đã xác nhận rằng lý do sâu xa của những hành vi của chúng ta không phải là những lý lẽ tốt đẹp mà chúng ta thường viện dẫn. Những lý lẽ tốt đẹp này thường che dấu một tính ích kỹ căn bản. Con người thường tưởng rằng mình tự do hành động, trong lúc thật ra mình bị bó buộc phải hành động.” Cũng vào thời kỳ này, triết gia Leibniz nghĩ rằng chúng ta không biết hết được được tâm linh của chúng ta, như vậy ý niệm về vô thức rất cần cho chúng ta để giải thích bản chất tâm lý học bản năng. Vào thế kỷ thứ 19, triết gia Schopenhauer nghĩ rằng trong mỗi chúng ta đều có một ý chí mù quáng và ngầm, ý chí này có tính cách căn bản và phát xuất từ căn nguyên của sự sống. Theo ông “Trí thông minh không biết gì hết về những quyết định của ý chí”. Vào cuối thế kỷ 19, Triết gia Nietzsche lại tỏ ra là người đi trước Freud, khi ông xác nhận rằng những động lực thúc đẩy chúng ta không phải là những lý lẽ tốt lành mà chúng ta thường viện dẫn để giải thích những quyết định của chúng ta. Theo ông, những quyết định này phát xuất từ một ý chí hùng bá, ý chí này là một ước muốn tăm tối và dữ dội muốn ngự trị người và vật. Vào lúc mà Freud bắt đầu những khám phá đầu tiên của ông, một nhà tâm lý người Pháp là Pierre Janet, cũng có những trực giác tương tự như ông: đặc biệt là ông nghĩ rằng nhân cách của chúng ta có nhiều tầng, mà chúng ta chỉ biết được có tầng ý thức mà thôi. Phần lớn những hành vi không đòi hỏi một sự chú ý đặc biệt đều phát xuất từ một phần tâm linh gần như là vô thức: ông gọi phần này là những hình thức sơ đẳng của ý thức(3). Và trong thực tế, ý niệm về vô thức rất quen thuộc đối với chúng ta, mặc dầu đôi khi chúng ta không biết tới những khám phá của Freud. Chúng ta nhận thấy, ẩn núp đằng sau những biện minh đạo đức hay tôn giáo, những lý do tâm tối thoát khỏi lý trí, những động lực phi lý của hành động con người. Sự hiện diện của một bộ máy tâm linh vô thức, bộ máy này là sản phẩm của một tâm linh xưa cũ hơn, bộ máy tâm linh của bản năng, vẫn còn rất mạnh nơi trẻ con, sự hiện diện này vẫn còn thể hiện trong những lúc mơ màng, được thể hiện trong những hình ảnh chập chờn của những lúc nửa thức nửa ngủ. Trong những lúc như vậy, cuốn phim những biểu tượng của chúng ta, nội dung của chúng, sự nối tiếp của chúng và sự vang dội tình cảm mà những hình ảnh này tạo ra nơi chúng ta, tất cả đều vượt qua ngoài sự kiểm soát của ý chí chúng ta; và mọi việc xảy ra như ý thức của chúng ta trở thành chứng nhân của những gì xảy ra trong một tâm linh xa lạ. Nhưng chính nhờ vào sự phát triển của tâm lý học vào thế kỷ 19 và nhất là tâm bệnh lý học(4) mà chúng ta được biết rõ ràng hơn và chính xác hơn về ý niệm vô thức. Đặc biệt là người ta phân tách kỹ lưỡng hơn những trường hợp nhị hóa nhân cách. Những trường hợp này cho thấy rằng một người suy nhược và mất quân bình có thể làm nhiều hành động có ý nghĩa, những hành động này được thực hiện trong những trạng thái không ý thức, như một giấc mơ hay những trạng thái thụy du (Somnambulisme). Những hành vi này không phải rời rạc và bất nhất, nhưng thoát khỏi ý thức của người làm ra chúng, và có vẻ như tuân theo một luân lý “khác”, một loại luân lý của trẻ con, một loại luân lý đứng ngoài những mệnh lệnh của lẽ phải thông thường, hay của luân lý xã hội(5). Khi Freud còn là một bác sĩ trẻ, ông cũng có dịp quan sát nơi phòng mạch của giáo sư Bernheim, một nhà chuyên môn về bệnh thần kinh tại Nancy, nơi ông tới để tập sự, những bệnh nhân có những dấu hiệu ám thị sau khi thôi miên (Suggestion à échéance). Chúng ta có thể tóm tắt việc “Ám thị có kỳ hạn” như sau: khi một người đang ngủ trong giấc ngủ thôi miên(6) bác sĩ ra lệnh cho anh phải làm một hành vi nào đó nhất định, vào một lúc nào đó, chẳng hạn như làm một hành động phi lý, như là bò trong phòng nửa giờ sau khi được đánh thức. Sau khi ám thị như vậy, người ta đánh thức bệnh nhân. Sau khi được đánh thức, người bệnh lấy lại được ý thức của mình, và không nhớ được mệnh lệnh đã nhận khi ngủ, một cách ý thức… Nhưng khi tới giờ mà bác sĩ đã quy định, người bệnh táy máy, có vẻ như muốn tìm kiếm một cái gì, và sau cùng bò trong phòng, viện dẫn lý do anh ta đã làm rớt tiền lẻ hay làm rớt nút áo, và bò như vậy, tìm kiếm bên phải rồi bên trái, và rốt cuộc bò chung quanh phòng như lời bác sĩ đã ra lệnh trước đây, mặc dầu anh ta không nhớ tới lệnh này, và mặc dầu anh tưởng tự ý làm hành động này(7). Đối với Freud, cuộc thí nghiệm nầy có rất nhiều ý nghĩa. Thật vậy, nó chứng tỏ: 1. Sự hiện hữu của một tâm linh vô thức, tại vì chủ thể đã hiểu và ghi nhận một mệnh lệnh xác định, điều mà một bộ máy sinh lý không thể làm được; 2. Sự can thiệp của vô thức vào đời sống ý thức dưới hình thức phản ứng có kỳ hạn; 3. Tâm linh ý thức của chúng ta có thể tạo nên nhiều lý lẽ rất hợp lý, nhưng giả tạo và bịa đặt, những lý lẽ này không phải là nguyên động lực thật sự của hành động. Nhìn kỹ hơn, chúng ta thấy cuộc thí nghiệm này chứa đựng phần lớn lý thuyết phân tâm học: những năm đầu tiên của tuổi trẻ tương tự như giấc ngủ thôi miên. Trong những năm này, đứa trẻ chịu nhiều ảnh hưởng, nhiều ấm thị cản trở những thèm muốn và những khuynh hướng của nó. Do sự cản trở này phát sinh những xung khắc, những chấn động(8) tâm lý, mà đứa trẻ và cả người lớn cũng không nhớ, nhưng chúng vẫn can thiệp thường xuyên vô những hành động của họ mà họ không biết. Thật vậy, ý tưởng chính mà Freud và môn đồ của ông (K. Abraham, E.Jones, K. Horey) khai triển, đó là xã hội dồn ép những khuynh hướng sơ đẳng của chúng ta từ nhỏ, dồn ép chớ không hủy diệt hoàn toàn được. Một mặt sự dồn ép tạo nên những xung khắc trên phương diện tâm lý, mà một vài người trong chúng ta không giải quyết được, điều này làm ngưng trệ hay xáo trộn sự phát triển nhân cách của họ, và sự trưởng thành của họ. Mặt khác, những khuynh hướng bị dồn ép không biến mất hẳn, mà vẫn tồn tại dưới lớp vỏ những tập quán xã hội, và lợi dụng những cơ hội bất ngờ để thể hiện, hoặc là thể hiện một cách tự do và dữ dội dưới hình thức trò chơi, chiến tranh, ngược đãi v.v… hoặc dưới hình thức biểu tượng và che dấu dưới những biến cố được quan niệm như không quan trọng: dưới hình thức giấc mơ, giấc mơ này đề nghị những thỏa mãn bị cấm đoán cho những thèm muốn bị dồn ép của chúng ta: dưới hình thức lầm lẫn (lapsus)(9) thiếu sót(10), những hành vi bệnh hoạn(11) Tất cả những năng lực đã bị những cưỡng chế xã hội dồn nén cũng chờ cơ hội tốt để tự giải thoát bằng cách phá vỡ những đê điều mà xã hội đã đắp lên, ngăn chận những bạo tàn của nhân loại cổ xưa. Tuy nhiên năng lực của những thúc đẩy bị dồn ép này cũng có thể tìm ra được những lối thoát, bằng cách hỗ trợ cho những hoạt động tinh thần của con người (hoạt động nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, tôn giáo…) Trong trường hợp này, người ta nói rằng năng lực đã được thăng hóa, nghĩa là đã được hướng sang những mục tiêu khác hơn là những mục tiêu thông thường, mà thiên nhiên nhằm tới. Theo Freud, tất cả những cố gắng của văn hóa và văn minh phải nhầm làm cho chúng ta chấp nhận những cưỡng chế của xã hội, bằng cách bù lại đề nghị với chúng ta những thú vui tinh thần: thú vui trao đổi kiến thức, thú vui cùng nhau thực hiện những chinh phục kỹ thuật, thú vui thẩm mỹ, thú vui thương yêu và được thương yêu. Tuy nhiên Freud nghĩ rằng văn hóa phần lớn đã không hoàn thành trách vụ của mình, và đó là nguyên nhân của sự thiếu quân bình, của những đau khổ và bạo tàn của chúng ta. Sở dĩ như vậy trước hết là tại vì những phương thức giáo dục của chúng ta không biết tới những nền tảng vô thức của cảm tính của trẻ,vì vậy đụng chạm mạnh đứa trẻ, bó buộc nó một cách bạo động, để rồi sau cùng tạo nên nơi mỗi cá nhân một bản ngã xã hội, hết sức hời hợt và mỏng manh, những nguyên động lực thúc đẩy bản ngã này do một siêu ngã ảnh hưởng, siêu ngã này đàn áp những thèm muốn của chúng ta, nhưng thường thường không cho phép chúng ta hiểu những xung khắc giữa những thèm muốn này và những cấm đoán xã hội. Chính tại vì xã hội bó buộc chúng ta phải sống như là kẻ tử thù của chính mình, mà xã hội là nguồn gốc của những mặc cảm của chúng ta: Xã hội chỉ biết đàn áp những thúc đẩy của chúng ta, mà không cần chú trọng tới những hậu quả của sự dồn ép. Mặt khác, xã hội chỉ cho phép một thiểu số được ưu đãi, thăng hóa những năng lực bản năng của mình trong những hoạt động cao đẹp mà thôi. Phần lớn nhân loại vẫn còn sống dưới sự cưỡng chế của những đòi hỏi xã hội, đạo đức và tôn giáo một cách sơ đẳng, mà không hiểu lý do của những đòi hỏi này, cũng không được hưởng những đền bù của nền văn minh. Chính vì vậy mà quần chúng cơ cực trên phương diện tinh thần, cũng như hay thay đổi. Sau cùng Freud nghĩ rằng những trừng phạt xã hội, mà người ta luôn luôn kèm theo những đe dọa tôn giáo, chỉ đàn áp con người mà thôi, chớ không làm cho họ “lành bệnh”, vì vậy làm phát sinh một mặc cảm tội lỗi tập thể, bệnh hoạn, mặc cảm này tạo nên sự mất quân bình tâm linh trầm trọng. Như vậy khoa tâm lý học của Freud thật sự là một khoa học tâm lý học chiều sâu. Nó phát lộ cho chúng ta thấy rằng đời sống tâm linh không phải chỉ hạn chế trong những gì chúng ta ý thức được mà thôi, rằng dưới những động lực ý thức và những quyết định hợp lý, có một bộ máy tâm linh ở đó những nguyên động lực được dấu diếm, vô thức hay bị dồn nén vẫn tác động. Nó lôi kéo sự chú ý của chúng ta về sự giáo dục, là sự chuyển hướng từ thiên nhiên tới văn hóa, không phải được hoàn thành mà không hậu quả tai hại, tai hại ở giáo dục đã tạo nên trong nhân cách của chúng ta những xung khắc đánh dấu chúng ta từ nhỏ, vì vậy mỗi kinh nghiệm mới của chúng ta trong hiện tại đều phản ảnh phần nào quá khứ vô thức của chúng ta. Tóm lại, khoa tâm lý học của Freud cho chúng ta thấy rằng tính cách thống nhất và ý thức của cái tôi chỉ bề ngoài mà thôi. Do những yếu tố nêu trên ngày nay nó có thể được quan niệm như một trong những phương pháp căn bản của khoa học nhân văn.
[1] Sigmund Freud(1856-1939) là một bác sĩ người Áo đã nổi danh nhờ khám phá ra một phương pháp mới trong việc phân tích tâm linh con người. Phương pháp mới này giúp chúng ta hiểu được những tiến trình của vô thức. Những tác phẩm chính của Sigmund Freud là bình giải những giấc mơ (1990), Tâm bệnh lý học của đời sống hằng ngày (1901); Ba bài tiểu luận về lý thuyết tình dục (1905); Vật tổ và cấm kỵ (1912); Phân tâm học nhập môn (1917); Khủng hoảng văn minh (1930) (2) Đó là quan điểm của Descartes và Kant (3) Đọc Pierre Janet, L' automatisme Psychologique, nhà xuất bản Alcan. (4) Tâm lý bệnh học: Khoa học về những bệnh tâm lý. (5) Như chúng ta biết, Pascal cũng đã nói tới những lý lẽ của con tim, cái luân lý của tình cảm và đam mê, mà lý trí mù mịt. (6) Giấc ngủ thôi miên: Giấc ngủ giả tạo trong đó ý chí của người bị thôi miên chịu sự ngự trị của ý chí người thôi miên. Hiện tượng này có thể xảy ra nơi những người dễ bị ám thị. Người ta sử dụng phương pháp thôi miên trong tâm bệnh lý học để ám thị cho bệnh nhân những động thái giúp họ lành bệnh, chẳng hạn bảo họ làm một vài hành vi nào đó, hay bảo họ nói một số lời lẽ nào đó, giúp họ thoát khỏi những ám ảnh của họ. Những bệnh nhân được ngủ với chất hóa học cũng có thể làm đủ thứ hành động, mà sau đó họ không nhớ. Hãy đọc thêm P. Clauchard La médecine psychosomatique, P.U.F. (7) E. Pesch, La Pensée de Freud, nhà xuất bản Bordas (8) Chấn động là traumatisme. Từ ngữ traumatisme do một từ ngữ Hy Lạp phát sinh, có nghĩa đụng chạm. Trên phương diện tâm lý, từ ngữ traumatisme được dùng để ám chỉ tất cả mọi biến cố làm xáo trộn sự thăng bằng nhân cách, biến cố này tạo nên một chấn động cảm xúc. (9) Lapsus: có nghĩa là nói lầm chữ này với chữ khác, Những nhà tâm lý nghĩ rằng những chữ được nói ra một cách vô tình diễn tả những thèm muốn vô thức và dồn ép của chúng ta. (10) Thiếu sót (actes manqués) có nghĩa là những hành động thất bại, chẳng hạn như quên một cách vô tình, lầm lẫn mất những vật quý, vụng về bất ngờ. Những hành động thất bại này do hai ý định trái ngược nhau phát sinh, trong đó một ý định bị những bắt buộc xã hội dồn ép, nhưng sau cùng vẫn thể hiện được một cách bất ngờ. (11) Hành vi bệnh hoạn là những hành vi thể hiện một trạng thái tâm bệnh, cho thấy sự hiện diện của bệnh névrose (tâm bệnh nhẹ ở đó những cơ năng chính yếu của nhân cách không bị ảnh hưởng).
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC