CÁI ẢNH HƯỞNG CỦA KHỔNG GIÁO Ở NƯỚC TA
PHAN KHÔI (1887-1959)
VII. VỀ CÁI THUYẾT MINH ĐỨC TÂN DÂN
Cái thuyết nầy có trước Khổng Tử hơn 1500 năm. Hồi đó sử thần nhà Ngu chép về đức tánh và công nghiệp vua Nghiêu mà rằng : “Vua hay sáng đức lớn, để gần chín tộc, chín tộc đã hòa ; bằng sáng trăm họ, trăm họ chói sáng ; hiệp hòa muôn nước, dân đen hết thảy đều biến hóa đến lành”. Đó tức là chương đầu hết trong Kinh Thơ[1], đại ý nói vua Nghiêu trước làm cho sáng cái đức mình, rồi lần lần cảm hóa hết thảy thiên hạ.
Tuy vậy trong đoạn sách đó mới có chữ “minh đức”, còn “tân dân” thì chỉ có ý mà chưa có chính chữ “tân dân”. Vả lại, từ hồi đó cho đến Khổng Tử, dầu cái thuyết ấy đã có rồi, cũng chẳng ai để ý mấy.
Chính bốn chữ “minh đức tân dân” bắt đầu có từ sách Đại học, nói rằng : “Đại học chi đạo tại minh đức, tại tân dân”. Nghĩa là : Cái đạo của đại học ở sự làm cho sáng đức sáng, ở sự làm cho mới dân. Nói theo tiếng ta cho xuôi thì bốn chữ minh đức tân dân ý nó là : mình phải sửa mình, làm cho sáng cái đức của mình ra, rồi nhân đó làm cho dân trở nên mới.
Phải biết rằng sách Đại học nguyên là một thiên trong Kinh Lễ mà không biết ai làm ra. Từ xưa nó vẫn nằm yên trong Kinh Lễ. Đến Tống nho mới cho là chính đạo Khổng ở thiên ấy bèn rứt ra cho độc lập làm một cuốn sách, và ông Chu Hy chú thích nó. Chu Hy chẳng cứ vào đâu hết, nói phứt đi rằng “ấy là lời của Khổng Tử nói mà Tăng Tử thuật lại”. Rồi từ đó học giả ai nấy đều tin theo, mà “minh đức tân dân” thành ra một cái nghĩa lớn trong đạo nho vậy.
Theo tôi, cứ mực đen giấy trắng, thì cái thuyết này không biết có chắc phải của Khổng Tử không ; song theo Tống nho và hết thảy nhà nho từ bấy đến giờ đều nhìn là của Khổng Tử hết, thì tôi cũng cho là của Khổng Tử. Vậy, trong sự ấy, nếu có lầm, là lỗi ở bọn ông Chu Hy chớ không phải ở tôi.
Nói rút lại, cái thuyết minh đức tân dân,lâu nay người ta đã cho là cương lãnh của Khổng giáo, nghĩa là như lưới có giềng, áo có cái bâu, hệ trọng lắm ; song đem so với Tây học ngày nay thì rất là tương phản, [. . . . . . ][2]
Sách Đại học nói như đã dẫn trên kia rồi chỉ ra một cái phương pháp. Cái phương pháp ấy là : bắt đầu phải cách vật, rồi trí tri, rồi thành ý, rồi chánh tâm, rồi tu thân, đó là về phần minh đức, kế đến, rồi tề gia, rồi trị quốc, rồi bình thiên hạ, đó là về phần tân dân.
Cái ý cốt của nó là như vầy : Trước hết mình phải tu thân cho nên người trọn vẹn, rồi lấy mình mà cảm hóa mọi người, từ gần đến xa, tức là ở nhà, ra nước, ra thiên hạ, theo như sách ấy dạy rằng : “Người quân tử chẳng ra khỏi nhà mà làm nên sự giáo hóa trong nước : Hiếu, ấy là điều để mà thờ vua ; đễ, là điều để mà thờ kẻ lớn ; từ, là điều để mà khiến chúng dân... Chưa hề có ai học nuôi con rồi sau mới gả lấy chồng”[3]
Những lời trên đó là dịch y theo nguyên văn, không sai một chữ. Rõ là trái với khoa học quá.
Lẽ cảm hóa trong loài người vẫn có, nhưng có giới hạn, và cũng gần như sự ngẫu nhiên, không cả quyết được. Dầu cho thánh đến bậc nào cũng không có thể lấy một mình mà cảm hóa hết thảy thiên hạ được. Sự ấy xưa nay chưa hề thấy. Trên kia có dẫn một chương đầu của Kinh Thơ nói vua Nghiêu hay sáng đức lớn rồi cảm hóa từ nhà ra nước, làm cho dân đen hết thảy đến lành. Đó chẳng qua là bọn sử thần đặt điều nói láo, tìm lời cho rột[4] để nịnh hót vua mình, chớ sự thiệt có phải thế đâu. Chính trong Kinh Thơ cũng có chép rằng con trai cả của vua Nghiêu là Đơn Châu ngạo ngược bậy bạ mà vua không chịu nổi, đến nỗi vua không truyền ngôi cho mà phải tìm người hiền để truyền cho, là ông Thuấn. Rất đỗi chính con trai đầu lòng của vua, một giọt máu của vua đó mà vua còn không cảm hóa được nữa là cảm hóa ai ? Huống chi thời bấy giờ có bốn người đại ác, thiên hạ kêu là “Tứ hung” mà vua Nghiêu không trị nổi, đợi đến vua Thuấn lên ngôi mới trừ khử được, thì càng tỏ ra lời sử thần trên kia là phỉnh dối.
Nếu vậy thì cái nguyên tắc minh đức tân dân ở đâu ? Cái công hiệu tu thân, tề gia, trị quốc ở đâu ? Phàm sự gì không thể cắt nghĩa được, không thể thiệt nghiệm được, ấy là trái với khoa học.
Theo khoa học thì tu thân và trị quốc là hai việc, không dính dấp nhau. Tu thân là để mà dưỡng thành nhân cách. Vậy cách vật trí tri để dưỡng phần trí dục, thành ý chánh tâm để dưỡng phần đức dục, có vậy nhân cách mới hoàn, lẽ ấy đành phải rồi. Song muốn trị quốc thì lại phải dự bị các món học thức khác : phải học chánh trị, pháp luật, kinh tế, vân vân, tốt nghiệp rồi mới ra làm được công việc trị quốc. Vả lại, ai học môn nào thì làm việc ấy, chớ không thể một người mà làm được mọi việc. Trong Tây học cũng có nói sự cảm hóa, cũng trọng sự làm gương tốt cho xã hội, song lại thuộc về vấn đề khác, chớ không dính với việc trị quốc chút nào.
Cách trị quốc của Khổng giáo là theo “nhân trị chủ nghĩa”, lấy người mà trị, còn cách trị quốc bên phương Tây ngày nay là theo “pháp trị chủ nghĩa”, lấy pháp mà trị.
Cái thuyết minh đức tân dân tức là cách nhơn trị. Nhơn trị không phải là cách lâu dài. Chính đức Khổng Tử cũng nói rằng : “Người còn thì việc chánh cất lên, người chết rồi thì việc chánh dứt mất”[5]. Pháp trị thì nhờ có hiến pháp và pháp luật đành rành, ai cũng có thể cứ theo mà cai trị được, không cần phải có người thánh hiền, không cần phải có ai cảm hóa ai.
Cứ theo cái thuyết “pháp trị” phương Tây ngày nay thì trong một nước mỗi người đều có quyền lập pháp và cũng đều có nghĩa vụ phải thủ pháp. Song theo thuyết minh đức tân dân thì chỉ có một số ít người ở trên, làm gương tốt cho xã hội, có thể lập pháp mà thôi, còn bao nhiêu người khác đều phải tùy theo những người trên ấy cả. Chỗ trái nhau là ở đó. Huống chi, nói rằng cứ tu thân rồi, minh đức rồi, thì suy ra mà làm mọi việc đều được, cái đó lại còn trái với sự thiệt đời nay hơn nữa. Theo đời nay, theo các việc người Tây hiện làm bây giờ, không có việc gì không học mà làm được. Sách Đại học nói không hề có ai học nuôi con rồi mới lấy chồng, song chính ngày nay, ở các nước văn minh, con gái trước khi lấy chồng cần phải học phép nuôi con !
Theo thuyết minh đức tân dân thì cái ý nghĩa của nó cũng là cao thượng thật, song sai với sự thật xa lắm, sai với sự thiệt đời nay lại càng xa lắm ! Cái chỗ nhược điểm của nó là, theo tình thế trong xã hội, chỉ có một mình ông vua có thể làm trọn theo thuyết ấy mà thôi, vì minh đức thì là việc chung cho mọi người, còn tân dân chỉ ông vua mới có quyền chớ không phải hết thảy ai ai đều có quyền ấy. Thế nhưng cái thuyết ấy từ xưa đến nay chưa chắc đã tạo ra được nhiều ông vua thánh, mà chỉ tạo ra được một bọn sĩ phu không có thiệt học và một lũ dân hèn, chỉ biết chịu cảm hóa, chỉ biết trông lên đó thôi.
Bài tới đây sẽ thấy cái ảnh hưởng của nó ở nước ta ra thế nào.
Mấy trăm năm nay cái thuyết minh đức tân dân nó làm hại cho sĩ phu nước ta nhiều lắm, nhứt là trong thời mà khoa cử thạnh hành. Cái hồi còn đương đi học thì người nào cũng nhắm vào hai chữ “tân dân” đó mà ôm những cái hi vọng hão huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ ông kia, sẽ ra kinh bang tế thế, rồi mình sẽ “thượng trí quân, hạ trách dân” làm nên công nghiệp, ghi vào thanh sử đến đời đời ; không ngờ thi không đậu hoặc đậu mà không làm ra trò chi, rồi trở nên thất vọng, thiếu điều ngã ngửa người ra, tay chưn xuội lơ và bủn rủn. Còn người nào đắc thời, thi đậu, ra làm quan, thì lại ỷ rằng mình bấy lâu đã có cái công phu “minh đức”, nghĩa là mình đã học giỏi rồi thì bây giờ cứ việc “thố sở học vu sở hành”, chớ có lo chi ? Bởi vậy mới có những ông thượng thơ bộ hộ mà chẳng hề làm chạy bốn phép toán ; thượng thơ bộ binh mà cả đời chẳng hề biết đến cái lưng con ngựa ra sao, cái cò của khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như đức Thượng đế cả, nghĩa là toàn trí toàn năng cả : bữa nay làm Đốc học, tác thành cho một mớ nhân tài, đến mai đi làm tướng đánh giặc, coi muôn binh ngàn ngựa, đến mốt đi làm Đổng lý, coi việc bắc cầu, đào sông hay là đắp đê, là việc của mấy ông anh-rê-nhơ[6]. Trời ôi, giỏi quá.
Trong cửa đức Khổng cũng có khoa chánh sự, học về binh, hình, lễ nhạc, chẳng phải không ; song người An Nam ta sau đây lại giỏi hơn môn đồ của Khổng Tử nữa, không cần học cũng biết : cứ minh đức tân dân ấy là đủ !
Cho đến ngày nay đua nhau học Tây, người ta cũng còn vẫn[7] giữ cái quan niệm ấy. Tôi hãy nghiệm xem từ những việc nhỏ nhỏ. Ở Trung kỳ, khi tôi đến chơi nhà anh em quen, thấy đứa con nít nào ngoan ngoãn, hỏi nó đi học chữ tây sau làm chi, thì mười đứa hết chín trả lời rằng sau làm công sứ (Resident de la province) ! Vẫn biết câu ấy là câu nói chơi của kẻ lớn bày cho chúng nó, song nội đó đủ thấy cái quan niệm về tân dân của người mình. Vì người ta tưởng rằng học chữ Tây mà muốn làm ra cái công hiệu tân dân thì làm thầy thông thầy phán không đủ, phải công sứ mới được, nhưng quên lửng đi rằng cái lỗ mũi An Nam không khi nào làm nên đến công sứ được !
Chẳng những thế mà lại đã có bao nhiêu việc thiệt bày ra trước mắt chúng ta. Mấy ông thông ngôn, phán sự, cả đời chỉ vừa xách cái cặp giấy vừa chạy trong các tòa bố tòa sứ, đã biết đến việc trị dân trị nước là gì, mà rồi cũng vùng một cái nhảy ra làm phủ huyện ngay được, thậm chí sải cẳng chừng vài cái là bước lên ngôi tổng đốc. Tôi nói làm vậy, không phải là công kích chi các ông ấy đâu, không phải chê các ổng làm không nổi phủ huyện tổng đốc đâu, hễ tấn sĩ cử nhân An Nam làm được, thì các ổng cũng làm được vậy chớ. Song tôi nói, để cho tỏ ra rằng cái nguyên tắc minh đức tân dân nó cai trị cái óc người An Nam, cả vừa bên Hán học, lại vừa bên Tây học.
Ngày nay phải theo khoa học mà rửa cho sạch cái óc ấy đi. Việc gì nó có quan hệ với nhau hãy nên cho là có quan hệ, còn việc gì nó rời nhau ra thì thôi, không nên nghĩ lù mù xấp nhập vào như vậy nữa. Có bỏ những cái quan niệm mập mờ ấy thì mới có tấn hóa được ; bằng không, tôi tưởng dầu có một vạn cái trường chuyên môn, đào tạo nhân tài ra như củi, là cũng chẳng ăn thua gì, vì thứ đồ nhân tài ấy chỉ là như những cái máy để đợi có người vặn mà thôi.
Cái thuyết minh đức tân dân nó làm hại đến cả và dân chúng nữa. Tôi đã nói trong bài trước, nó tạo ra được một lũ dân hèn, chỉ biết chịu cảm hóa, chỉ biết trông lên mà chờ.
Hồi sau khi Tây Hồ tiên sanh mất rồi, ở các miền nhà quê miệt Lục tỉnh có nhiều chỗ đồn rằng tiên sanh chưa chết, hay là chết rồi mà đã sống lại ( !), độc giả chắc cũng có nhiều người nghe thấy, song có ai nghĩ thử cái đó là cái tang chứng gì chăng ? Đó chính là cái ánh sáng dội (réflexion de la lumière) của cái thuyết minh đức tân dân nó rọi ngược lại vậy.
Cái thuyết ấy tiếng là buộc cho hết mọi người , song bài trước đã nói rồi, chỉ có ông vua mới có quyền tân dân mà làm trọn được, thành ra chỉ là một cái học thuyết riêng cho vua (hay là quan to), còn dân ở dưới không dự đến. Bởi vậy từ xưa đến nay cái lòng dân An Nam mình đối với số phận của nước vốn không phải là nguội lạnh mà tự nhiên có ra nguội lạnh. Vì họ nghĩ bổn phận dân hèn như họ có dự gì đến cái công cuộc trị quốc bình thiên hạ đâu mà nói cho mất công ; song trong lòng họ sốt sắng lắm chớ, họ hằng ngày cầu trời khấn phật, trông cho có ông thánh chúa minh quân ra đời, “ngài làm sáng cái đức ngài trước đi, rồi ngài cảm hóa một cái, ấy là chúng tôi đều trở nên mới sát rạt hết” !
Hồi trước, đức Thành Thái ở kinh đô, hát xướng luôn đêm, chơi bời thả cửa, mà khi ngài ngự vô Sài Gòn, ngự ra Hà Nội, thiên hạ còn kính mến hết lòng, nhiều ông già bà cả thấy phớt qua bóng ngài đi mà động lòng nước cũ vua xưa đến nỗi nhỏ hai hàng nước mắt. Cho đến ông Cường Để nằm bẹp bên Nhựt Bổn, mà ở bên nầy cũng có kẻ dám thấy vì bệ hạ tương lai ấy trong chiêm bao. Nói cho phải, cái ngòi bị ẩm ấy tắt hẳn đi, là từ lúc đức Khải Định sang Pháp về.
Cứ trông lên ! Cứ ngửa mặt ngó ! Ngày nay hết trông lên quân chủ rồi, thì người ta lại trông lên anh hùng.
Nghe tiếng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, bây giờ cả đến Nguyễn Ái Quốc nữa, thì người ta tưởng rằng nội một người trong mấy người ấy cũng đủ lấy nước Nam lại được, cứ đứng ngoài mà trông, thiết tha mà trông ; còn mình đây ? mình đây là đồ xả rác !
Chớ có lấy con mắt khinh thường mà coi những học thuyết. Nó là vật không thấy được, không rờ đến được, nhiều người chẳng biết đến nó là gì. Có ngờ đâu một cái học thuyết đủ làm cho cả một nước tư tưởng đều sai lầm đi, quan niệm đều thiên lệch đi, tâm lý đều bủn rủn đi, mà cứ mãi như thế, có ngày đến diệt vong ! Bây giờ đem bốn chữ “minh đức tân dân” mà hỏi từng người An Nam, thì chắc có phần rất nhiều không hiểu nó nữa, nhưng vì cái ảnh hưởng đã lâu đời nay nên nó đã choán cả trong óc mọi người, và đương làm hại chưa thôi.
Người An Nam ngày nay muốn theo văn hóa mới ư ? Muốn bắt chước Tây ư ? Muốn sống ư ? Muốn đi con đường khoa học để bước lên nền văn minh ư ? Hãy cạo bốn chữ minh đức tân dân trong óc mình đi.
Ấy là trái phá thứ nhứt thả vào một cái đồn hiểm yếu của Khổng giáo.
VIII. VỀ CÁI THUYẾT TRUNG DUNG
Tôi phải thú nhận rằng cho đến ngày nay tôi vẫn chưa hiểu rõ trung dung là cái gì. Theo lẽ, cái gì không hiểu rõ thì không nên phê bình nó ; song tôi lại có đủ lẽ khác để phê bình cái thuyết trung dung.
Trước hết tôi phải gạn lại về cái định nghĩa (définition) chữ trung dung.
Thuyết trung dung thấy ra trong sách Trung dung. Sách nầy cũng nguyên là một thiên trong Lễ ký mà Tống nho lấy ra như Đại học. Trình tử cho rằng lời của Khổng Tử truyền lại, rồi sau cháu nội ngài là Tử Tư chép lấy. Lời Trình tử đó tin được, là vì trong sách Trung dung, chương nào cũng có chữ “Tử viết” tỏ ra là lời đức Khổng Tử nói. Lại trong sách Luận ngữ, là sách đáng tin hơn hết, cũng có một chỗ nói về trung dung.
Đương thời Khổng Tử và Tử Tư, trung dung nghĩa là gì, chắc ai ai cũng hiểu với nhau. Nhưng lâu đời rồi chữ nghĩa khác lần đi, người ta cần phải chú thích mới hiểu được. Trong sự học vì điều đó mà sanh ra nhiều cái khó.
Về chữ trung dung, theo Trình tử giải thích thì trung là không thiên lạch, dung là không thay đổi. Song le, chính đức Khổng Tử có nói rằng : “Quân tử theo lẽ trung dung, vì đã là quân tử mà lại theo thời lấy trung”[8]. Như vậy, đã theo thời lấy trung thì lẽ trung mỗi thời một khác, sao lại gọi là không thay đổi ? Ở nơi khác, Trình tử lại nói : “Chữ trung rất là khó biết, ta phải hiểu ngầm trong lòng. Giả như một cái phòng thì chính giữa phòng là trung ; một cái nhà thì chính giữa nhà là trung nữa ; một nước thì chính giữa nước là trung, mà cái nhà hồi nãy lại không phải là trung”[9]. Vậy thì Trình tử lại đã nhận cho trung có thay đổi rồi.
Chu tử chừng như đã dòm thấy chỗ mâu thuẫn của Trình tử, bèn giải chữ dung ra nghĩa khác. Giải rằng : “Trung không có cái thể nhứt định, theo thời mà ở, ấy là cái lẽ bình thường”[10]. Xin độc giả nhớ lấy, Chu tử giải chữ dung là bình thường. Đã là lẽ bình thường thì ai ai cũng có thể hiểu được mới phải. Nhưng chính đức Khổng Tử lại nói rằng : “Lẽ trung dung thật là tột vậy thay, đã lâu rồi, người ta ít làm theo được !”[11]. Ngài lại nói rằng : “Thiên hạ, nước nhà, có thể quân bình được ; tước lộc, có thể từ đi được ; gươm dao, có thể xông vào được ; chớ trung dung, không thể làm theo được !”[12]. Ngài lại nói rằng : “Quân tử nương theo lẽ trung dung, trốn đời, đời chẳng biết mình mà mình chẳng ăn năn, duy có ông thánh mới làm được như vậy”[13]. Đó, cứ như mấy lời ngài nói : “Người ta ít làm theo được”, “không có thể làm theo được”, “duy có ông thánh mới làm được”, thì sao lại gọi là lẽ bình thương ?
Coi đó thì một chữ dung mà Trình Chu trái với Khổng, Chu Trình lại trái với nhau, Trình lại trái với Trình nữa, rối như vò tơ, mờ như sa mù, tôi chẳng biết đường nào mà nói.
Đến chữ trung, thì Trình Chu giải nghĩa đều giống nhau, cho là chính giữa cả. Cứ như lời ví dụ về phòng, nhà, nước của Trình tử trên kia thì chừng như có thể hiểu được. Thế nhưng, cái phòng cái nhà là hữu hình để mà tìm ra cái chính giữa của nó được, còn sự lý vô hình thì biết cái chính giữa của nó ở đâu mà mò ? Trình tử chưa phải là người lập ra thuyết trung dung, thôi thì bỏ đi mà hỏi Khổng Tử.
Khổng Tử có nói về vua Thuấn mà rằng : “Cầm hai đầu cùng, dùng cái trung của nó ra cho dân”[14]. Ngài nói hai đầu cùng và trung, thì tôi tưởng tượng ra hình như một cái thước. Bây giờ người ta đưa cái thước cho tôi, tôi thấy hai đầu cùng rồi, thì tôi tìm ra trung được. Song sự lý trong thiên hạ thật không phải như cái thước, thì biết hai đầu cùng của nó ở đâu mà tìm ra cho thấy cái trung ?
Ta nên hỏi đến Mạnh Tử. Mạnh Tử phục Khổng Tử lắm, là vì cái đạo trung dung của ngài. Mạnh Tử có nói rằng : “Dương tử thì vị ngã, nhổ một cái lông mà lợi cho thiên hạ, cũng không làm ; Mặc tử thì kiêm ái, mòn từ đầu đến chưn mà lợi cho thiên hạ, cũng làm. Tử Mạc thì chấp trung. Chấp trung thì gần phải”[15]. Mới nghe qua đoạn nầy, tưởng chừng như có manh mối một chút. Dương thì vị ngã, Mặc thì kiêm ái, còn Tử Mạc đứng cửa giữa, không vị ngã quá mà cũng không kiêm ái quá, thế là trung. Câu của Mạnh Tử nói đó có hơi giống với câu của Khổng Tử nói về vua Thuấn mới vừa dẫn trên kia. Như Tử Mạc đây có khác gì vua Thuấn cầm hai đầu cùng mà dùng lấy chỗ chính giữa ? Có khác gì biết được hai đầu cùng của cái thước rồi mà tìm ra chỗ chính giữa của nó ?
Song có phải vậy đâu ; tiếp theo câu ấy, Mạnh Tử lại nói rằng : “Song chấp trung mà không cân nhắc thì cũng như chấp nhứt”[16]. Vậy thì Mạnh Tử chỉ mới cho Tử Mạc là gần phải đó thôi chớ chưa thiệt phải. Vì trung phải có cân nhắc kia, bằng không thì là chấp nhứt ; chấp nhứt nghĩa là chỉ cầm có một đầu. Thế là Tử Mạc không phải trung.
Cũng thì bỏ hai đầu cùng tìm lấy chính giữa mà vua Thuấn là trung, còn Tử Mạc không phải là trung, là vì một đằng biết cân nhắc, một đằng không biết cân nhắc. Theo Mạnh Tử thì như vậy.
Bí nhau là tại cái chỗ cân nhắc đó. Đã tìm ra trung rồi mà lại còn phải cân nhắc nữa, thì tôi xin chịu, chẳng biết đằng nào mà cân nhắc. Gặp những chỗ bí như vậy thì các ông Trình tử Chu tử mở đường cho tôi mà dạy rằng mình phải “nghĩa cho tinh, nhân cho thục, đừng có lòng riêng tây của nhân dục một mảy nào” thì tự nhiên thấy mà làm theo được. Dầu vậy thế nào tôi cũng không hiểu ? Cũng có khi như tuồng tôi muốn hiểu, là khi tôi thấy trong Luận ngữ có chép về nghi dung đức Khổng Tử mà rằng : “Ngài hòa mà nghiêm, có oai mà chẳng dữ, cung kỉnh mà an”.[17] Trong câu ấy, tôi hiểu ra rằng người thường hễ hòa thì không nghiêm, có oai thì dữ, cung kỉnh thì ra bộ cúm núm quá ; song đức Khổng đã được bên nầy mà không mất bên kia, thế là trung. Nhưng ra chỗ khác, ra việc khác, thì tôi lại không có thể lãnh hội như vậy được, cho nên tôi phải nói thiệt tình là tôi không hiểu.
Bởi vậy, tôi quyết luận rằng trung dung là lẽ mầu nhiệm quá trí khôn người, chỉ có như Thuấn, Khổng Tử, ít nữa cũng Mạnh Tử thì mới biết mà làm theo được, còn người thường thì không thể nào hiểu được cả ; chính mình Trình tử cũng đã cho là rất khó !
Theo người hiểu thì trung dung là thế nào không biết, chớ theo tôi, tôi không hiểu, thì trung dung thật là một cái thuyết lôi thôi lắm, như tôi đã nói nẻ nóc ra trên kia. Rút lại nó là thế nào mặc lòng, tôi chỉ đánh cho một cái dấu hỏi lớn rằng : Tôi không biết một cái thuyết mà chính người lập ra nó đã trối rằng “gươm đao có thể xông vào, chớ không có thể làm theo nó được”, thì thôi, còn lập ra làm chi ? Tôi lại không biết những người kế theo giải thích và phát huy cái thuyết ấy cách trái trấp mập mờ, thì có ích gì cho hậu học ?
Của là của quý, không phải sắm cho mọi người dùng, đem mà phơi ra, thành thử người ta dùng bậy. Thật thế, xã hội ta chịu lấy cái ảnh hưởng trung dung ấy mà hóa ra một cái xã hội ương ương dở dở, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Ở đời thì quý cái cách không khôn không dại ; xử sự thì chuộng cái lối không mềm không cứng. Mua bán cũng trung dung : hát giá một quan, mặc cả năm tiền, dứt giá bảy tiền rưỡi, gọi là “bẻ hom tranh”. Làm ăn cũng trung dung : vốn một ngàn, có thể làm ra ba ngàn, mới được hai ngàn, cầm chừng không làm nữa, gọi là “giữ tay thước”. Vì giữ lẽ trung dung mà việc gì cũng không dám làm thẳng tay : vua Tự Đức đã hòa với Pháp rồi thì cứ việc hòa đi, lại còn sai sứ đi cầu cứu bên Tàu ; Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa thì cứ việc khởi nghĩa đi, nghe Trần Bá Lộc bắt mẹ, lại đem thân về chịu chết...
(tòa kiểm duyệt bỏ một đoạn)
...Té ra Trung dung chẳng phải là gì cả, chỉ là cái thai đẻ ra khiếp nhược, và là cái ổ chứa gian tà mà thôi !
Tư tưởng bên phương Tây trái với cái thuyết trung dung ta, vì họ chuộng cái thuyết cực đoan. Vậy như một con đường, ta đứng chính giữa mà họ đứng hai đầu cùng. Bao nhiêu học thuyết phương Tây đều là cực đoan cả. Như : về cách tổ chức của nhân loại thì có những cá nhân chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, quốc gia chủ nghĩa, thế giới chủ nghĩa, mỗi cái chạy tới một đầu cùng ; về triết học thì có những duy tâm chủ nghĩa, duy vật chủ nghĩa, nhứt nguyên luận, nhị nguyên luận, mỗi cái chạy tới một đầu cùng ; về chánh trị thì hai chủ nghĩa phóng nhiệm và can thiệp ; về kinh tế thì hai chủ nghĩa tự do và bảo hộ, mỗi cái cũng chạy tới một đầu cùng... Tùy ai muốn chạy tới đầu cùng nào thì chạy, miễn là chạy cho tới nơi, không chịu đứng dật dờ giữa đường. Sự tấn hóa của họ mau lắm là nhờ đó, nhờ cái chia đường ra mà chạy.
Theo đạo Nho, người ta lại bác cái thuyết cực đoan đi. Cuối thiên Công Tôn Sửu thượng trong sách Mạnh Tử, ông Mạnh Tử có nói rằng : “Ông Bá Di, chẳng đáng vua mình thì chẳng thờ, chẳng đáng bạn mình thì chẳng giao, chẳng đứng nơi trào người ác, chẳng cùng người ác nói chuyện, nghĩ rằng đứng nơi trào người ác, nói chuyện cùng người ác, chẳng khác gì đem áo trào mão trào mà ngồi nơi bùn than. Suy cái lòng ghét kẻ ác ấy ra, ông nghĩ rằng mình đứng với người lành mà thấy họ đội mão không ngay, là đi phăng phắc, như hầu nhục đến mình... Còn ông Liễu Hạ Huệ, chẳng lấy vua dơ làm hổ, chẳng lấy quan nhỏ làm thấp, dầu bị bỏ sót cũng chẳng hờn, ách cùng cũng chẳng lo. Cho nên ông nói rằng : Mầy ra mầy, ta ra ta, tuy có trật cánh tay lõa lồ ở bên ta, mầy há có thể làm nhục ta được ư ? Bá Di như vậy là hẹp, Liễu Hạ Huệ như vậy là bất cung. Hẹp và bất cung, người quân tử chẳng noi theo”.
Đó như Bá Di và Liễu Hạ Huệ là cực đoan đó, Mạnh Tử đã cho là hẹp và bất cung mà không noi theo, thì noi theo cách nào ? Giữa thiên ấy, ông Mạnh lại nói rằng : “Chẳng đáng vua mình thì chẳng thờ, chẳng đáng dân mình thì chẳng khiến ; trị thì tới, loạn thì lui : ấy là ông Bá Di. Vua nào thờ cũng được, dân nào khiến cũng được, trị cũng tới loạn cũng tới : ấy là ông Y Doãn. Đáng làm quan thì làm quan, đáng thôi thì thôi, đáng lâu thì lâu, đáng mau thì mau : ấy là đức Khổng Tử... Ta thì muốn học đức Khổng Tử”.
Đây thêm Y Doãn nữa cũng là cực đoan. Nhưng Mạnh Tử cũng bỏ đi mà muốn học Khổng Tử, vì Khổng Tử là trung dung. Mạnh Tử thì vậy, chớ chúng ta ngày nay nên học ba ông kia, mặt nào ngả về một mặt là dễ chịu hơn, chớ không nên học Khổng Tử. Cái trung dung của ngài khó theo lắm là vì bốn chữ “đáng” đó. Biết thế nào là đáng ?
Hiện nay ở nước Nam ta, có nhiều cách làm cho dân ngu đi, song duy trì hay là xướng minh cái thuyết trung dung ra, là cách diệu hơn thứ nhứt. Vì theo như cái thuyết trung dung như ở trên ba mươi sáu từng trời của ông cháu thầy trò họ Khổng thì chẳng ai theo được ; rốt cuộc lại, rồi cũng chỉ “bẻ hom tranh, giữ tay thước” mà gọi là trung dung đó thôi. Cái trung dung ấy, nói cho tận mặt nó, tức là cầm chừng, tức là ở cửa giữa, tức là thậm thà thậm thụt, tức là thủ cựu. Cho nên hễ ai đem cái thuyết trung dung ra mà nói, thì tôi cho là người ấy có ý làm ngu dân.
Nói tới đây, làm cho tôi nhớ sực đến ông Monet. Ông ấy có nói trong sách An Nam tỉnh dậy, tức là bài của ông diễn thuyết cho người An Nam tại Khuyến học hội năm xưa mà rằng : “Tôi bị họ công kích bên tả bên hữu, song kẻ môn đồ của thầy Tử Tư nầy vẫn giữ trung thành với đạo trung dung”.
Rõ thật ông Paul Monet muốn làm ngu dân An Nam mà đã nói trái với lương tâm mình.
Đức Jésus Christ là người chủ trương cái thuyết cực đoan thứ nhứt. Có lần “một môn đồ thưa cùng ngài rằng : Xin chúa cho phép tôi về chôn cha tôi trước đã. Nhưng ngài phán rằng : Hãy theo ta, để kẻ chết chôn kẻ chết”[18]. Lần khác, ngài phán cùng các sứ đồ rằng : Ta đến không phải đem sự bình an cho thế gian mà là đem gươm. Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia, và người ta sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà mình”[19]. Nhứt là câu này nên đem mà dạy dân nào đã theo đạo trung dung như dân Việt Nam ta và cũng có lẽ là câu ngài nói vào tai ông Monet nữa : “Chẳng ai được làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Ma-môn nữa”[20].
Tôi biết ông Paul Monet theo đạo Gia-tô, ông là một môn đồ sốt sắng của Jésus Christ. Song khi ông nói với chúng ta thì ông lại xưng là môn đồ trung thành của thầy Tử Tư !
Tôi đêm ngày mong mỏi, mong cho đến ngày Jésus Christ tái lâm. Bấy giờ ông La Fontaine, sống lại từ trong những kẻ chết, ra khỏi phần mộ, sẽ đọc lại cho trước là ông Monet sau là tôi nghe bài thơ Con dơi của ông, thì hai chúng tôi đều được vui thích mỗi người một vẻ !
Ta ở vào đời nầy, việc gì ta cũng cứ cực đoan đi, cứ thẳng tay đi, đừng trung dung chi hết. Trung dung thì chết. Mà trong thiên hạ lại có cái trung dung là cái gì !
IX. CÁI CHỦ NGHĨA LÀM QUAN
Tôi không phản đối sự làm quan. Làm quan cũng như làm các nghề khác, hoặc làm ruộng, hoặc đi buôn, hoặc làm thợ, cũng là một lối sanh nhai của người ta ở đời, việc chi mà phản đối ? Nhưng đến lấy sự làm quan làm như là một cái chủ nghĩa, coi nó là mục đích của sự học vấn, thì tôi phải phản đối.
Vì theo cái thuyết minh đức tân dân mà tôi đã nói rõ trong chương thứ VII, nên trong Khổng giáo đã thiệt tình lấy sự làm quan làm một cái chủ nghĩa. Mà hình như chính đức Khổng Tử cũng đã đem cả đời mình hy sanh cho cái chủ nghĩa đó, ví chẳng khác ông Bùi Quang Chiêu ta đã nói to trước mồ ông Tây Hồ mà rằng đem cả đời mình hy sanh cho cái chủ nghĩa Phát Việt đề huề !
Mạnh Tử có nói rằng : “Đức Khổng Tử ba tháng không có vua thì hình như băn khoăn, hễ ra bờ cõi là chở con t n[21] theo”[22]. Thật vậy, cả đời đức Khổng Tử chỉ châu du các nước chư hầu để kiếm một cái địa vị làm quan. Về sự đi của ngài, trong sách nói rằng “triệt hoàn liệt quốc” nghĩa là dấu bánh xe quanh khắp các nước, cũng như tiếng An Nam ta nói “đi mòn đường chết cỏ” vậy, thì biết rằng ngài đã đi lung lắm. Sau hết, các vua các nước không có ông nào dùng được ngài, mà ngài cũng đã già rồi, mới chịu về nước Lỗ là quê hương mình. Cái thái độ ngài như vậy, cho nên có một lần, Vi Sanh Mẫu, chừng cũng là vai lớn hơn ngài thì phải, xách quai nôi ngài ra mà bảo rằng : “Khâu ơi, chớ chú làm cái gì mà lăng xăng vậy, có lẽ là chú làm nịnh ư ?”[23]
Chữ “nịnh” đó theo tiếng An Nam ta là “lém lỉnh”, như kiểu bọn du thuyết hồi Chiến Quốc, đến đâu cũng trổ cái tài ba tấc lưỡi để được làm quan. Thế mà Vi Sanh Mẫu đến nỗi lấy điều ấy nghi cho ngài, đủ biết rằng sự đã quá lắm.
Tôi không khi nào nghi ngài như Vi Sanh Mẫu. Tôi vẫn hết lòng tin rằng ngài muốn ra làm quan là cốt để hành đạo cứu thời. Ngài từng nói rằng : “Nếu có ai dùng ta, ta sẽ làm nên nhà Châu ở phương Đông”[24]. Có một lần, người ẩn sĩ kia nói nhắn cùng ngài rằng thiên hạ đều loạn cả, ông toan cùng ai biến đổi, thì ngài trả lời rằng : “Nếu thiên hạ chẳng loạn thì Khâu nầy có biến đổi làm chi ?”[25]. Lại lần khác Công Sơn Phất Nhiễu và Bật Nật, là hai tên phản thần, đều có mời ngài đến giúp mình, thì ngài toan đến. Dầu về sau ngài không đến, nhưng trong khi Tử Lộ can ngài về sự ấy thì ngài nói quả quyết rằng đến là không hại gì cả, và rằng : “Ta có phải cái bầu đâu, thể nào treo mãi đó mà không ăn ?”[26].
Cứ như mấy lời trên đây thì thiên hạ hồi đó cũng như thiên hạ bây giờ, nghĩa là gặp lúc bước loạn ly, không còn có nhân đạo, mà ngài thì cũng như mấy nhà chí sĩ nhiệt tâm ở đời nay muốn đem cái tài học của mình ra mà xoay đổi cả cuộc đời. Ngài cứ lăng xăng kiếm một cái địa vị làm quan là vì cái lòng sốt sắng đó, chớ không phải là vì ham danh lợi, sự ấy tôi vẫn biết cho ngài và hết lòng tin nữa.
Song le, tôi tin ngài ở đó, mà tôi lấy làm lạ cho ngài cũng ở đó.
Cứ theo lời người thì lúc bấy giờ thiên hạ vô đạo, đại loạn, mà cái chí ngài là muốn biến đổi cả thiên hạ, muốn làm nên nhà Châu phương Đông kia, vậy thì chỉ làm quan mà đạt được cái chí ấy hay sao ? Tôi tưởng, làm quan mà đến bậc tướng đi nữa, là cũng không thiệt hành cái chí ấy được. Mà chỉ có làm vua thì họa may mới làm nổi công việc to tát ấy.
Thế mà, theo ý ngài thì ngài cứ mơ tưởng “nếu có ai dùng ta”. Ngài cứ phàn nàn “chẳng ai biết đến mình”. Có khi ngài bực mình vì “không làm đạo ra được mà toan cỡi bè trôi nổi trên mặt biển”. Sự đó tôi rất lấy làm lạ.
Tôi thì tôi nói : ngài đã có chí như vậy thì đợi chi ai dùng ? Cần chi ai biết ? Tội chi lại cỡi bè ra biển làm chi ? Sẵn có ba ngàn đệ tử đó, sao ngài không vận động mà nổi lên cuộc cách mạng ? Nổi cách mạng đi, rồi ngài lên làm vua quách đi, có thế mới biến đổi cả cuộc đời được chớ. Mà sự cách mạng ở nước Tàu thì có lạ gì, trong Kinh Dịch ngài vẫn nức nở khen vua Thang vua Võ cách mạng, là “thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân”? Thang Võ dám cách mạng, dám làm vua, thì sao ngài lại không dám ?
Còn như ngài giữ nghĩa quân thần, thì sao bọn phản thần kia mời ngài mà ngài lại toan đến, và quả quyết đến là vô hại ? Dữ kỳ theo lũ phản thần ấy thì thục nhược khởi binh cách mạng, đánh kẻ có tội, vớt dân ra khỏi bùn than, có phải là đường đường chánh chánh hơn không ?
Nếu ngài muốn hành đạo, thì, theo thời thế, theo địa vị, ngài chỉ có nước làm vua mà thôi, còn làm quan không ăn thua gì và cũng không xứng đáng gì cho ngài hết. Nhược bằng muốn truyền đạo thì hà tất phải làm quan ? Cứ làm như mấy ông giáo chủ kia, như Lão Tử, Thích Ca hay là Jésus Christ cũng được chớ.
Xin độc giả chớ tưởng tôi đem lý sự cùn mà nói tay đôi với ngài. Trên đây tôi chỉ có ý hỏi ngài đó thôi. Vương Sung nhà Hán ngày xưa, có làm sách Luận hoành trong đó có một thiên kêu là Vấn Khổng, va lại hỏi ngài nhiều điều ngặt hơn tôi nữa. Va hỏi được thì tôi đây cũng có quyền hỏi được.
Cái tư tưởng làm quan ấy di hại cho người nước ta nhiều lắm. Cái hồi còn học chữ nho, chẳng có người nào đi học mà không hằm hằm tính việc làm quan. Chỉ khác một điều là cái chủ nghĩa làm quan của Khổng Tử là để hành đạo cứu thời, còn cái chủ nghĩa làm quan của người mình là để cầu danh cầu lợi. Thế nhưng có ai chỉ trích đến chỗ đó thì người ta lại lấy Khổng Tử ra làm xương sống. Rất đỗi có người lại cho sự làm quan là một cái bổn phận của mình, không làm không được. Ông Hoàng Tế, người làng Trà Kiệu, tỉnh Quảng Nam, là một ông thầy dạy tôi năm xưa, đậu cử nhơn đã hơn 15 năm mà ở nhà luôn không ra làm quan. Không giấu chi, thầy tôi không làm quan là vì có ý không muốn hiệp tác với nhà nước bảo hộ. Song đến ngày trên 50 tuổi, thầy tôi thình lình đổi ý mà rằng : “Lẽ nào ta vì có người Pháp mà bỏ hết một cái bổn phận làm người, là bổn phận đối với vua !” Rồi thầy tôi được bổ làm Huấn đạo huyện Quế Sơn. Được mấy tháng thì vừa gặp ngày lễ Chánh chung, quan tỉnh sức trát biểu quan huyện và quan huấn phải đi hầu lễ. Thầy tôi cầm bút ký trong lá trát rồi ném bút mà thở dài và than rằng : “Ôi ! Ngũ kinh đem quét đất hết rồi !” – liền cáo bịnh mà về.
Đó là cái thái độ cao thượng của nhà nho ta đó. Song tôi phải lấy làm lạ, thế thì té ra thầy tôi vốn không biết hễ ra làm quan thì phải đi hầu lễ Chánh chung hay sao ? Đợi gì đến thò tay ký lá trát rồi mới ném bút đứng dậy về ? Hay là biết rồi mà vì nhìn sự làm quan là bổn phận của mình nên phải ra mới được ? Ai kia chớ còn thầy cử Trà Kiệu tôi thì chính là vì lẽ sau đó.
Cho đến ngày nay cũng vậy, hễ miễn được cái bằng cấp ở nhà trường rồi, ấy là chen nhau ra làm việc với nhà nước. Cái bụng dạ thì chưa chắc là bụng dạ của Khổng Tử, song cái kiểu cách thì thật là kiểu cách của Khổng Tử vậy...
X. VỀ CÁI THUYẾT KHINH NÔNG
Nước ta là một nước thuở nay vẫn lấy nghề nông lập quốc. Đâu đâu cũng nhờ nghề nông đặng mà sống, cho đến mọi sự cần dùng đều lấy ra từ trong hột lúa, củ khoai, trái bắp. Lẽ đáng có một bọn người học thức chăm lo nghề ấy hầu cho mỗi ngày một phát đạt lên để chống với thủy hạn thiên tai mới phải. Thế mà xưa nay trong hạng người ấy chẳng hề có ai chịu mó tay hay là để ý đến nghề nông. Cái sự cày sâu cuốc bẫm chỉ phó cho một lũ dân ngu vô học mà thôi. Như thế, chúng ta còn có hột gạo mà ăn là may phước đó, chớ trông gì trong nước cho thạnh vượng được !
Từ hồi có người Pháp đến đây, thì trường Canh Nông cũng đã lập ra. Theo ở nước khác, thì học trò tốt nghiệp ở trường ấy ra, phải chuyên làm nghề Nông, phải lấy cái sở học của mình mà cải lương mọi sự của kẻ dốt đã làm. Song ở ta đây không hề như vậy ! Bao nhiêu người tốt nghiệp Canh Nông cũng thấy ra làm quan làm quyền như các người kia. Coi như cụ Bùi Quang Chiêu đó thì biết.
Tôi nói vậy thì người ta sẽ đổ cho : một là tại phải tùy theo nhà nước dùng, hai là tại không có vốn lớn để cất ra mà làm lấy các công cuộc về nông phố. Song le, đó chẳng qua là lời kiếm cớ để chữa mình, chớ kỳ tình là khác kia.
Tôi nói : đó là vì chịu ảnh hưởng của Khổng giáo. Trong Khổng giáo đã có cái chủ nghĩa làm quan như bài trước đã nói, cái chủ nghĩa ấy thấm trong óc mọi người nên ai ai đi học cũng muốn làm quan. Song cái đường làm quan mỗi ngày một chẹt, thành thử người ta đâm ra đường khác, miễn là sau nầy cũng làm quan được thì thôi, chớ không phải bổn ý muốn làm nghề nông mà đi học canh nông. Huống chi trong Khổng giáo lại có cái thuyết khinh nông nữa, cái thuyết ấy cũng đã choán một phần trong óc sĩ phu nước ta, cho nên dầu có ai thạo nghề canh nông mà cũng không thèm làm nghề ấy là phải lắm.
Không biết làm sao, về nghề nông, đức Khổng Tử nói nhiều lời khinh miệt họ lắm, tôi rất lấy làm bất bình. Ngài nói rằng : “Người quân tử mưu đạo chẳng mưu ăn. Cày vậy mà đói ở trong đó ; học vậy mà lộc ở trong đó. Người quân tử lo đạo chẳng lo nghèo”[27]. Có lần, Phàn Trì, học trò ngài, xin học cấy lúa, ngài đáp rằng : Ta chẳng bằng kẻ làm vườn. Phàn Trì ra rồi, ngài nói rằng : Tên Phàn Tu (tên tộc của Phàn Trì) thật là tiểu nhơn thay ! Người trên ưa lễ thì dân dưới chẳng ai dám chẳng kính, người trên ưa nghĩa thì dân dưới chẳng ai dám chẳng phục, người trên ưa tín thì dân dưới chẳng ai dám chẳng dùng tình thiệt. Hễ như vậy thì dân bốn phương cõng con nó mà đến, lọ phải cấy lúa làm gì !”[28]
Tôi biết ngài nói đó là nói với một hạng người đi học mà có chí về sự tế thế an dân, đành phải bỏ việc nhỏ để lo việc lớn chớ không phải ngài bảo ai nấy đều phải bỏ nghề làm ruộng mà đi học làm quan cả đâu. Nhưng mà những câu “cày vậy mà đói ở trong đó, học vậy mà lộc ở trong đó” thì nghe nó ra thế nào ! Cày mà đói, thì ai còn cày làm chi ? Học mà được lộc thì cái học ấy chẳng là đáng khinh bỉ lắm ư ? Rất đỗi ngài mắng Phàn Trì là đồ tiểu nhân, rồi lại nói “lọ phải cấy lúa làm chi ?” thì thật là quá đáng.
Xét một sách Luận ngữ, thấy Phàn Trì hỏi ngài nhiều lần lắm, nào là hỏi hiếu, hỏi nhân, hỏi trí, hỏi việc chánh trị, lại có khi đánh xe cho ngài, đi chơi với ngài, cũng học hỏi luôn luôn. Chắc ông ta cũng nghĩ rằng kẻ học phải lấy sự trị sanh làm cần, nên lần nầy mới hỏi về sự cấy lúa làm vườn, ngài không biết mà không bảo cho thì thôi, cớ chi ngài lại mắng ?
Người ta hỏi sự cấy lúa làm vườn, ngài không dạy cho, lại nói dông dài ra những là người trên ưa lễ, nghĩa, và tín thì dân dưới quy phục, chớ không cần cấy lúa, thì thật là hỏi một đường mà trả lời một đường. Vậy cho biết cái đạo ngài cốt chỉ dạy cho “người trên”, chớ không dạy “kẻ dưới”, trái hẳn với cái bình dân chủ nghĩa ngày nay.
Chẳng phải ngài khinh thị nghề Nông mà lại cũng không coi sự làm ăn buôn bán ra chi. Trong đám môn đồ của ngài có Tử Cống chăm nghề buôn, hễ rẻ thì mua mà mắc thì bán, làm nên giàu có. Có một lần, ngài phẩm bình các học trò mình, ngài cho Tử Cống là “chẳng chịu mạng trời mà lo đi chứa của”[29]. Chữ “chẳng chịu mạng trời” đó, có ý là trời biểu nghèo thì phải chịu nghèo, sao Tử Cống lại cưỡng đi mà làm nên giàu có ? Theo ý ngài thì phải “một đai cơm, một bầu nước” như Nhan Hồi cứ ôm lấy cái nghèo mãi thì người khen. Hay là “ăn cơm lức, uống nước trong, co cánh tay mà gối” như ngài thì ngài chịu lắm. Vẫn biết sự an bần cũng là một cái tiết thanh cao, như ngài và Nhan Hồi, tôi há lại không phục ? Song xét trong các sách nói về cách Tử Cống làm giàu thì chỉ là rẻ mua mắc bán, như kiểu nhà buôn đời nay ; vậy thì cũng là một cách làm giàu chánh đáng, chớ có phải bóp họng thắt hầu hay là ăn cướp ăn trộm ai, mà cho là chẳng chịu mạng trời ? Ngài khinh rẻ sự làm ăn buôn bán đã đành, mà nói như thế thì lại thành ra cái khuynh hướng về cái thuyết định mạng (fatalisme), có hại cho sự phấn đấu tấn thủ của chúng ta ngày nay lắm vậy.
Có một lần, ngài đi qua nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe cho ngài. Thấy dân cư trù mật, ngài khen rằng : “Dân đã đông lắm thay !” Nhiễm Hữu hỏi rằng : “Đã đông thì nên làm gì nữa ?” Ngài đáp rằng : “Nên làm cho chúng nó giàu”[30].
Coi đó thì thấy ngài cũng cho sự làm giàu là cần, nhưng làm giàu cho kẻ khác thì được, còn làm giàu cho mình như Tử Cống thì ngài lại phản đối.
Theo cái ý kiến của ngài đó nên về sau Mạnh Tử cũng khinh rẻ nghề nông mà cho là “việc của tiểu nhơn”[31]. Chữ “tiểu nhơn” nầy tức là chữ “tiểu nhơn” của Khổng Tử dùng mà mắng Phàn Trì hồi nãy, nghĩa là đồ dân ngu, đối với “quân tử” là người ở trên cầm quyền cai trị, do đó mà thành ra cái chế độ tư bổn, lần lần trông thấy trong xã hội có một bọn người ngồi không đó mà ăn, còn một bọn người làm cháy da phỏng trán.
Người An Nam mình vì chịu ảnh hưởng của cái thuyết khinh nông ấy, nên người nào đã ôm cuốn sách đi học là cố chịu kiếm ăn trong sự học đó chớ không lo sanh lý[32] gì cả, một nghề gì cũng không biết. Những người ấy một mai không kiếm ăn trong sự học được, nghĩa là không làm quan được, thì lại xoay ra làm những nghề địa lý, coi tướng, coi số, là nghề phỉnh người ta lấy tiền mà lại mát mặt hơn vác cái cày đi cày. Mà rồi xã hội cũng tôn họ mà kêu bằng “thầy”, sắp hàng họ ở trên những kẻ tay bùn chưn lấm, nai lưng ra làm cho có hột gạo để trút vào mồm mọi người, ôi ! nó trái ngược là dường nào !
Chúng ta ngày nay nên vùi những câu của đức Khổng Tử nói xuống dưới đất cái mà đừng có khinh rẻ nghề nông như ngài nữa. Phải coi sĩ, nông, công, thương bằng vai với nhau, đừng có phân ra cao thấp. Xứ Nam kỳ là xứ có những đồng ruộng cò bay thẳng cánh, thế mà mất mùa chơi một năm đã thấy kêu đói tứ tung, mà lại còn không biết trọng nghề nông, thì tôi không hiểu cái học thức của người An Nam là cái gì.
XI. VỀ SỰ BAO BIẾM CỦA SÁCH XUÂN THU
Nhẫn lên bốn chương, về cái thuyết minh đức tân dân, cái thuyết trung dung, cái chủ nghĩa làm quan, cái thuyết khinh nông, tôi cho là bốn điều trong Khổng giáo mà có ảnh hưởng xấu ở xã hội ta. Từ đây trở xuống, tôi sẽ kể ra những điều gì đã có ảnh hưởng tốt.
Có điều này tôi không vì mích lòng Khổng giáo mà phải nói thiệt : trong những cái ảnh hưởng xấu đã nói trên kia, tôi không thấy có phần nào tốt ; mà trong những cái ảnh hưởng tốt kể dưới này, lại thấy có phần hơi xấu.
Trước hết xin nói về cái ảnh hưởng của sách Xuân Thu.
Xuân Thu nguyên là một bổn sử ký chép chuyện nước Lỗ là quê hương của đức Khổng Tử và là một nước chư hầu ở dưới quyền thiên tử nhà Châu lúc bấy giờ. Ngài sửa sang bổn sử ký ấy lại mà làm ra sách Xuân Thu, về sau liệt vào làm một kinh trong ngũ kinh. Trong một bổn sách xưa nói về Xuân Thu có nói rằng : “Sách Xuân Thu do chính tay đức Khổng chép lấy, chỗ nào đáng chép thì ngài chép, chỗ nào đáng bỏ thì ngài bỏ ; tuy Tử Du, Tử Hạ là tay văn học trong cửa ngài, cũng không giúp được một lời”.
Sách Xuân Thu cốt để bao biếm. Bao, nghĩa là khen những điều phải ; biếm, nghĩa là chê những điều quấy. Có vì tiên nho tán dương cái nghĩa bao biếm của sách Xuân Thu mà rằng : “Ngài khen cho một chữ là vinh hơn áo mão của nhà vua ban cho ; ngài chê cho một chữ là nghiêm hơn dùng búa rìu mà giết”.
Sự khen chê của sách Xuân Thu là suốt từ việc lớn cho chí việc nhỏ. Đây nói những việc lớn : ai giúp kẻ yếu, chống kẻ mạnh, cứu những nước bị tai nạn, phò những nước bị diệt vong, ấy là được khen, còn những nước chiến tranh nhau, hoặc dùng mưu kế mà khi trá nhau, cùng những con giặc, tôi loàn, và những kẻ phản quốc, thờ quân thù nghịch, thì bị chê. Nói tóm lại, phàm việc gì hại đến cuộc hòa bình của xã hội là bị chê, mà trái lại, là được khen vậy.
Tuy vậy, xét kỹ lại thì cái hiệu nghiệm của sách Xuân Thu, bên khen không có quan hệ lắm bằng bên chê. Cũng có lẽ là vì sự cấm người ta làm điều dữ có công hiệu hơn là khuyên người ta làm điều lành. Bởi vậy ông Mạnh Tử có nói rằng : “Đức Khổng Tử làm nên sách Xuân Thu mà bọn con giặc tôi loàn phải sợ”.
Trên nền Khổng giáo ở nước Nam ta có những tư văn, văn chỉ, ấy là những cái cơ quan để phê bình xã hội theo như cái ý nghĩa của sách Xuân Thu.
Từ hồi có người Pháp đến xứ nầy, nhứt là sau khi cuộc bảo hộ đã thành lập, vì cớ mở miệng mắc quai, nên các hội nói trên đó ngoài một năm hai kỳ tế Thánh ăn thịt uống rượu rồi về không thấy có hành động sự gì ; chớ trước kia thì chính các hội ấy đã làm giềng mối, chủ trương cả dư luận trong xã hội. Mỗi một phủ huyện nào cũng đều có hội Văn chỉ, mỗi một ông thầy dạy học lâu năm và đông học trò thì có hội Đồng môn. Những hội ấy rất có thế lực ở dân gian ; người ta quen gọi là cái nền “danh giáo” hay là cái cơ quan “thanh nghị”. Chẳng những người trong hội, cho đến người thường ở ngoài nữa, nếu có làm một việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức thì không thể nào tránh khỏi sự công kích của hội hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Có khi một việc trái phép mới xảy ra, pháp luật của nhà nước chưa hỏi đến, mà chính người thủ phạm trong việc ấy đã bị “thanh nghị” làm cho sỉ nhục mà phải hối cải hơn là bị hình phạt. Bởi vậy cũng có khi, ở dân gian, người ta đem những việc bất bình mà cáo với các hội ấy, chớ không cáo với quan.
Hồi xưa người ta sợ “thanh nghị” lắm, sợ đắc tội với “danh giáo” lắm, hơn là sợ tù tội nữa. Bởi vì cái nhục của tù tội còn có chừng, lại có khi theo vua thì bị tù tội, song đối với công chúng lại được khoan thứ ; chớ còn đã bị “thanh nghị” công kích, đã bị “danh giáo” loại ra, thì gần như là không còn mặt nào trông thấy ai, không còn biết ở đời với ai, chỉ có nước vạch đất ra mà chui xuống ! Cho nên lúc bấy giờ, từ hàng tấn thân cho đến hạng dân giã, ít kẻ dám công nhiên làm bậy như ngày nay. Sự đó tôi không có thể trưng bằng cớ ra đây, nhưng tưởng ai ai cũng công nhận như vậy.
Cái “thanh nghị” do theo ý nghĩa bao biếm của Xuân Thu đó, tôi cho là đối với xã hội ta đã có hiệu lực nhiều hơn là các tín điều của tôn giáo đem buộc các giáo đồ. Cái lẽ đó là vì các tín điều chỉ lấy cái giáo nghĩa của một tôn giáo làm chuẩn đích ; còn bên “thanh nghị” thì lấy nhân cách làm chuẩn đích. Phàm người nào làm ra việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức, tức là làm mất nhân cách của người ấy, “thanh nghị” cứ băm vào chỗ mất nhân cách ấy mà công kích thì nghe nó thiết thiệt hơn. Tôi xin cử ra đây một sự cấm hút thuốc phiện.
Đời Tự Đức, khi chưa hòa với Pháp về trước, triều đình ta vẫn cấm nhân dân hút thuốc phiện. Trong sự cấm ấy, phép vua tuy nghiêm mà cũng không bằng các hội Văn chỉ và Đồng môn. Tôi chưa kịp thấy, nhưng nghe các ông già nói lại rằng lúc bấy giờ thuốc phiện dầu nhiều và rẻ mà ít ai dám hút, nhứt là những người có học, không sợ hình phạt là mấy, nhưng sợ rủi bị hội Văn chỉ hoặc hội Đồng môn ngoại ra thì khốn.
Ta thử đem việc ấy so với hai việc sau nầy. Ở gần miền tôi có một người vô đạo mà ghiền thuốc phiện. Ông cố bắt xưng tội ấy thì anh ta không chịu xưng, nói rằng hút thuốc phiện không phạm vào mười điều răn của Chúa. Lại khi ở Hà Nội, tôi có gặp một ông thầy tu cũng hút. Tôi hỏi chớ thầy không sợ phạm giới sao. Ông ta trả lời rằng trong ngũ giới của Phật vẫn không cấm điều nầy, mà có lẽ hút á phiện thì tiệt được sự sắc dục, lại là có ích cho người tu hành nữa vậy ! Coi đó thì thấy rằng cũng đồng một sự cấm hút á phiện mà một bên nói rằng hút thì hư nhân cách, làm cho người ta dễ nghe hơn là bên kia nói rằng hút thì “trái ý Chúa” hay là “mang tội cùng Phật” vậy.
Cái thế lực của các hội Văn chỉ mạnh là như vậy, cho nên gặp khi trong nước có việc thì mọi sự phản động[33] đều do đó mà ra. Ông quan địa phương nào tham ô, bị “thanh nghị” trong hàng tỉnh hay hàng huyện công kích, ấy là có thể bị giáng bị cách, không thì cũng bị đổi đi nơi khác. Sau khi kinh thành thất thủ, các đám cần vương khởi nghĩa toàn là bắt đầu tổ chức từ trong các hội Văn chỉ, các hội Đồng môn. Nói tóm lại, các hội ấy chẳng những chủ trì dư luận mà thôi, lại cũng nắm luôn cái quyền ngấm ngầm về chánh trị nữa.
Hiện nay các hội ấy chỉ còn cái xác mà thôi, song cái hồn nó lại tản mác ra trong dân gian, nó bám vào trong lòng mọi người. Trong khoảng 5-7 mươi năm nay, những người nào tỏ ra là bất trung với bổn quốc, hãm hại đồng bào, thì bị người ta chửi mắng nhiếc móc riêng với nhau. Ở Bắc kỳ, có những sanh phần sanh từ của mấy ông quan to bị người ta đề thơ mà chửi bới, hay là đem đồ ô uế mà ném vào, cùng là lén mà phá cho hư đi. Lại có những người tuy chưa làm ra việc chi đáng trách, chỉ mới nói một vài câu chi đó mà thôi, cũng đã bị cáo là “bán nước dối dân”, rất là khó chịu. Một vạn cái lòng An Nam chẳng có cái nào là chẳng ghét những người làm mật thám, tức Nam kỳ kêu bằng lính kín. Mật thám ở các nước văn minh là những người có phần trong sự giữ cuộc trị an cho xã hội, song theo cái tình thế riêng ở xứ ta lại khác, cho nên người ta ghét cũng phải.
Trong khoảng 4-5 năm nay, có nhiều người khi không[34] mà bị nghi là mật thám. Tôi cũng là một người trong đám ấy. Tôi đã trải qua cái tình cảnh ấy nên nói ra chắc có ý vị. Trong khi ấy, tôi đi đến đâu, người ta chào sơ qua rồi thôi, ít hỏi han chi. Nếu là chỗ đông người thì họ lấy mắt ngó nhau, dường như bảo phải giữ mình vì tôi, chẳng khác nào giữ một đứa kẻ cắp. Ngoài sự giữ gìn ấy họ lại còn hằm hằm mà tỏ ra dáng khinh bỉ. Tôi lại có được thơ nặc danh gởi đến luôn luôn, cái thì khuyên tôi cải ác tùng thiện, cái thì chửi tôi tàn tệ. Tôi chịu những điều đoán phạt oan ức ấy mà lại lấy làm vui lòng, vì nội đó cũng đủ chứng rõ cái lòng ái quốc và cái đức chánh trực của dân tộc Việt Nam. Tôi nói : dân tộc ta mà sau nầy có ngày cất đầu lên được, là nhờ ở chỗ đó. Chỗ đó, ta phải cảm ơn Khổng giáo, ta phải nhận rõ ràng là sự ban tứ của sách Xuân Thu.
Tiện đây, ta cũng nên cứ thiệt mà trần khai cho chánh phủ Pháp ở đây biết rõ một điều. Chánh phủ làm việc gì mà nói rằng ấy là theo dân ý, là cái dân ý ở đâu ? Mấy ông hội đồng An Nam chăng ? Mấy tờ báo quốc ngữ chăng ? Không phải đâu. Nếu chánh phủ muốn tìm cho ra cái dân ý chơn chánh của An Nam thì hãy tìm ở trong những câu đàm tiếu của dân gian, trong những câu chuyện trò rất tầm thường ở đầu đường xó chợ. Vì cái hồn “thanh nghị” theo kiểu Xuân Thu của sĩ phu An Nam ngày xưa, bây giờ nó đã lẩn lút vào những nơi hạ tiện ấy, trong đó mới có câu chuyện thiệt tình, còn ở đâu cũng đều là giả dối hết. Mà thật vậy, người Pháp có biết cái chỗ bí yếu ấy rồi mới biết cái giá thật của dân tộc An Nam là thế nào.
Ngày nay dầu các hội nói trên kia không còn gì, cái thế lực của “thanh nghị” không có tỏ bày ra như trước, nhưng tôi nói rồi, nó đã bám vào trong lòng mọi người, thì không có bao giờ mất đi được, điều ấy khỏi lo. Lo là lo người An Nam mình kém học, ít nghe, cạn thấy, lại thêm không biết phán đoán, mà ôm cái lòng ghét điều ác quá nồng nàn, bao biếm nhiều khi thất thiệt, thì người ta lợi dụng cái nhược điểm ấy mà gieo điều nghi kỵ giữa chúng ta, thành ra ngờ vực nhau, chia rẽ nhau, thật là một điều rất hại vậy.
Lại còn, những người có tài lỗi lạc, hay cậy có thủ đoạn mà toan làm ra những việc phi thường. Trong khi làm chưa nên việc, bị cái sức ngầm của “thanh nghị” làm cho hư hỏng đi cũng nhiều lắm. Cho nên, làm anh hùng hào kiệt ở nước nào còn dễ, chớ làm anh hùng hào kiệt ở nước An Nam nầy mới thiệt khó, vì dư luận ý chừng nghiêm khắc quá.
Tức như ông Varenne bên Pháp, khi trước liều cho đảng Xã hội xóa tên mình để được đi Toàn quyền Đông Dương, khi trở về rồi lại xin vào đảng lại, thế mà dư luận người Pháp chẳng lấy làm điều, không ai nói chi hết, được ở bên mình thì người ta dị nghị biết bao.
Hai điều vừa nói trên đây là tôi muốn chỉ ra cái chỗ dở của cái ảnh hưởng sách Xuân Thu. Song chỗ đó chúng ta phải nhận là cái chỗ thiên lịch của mình chớ không phải tại chữ Xuân Thu vậy.
XII. SỰ PHÂN BIỆT GIỮA NGHĨA VÀ LỢI
Khổng học với Mặc học khác nhau ở nhiều điều, mà một cái quan niệm về nghĩa và lợi cũng đã thấy khác. Mặc Tử nói rằng : “Nghĩa tức là lợi” (Nghĩa, lợi dã). Mà Khổng Tử thì lại chia nghĩa và lợi làm hai ; chẳng những hai cái là khác thứ, mà lại hai cái là phản đối nhau nữa.
Hai cái thuyết của Khổng và Mặc khác nhau như vậy là do ở cái tư tưởng căn bổn của hai đằng không giống nhau. Mặc Tử chuộng kiêm ái, bình đẳng. Cái xã hội trong ý Mặc Tử cũng gần như cái xã hội các nước Âu Mỹ thời nay. Nghĩa là coi nhà nước với nhân dân làm một, việc gì lợi cho nhà nước tức là lợi cho nhân dân đó. Chẳng những thế, vì là kiêm ái bình đẳng cho nên việc chi lợi cho một người cũng tức là lợi cho nhiều người, việc chi lợi cho kẻ nầy cũng tức là lợi cho kẻ khác nữa. Vậy thì việc làm lợi đó tức là việc nghĩa, cho nên nói rằng nghĩa tức là lợi. Còn cái xã hội trong ý Khổng Tử là xã hội có giai cấp, chia ra vua và dân, nhà nước là của vua, mà nhân dân chẳng qua là vật phụ thuộc vào, tức là kiểu xã hội nước Tàu và nước ta lâu nay. Theo kiểu xã hội ấy mà nếu nhập nghĩa và lợi làm một thì e người trên vịn đó mà bóc lột kẻ dưới quá thể, làm cho mất cái mực quân bình đi mà sanh loạn chăng, nên phải phân biệt ra nghĩa là nghĩa, lợi là lợi, là cốt để hạn chế bớt cái lòng tham dục của người trên vậy.
Theo như Mặc Tử thì lợi tức là lợi chung cho mọi người, không có thể hiểu là lợi riêng của một người được, cho nên nhập hai cái lại một, khuyên người ta làm lợi tức là khuyên người ta làm nghĩa, mà khuyên người ta làm nghĩa cũng tức là khuyên người ta làm lợi. Song theo Khổng Tử lại phải thấn tới một bước, vẫn biết cái nghĩa đó tức là cái lợi chung, mà cũng không chịu nói là lợi, phải nói là nghĩa để cho phân biệt với lợi. Lợi, theo ý Khổng Tử, thì chỉ là sự tư lợi của ít người mà thôi, là điều xấu, ai ai cũng nên tránh nó. Vì cái thâm ý Khổng Tử là như vậy nên ngài chia ra cái bờ của nghĩa và lợi thật rạch ròi. Ngài nói rằng : “Hễ là người quân tử thì hiểu về nghĩa ; hễ là tiểu nhân thì hiểu về lợi”[35]. Lại nói rằng “Hễ thấy lợi thì phải nhớ đến nghĩa”[36]. Câu trên có ý khuyên người ta nếu muốn làm quân tử thì phải theo đường nghĩa. Câu dưới nhắc cho người ta trong khi thấy lợi phải nhớ đến nghĩa đặng đánh đỡ cái lòng tham lợi đi. Mấy câu đó còn là lời nói chung, đến như trong Đại học thì lại dạy rõ về cách trị quốc mà rằng : “Nhà nước chẳng lấy lợi làm lợi, mà lấy nghĩa làm lợi”. Chữ “nghĩa” đó tức là lấy thuế có chừng có đỗi, không xâm phạm đến những cái lợi nhỏ của dân. Như thế thì nhân dân no đủ mà quy phục[37] với nhà nước ; mà hễ nhân dân no đủ tức là nhà nước giàu : ấy tức là lấy nghĩa làm lợi. Sách Đại học đây cũng còn nói lấy nghĩa làm lợi, chớ đến Mạnh Tử thì lại cấm tiệt không cho nói đến lợi trơn.
“Mạnh Tử ra mắt vua Huệ Vương nước Lương. Vua hỏi : Cụ già chẳng ngại xa ngàn dặm mà đến đây, cũng sẽ có phương gì để làm lợi cho nước ta chăng ? Mạnh Tử thưa rằng : Vua lựa phải nói lợi làm chi ; chỉ có nhân nghĩa mà thôi. Chớ nếu vua nói : có phương gì để lợi nước ta, thì quan đại phu cũng sẽ nói : có phương gì để lợi nhà ta, sĩ và dân cũng sẽ nói : có phương gì để lợi mình ta. – Rồi thì người trên kẻ dưới giành lợi lẫn nhau mà nhà nước nguy rồi ! Nếu ai cũng coi nghĩa làm sau, coi lợi làm trước, thì chẳng cướp nhau chẳng hề biết no đủ. Chi cho bằng nhân nghĩa : chưa có kẻ nhân nào mà bỏ sót cha mẹ mình, chưa có kẻ nghĩa nào mà lại để vua mình ra sau. Vậy thì vua cũng nên nói nhân nghĩa mà thôi, lọ phải nói lợi làm chi ?”[38].
Lại có một lần, “Tống Hình hầu qua nước Sở. Mạnh Tử gặp dọc đường, hỏi rằng : Tiên sanh tính đi đâu ? – Tống Hình trả lời : Tôi nghe nước Tần và nước Sở sắp đánh nhau, tôi muốn đến nói với vua nước Sở biểu thôi đi, mà không chịu, thì tôi lại sẽ nói với vua nước Tần biểu thôi đi; trong hai vua đó thế nào tôi cũng sẽ gặp một. – Mạnh Tử lại hỏi : Tiên sanh định nói bằng cách nào ? Tống Hình đáp : Tôi định nói về sự đánh nhau là chẳng lợi . - Mạnh Tử nói rằng : Không được. Tiên sanh đem lợi mà nói với vua Tần, Sở, vua Tần, Sở ham lợi mà bãi binh đi, ấy là bọn quân lính vui được bãi mà ham lợi vậy. Rồi thì kẻ làm tôi nghĩ lấy lợi thờ vua mình, kẻ làm con nghĩ lấy lợi thờ cha mình, kẻ làm em nghĩ lấy lợi thờ anh mình. Ấy là vua tôi, cha con, anh em đều bỏ nhân nghĩa mà lấy lợi tiếp nhau. Như vậy mà nước chẳng mất, là sự chưa hề có. Bây giờ nếu tiên sanh lấy nhân nghĩa nói với vua Tần, Sở, vua Tần, Sở ham nhân nghĩa mà bãi binh đi, ấy là bọn quân lính vui được bãi mà ham nhân nghĩa vậy. Rồi thì kẻ làm tôi nghĩ lấy nhân nghĩa thờ vua mình, kẻ làm con nghĩ lấy nhân nghĩa thờ cha mình, kẻ làm em nghĩ lấy nhân nghĩa thờ anh mình. Ấy lẽ vua tôi, cha con, anh em cùng nhau bỏ lợi, cứ lấy nhân nghĩa mà tiếp nhau. Như vậy mà chẳng làm nên nghiệp vương, là sự chưa hề có. Vậy thì lựa phải nói lợi làm chi ?”[39].
Coi mấy lời của Mạnh Tử đó thì thấy sự phân biệt nghĩa và lợi lại càng nghiêm lắm. Đại ý Khổng Tử và Mạnh Tử cũng vậy, làm một việc gì mà khởi niệm ra bởi lợi là không được. Theo Mạnh Tử nói đó, trong một nước mà ai làm việc chi cũng nghĩ về lợi hết, thì sanh ra giành nhau mà rồi nước phải nguy phải mất. Khổng Tử cũng có nói rằng : “Hễ nương theo lợi mà làm thì nhiều điều oán”[40]. Nghĩa là, hễ mình làm việc gì cũng cốt cho một mình được lợi, thì tất phải hại đến kẻ khác mà rồi có nhiều người oán mình.
Theo cái thuyết trọng nghĩa khinh lợi của Khổng giáo nên các nhà vua thuở nay, đối với dân không dám lấy thuế nặng hay là bày ra nhiều thứ thuế. Chẳng những vậy, gặp năm mất mùa lại còn giảm thuế hay là tha hẳn đi, còn chẩn thại cho cân nữa là khác. Cứ như cái tình hình kinh tế ngày nay, thật không thể làm như vậy được. Song ở thời đại quân chủ chuyên chế, phải làm vậy mới được, không thì thế nào cũng sanh loạn, trong lịch sử có thấy nhiều ông vua vì hà chính bạo liễm[41] mà phải diệt vong.
Thế nhưng ở đây tôi không cốt nói về phương diện vua đối với dân, chỉ cốt nói về trong xã hội An Nam ta, cá nhân đối với cá nhân, đã chịu ảnh hưởng của cái thuyết ấy thế nào.
Ngoài những câu đức Khổng Tử nói mà đã dẫn trên kia, ngài lại còn nói nhiều lời khác làm cho sự phân biệt nghĩa và lợi càng thêm rõ ràng thiết thiệt, mà phàm người có đọc sách ngài không thể bỏ qua đi được. Ngài đã tỏ ra ý mình đối với sự giàu sang mà rằng : “Ăn cơm lức, uống nước trong, co cánh tay mà gối, cái vui cũng ở trong đó rồi. Chớ còn làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, thì ta coi cũng như đám mây nổi”[42]. Lại rằng : “Khi trong nước hữu đạo (nghĩa là thạnh trị) mà mình chịu nghèo hèn là đáng xấu hổ ; khi trong nước vô đạo (nghĩa là loạn ly) mà mình được giàu sang, cũng là đáng xấu hổ”[43]. Lại khi “ngài ở nước Trần, hết lương ăn, Tử Lộ tỏ ý bất bình mà nói cùng ngài rằng : Thế ra người quân tử cũng có lúc cùng ư ? Ngài đáp rằng : Quân tử cùng thì chịu cùng, chớ còn tiểu nhân, hễ cùng thì làm bậy”[44]. Trong ba câu đó chỉ câu thứ nhì nghĩa nó hơi tối một chút nên giải thêm cho rõ hơn. Khi trong nước hữu đạo mà mình chịu nghèo hèn, thế là tỏ ra mình vô tài, cho nên đáng xấu hổ. Khi trong nước vô đạo mà mình được giàu sang, thế là chỉ có hùa theo sự vô đạo ấy mà kiếm ăn, hoặc đến làm điều bất nghĩa để cầu lợi, cho nên đáng xấu hổ.
...(Tòa kiểm duyệt bỏ một đoạn)....
Với cái thuyết nầy, phải kể Tống nho là thật có công lắm. Trình tử nói rằng : “Kẻ học chẳng có việc gì trước hơn là phân biệt nghĩa và lợi”. Một câu ấy khác nào như một cái hoa tiêu cắm ngay trước mặt những người mới bước chơn vào cửa Khổng.
Bởi vậy trong làng nhà nho ở nước ta, những người nào học mà rồi trả chữ cho Thánh thì thôi không kể, chớ còn những người học được chữ nào làm được chữ ấy, thì họ phải gióng theo sự phân biệt nghĩa và lợi đó mà quyết định cái đường tấn thối[45] của mình. Chúng ta đừng thấy bọn nhà nho ngày nay phần nhiều thất thế, không làm ra gì được, mà khinh họ là vô tài. Vô tài thì cũng có vô tài thật, nhưng họ lại quên lửng cái sự vô tài của mình đi ; họ đương ngồi xấp bằng trong ba gian lều cỏ dựa lưng vào chữ “nghĩa” mà khủng khỉnh làm cao, lấy nửa con mắt coi những phường ăn sung mặc sướng, lên bổng xuống trầm, mà cho là đồ vô sỉ ! Mà hạng người ấy nào có phải là ít.
Tôi biết cụ Nguyễn Bá Học. Cách 20 năm trước, tôi ở Nam Định học chữ Pháp với cụ đâu vài tháng. Song tôi nhìn cụ là ông thầy tôi thật. Cụ học chữ Hán vào bậc giỏi, chữ Pháp cụ cũng thông, ở thời bấy giờ có tài như cụ, giá “lém” ra thì làm gì chả được. Song cụ cứ cả đời làm thầy giáo, lương bổng vừa đủ ăn. Năm 1906, đức Thành Thái ra Bắc kỳ, nghe tiếng cụ, toan thưởng cho cái hàm Hàn lâm gì đó. Cụ kiếm cớ từ chối không chịu. Sau ngài ban cho cái biển bốn chữ “giản dị tinh thông” là cái biển sơn đen thếp vàng, hiện giờ còn treo tại nhà. Ấy là tôi cử ra một Nguyễn Bá Học, nhơn tiện vì nhiều người đã thấy cụ trong Nam phong ; còn biết bao Nguyễn Bá Học khác mà không tên tuổi chi, thì có ai biết đến !
Nếu trong xã hội không cần có những người có nết thanh cao để làm tiêu biểu, hay là nói rằng đương thời đại vật chất, hãy đua nhau trong đường vật chất không còn kể tinh thần là cái cóc mốc gì, thì thôi, chẳng nói làm chi ; bằng trong đời còn có luân lý, trong lòng người ta còn có một chỗ để chứa cái trong sạch thơm tho, thì những nhà nho cao thượng ấy ta cũng nên biểu dương ra mới phải, mà cùng trong lúc đó ta lại phải cảm ơn Khổng giáo.
Nhiều khi tôi thấy những chuyện vụn vặt trong làng xóm mà tôi ngẫm nghĩ hoài. Càng ngẫm nghĩ tôi càng tin cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta thật là sâu xa. Tôi kể lấy một chuyện mà nghe.
Ở vùng nhà quê tôi có hai anh em người kia, anh giàu mà em nghèo. Người em chuyên nghề trồng trầu bán. Lúc đó vừa gặp sau cơn bão, trầu mắc. Nhà anh sai trẻ cầm tiền qua nhà em mua một tiền trầu. Người em hái trầu cho một rổ, biểu đem về mà không lấy tiền, nói rằng : “Chỗ anh em, tao nhờ ảnh nhiều, chi thứ một vài tiền trầu mà bán chác, tao nỡ nào ngửa tay lấy tiền ảnh hay sao ?” Trẻ đem cả trầu lẫn tiền về. Người anh thấy trầu nhiều quá, nói rằng : “Sao một tiền trầu mà nhiều thế, bộ chú vừa bán vừa cho sao há ?” Đứa trẻ mới lòi tiền ra, thuật lời của em. Người anh đưa thêm một tiền nữa biểu cầm cả hai tiền qua trả, và rằng : “Nói với chú nó : tình nghĩa là khác, còn mua bán là mua bán ; huống chi tao đã tư trợ cho chú nó được, thì lẽ nào tao lại đi bòn một bữa gạo của con chú nó sao ?” – Qua bên kia, người em không nghe, bắt cầm tiền lộn về. Vậy rồi đứa trẻ cứ phải đi qua đi lại đến mấy lần, mà tôi không hiểu việc ấy về sau rồi liễu kết ra cách nào.
Việc nhỏ quá con tép ! Song le đạo lý của thánh hiền ở trong đó. Đằng người em lấy nghĩa làm trọng, muốn làm ra quân tử ; đằng người anh đã không ham lợi thì không ham lợi cho luôn, cũng không muốn làm tiểu nhơn. Tôi tưởng người ta ở đời với nhau mà có những câu chuyện như vậy thì nghe có hơi êm đềm dễ chịu, phải không ? Hay là cứ “đồng trên đè đồng dưới” ?
Tôi nghe nhiều người đi bên Pháp về kể chuyện lại. Ở bển, anh em học sanh ta hay tiêu tiền chung với nhau, khi người nầy có, cho kẻ kia tiêu, khi kẻ kia có, người nầy tiêu lại. Song phải biết rằng sự có ấy không kể chắc được. Người Pháp thấy như vậy, trầm trồ lấy làm lạ. Mà lạ thiệt. Chẳng những ở nước Pháp, cả Âu châu cũng vậy, theo luật, cái quyền sở hữu rất phân minh thì bảo sao họ thấy vậy mà chẳng trầm trồ? Vì đó người Pháp ở đây, cho An Nam mình là không biết phân biệt của người của ta nên có thói ăn cắp. Song họ không biết rằng cái sự ăn cắp là khác, còn cái sự không phân biệt của người của ta lại là khác. Không phân biệt của người của ta, tức là cái thói trọng nghĩa khinh tài, chịu ảnh hưởng Khổng giáo lâu đời mới có được cái thói ấy !
Đó là bề mặt. Lật bề trái lại, thì cái sự phân biệt nghĩa lợi cũng có điều khó chịu cho người ta, nhứt là vào thời buổi nầy. Theo tâm lý người mình thì ai ai cũng hiểu rằng lợi là đáng khinh mà nghĩa là đáng trọng. Nhưng xem chừng như ít người đem cái luật ấy ghép vào cho mình, mà lại đem ghép vào cho người khác ở chung quanh mình. Suy cái bụng họ ra, ý chừng họ muốn ai ai cũng “uống nước trong làm việc” thì họ mới ưng ; ai ai cũng “ăn cơm nhà mà đi đánh giặc” thì họ mới cho là quân tử. Bởi vậy khi nghe ông Phan Văn Trường có mấy trăm mẫu ruộng ở Cà Mau, ấy là họ bất bình rồi, họ không hỏi đến lai lịch ruộng ấy vào tay ông Phan cách nào, và từ trước đến nay, ông ta có chút công lao gì đối với người An Nam, từ đó họ không kể nữa ! Như vậy, làm cho kẻ thức giả ở đời càng thấy khó.
Còn bọn gian hùng thì quả nhiên họ lợi dụng cái tâm lý ấy mà làm lợi cho mình. Năm trước, ở Hà Nội tôi thấy có một cái cơ quan, người đứng đầu trong cái cơ quan ấy đối với những người giúp việc cùng mình thì nói : việc nầy chẳng qua chúng ta bớt ra mỗi người một chút công để làm nghĩa vụ ; thế nhưng cái quyền lợi kín ở trỏng không ai thấy thì người ấy tóm thâu. Cho đến mấy ông chủ phòng ngủ, chẳng biết việc làm ăn riêng của họ có can hệ chi đến 20 triệu anh em, mà họ cứ kêu “đồng bào ! đồng bào !” om sòm trên tờ quảng cáo “Hỡi đồng bào ! – Xin hãy vì nghĩa đồng bang ghé vào khách sạn tôi !” – Ừ, đồng bào vì nghĩa đồng bang ghé vào khách sạn ông, ấy là đồng bào làm một việc nghĩa để cho ông thủ lợi ! Hai chữ “đồng bào” có phải là chữ sắm ra để họ dùng vào việc ấy đâu. Còn các ông nhà buôn tinh ranh, cũng chực lợi dụng cái tâm lý ấy. Các ổng đưa những hàng xấu ra mà hô lên rằng : “Của nội hóa đây ! các ngài phải có cái nghĩa vụ dùng nội hóa hầu để khuyến khích công nghệ nước nhà”. Rồi họ thừa dịp đó mà bán mắc muốn gấp hai ngoại hóa. Thế nhưng bọn nầy có dại chi, trong khi ấy thì mình đừng thèm làm quân tử.
Đừng nói những việc nhỏ mọn như vầy là không hại. Một số đông người vì lòng thành thiệt mà bị phỉnh, còn một vài kẻ mượn chữ nghĩa mà lấy lợi riêng, cái tệ ấy lại còn đáng ghét hơn là nhà tư bổn ăn hiếp nhà lao động nữa vậy.
XIII. KHỔNG GIÁO ĐÃ CÙNG ÂU HÓA GẶP NHAU
Nhẫn lên mấy thiên, tôi đã chỉ ra những cái ảnh hưởng Khổng giáo ở nước ta, mà tôi đã thấy được, hoặc dở hoặc hay là vậy. Những cái hay nó không trái với văn hóa mới, thì tôi tưởng nên giữ lại ; còn cái dở, nếu giữ lại thì thật là vô ích mà hữu hại, như tôi đã nói rõ trên kia rồi.
Tôi đã nói, những điều tôi kể ra đó là theo sự tôi thấy. Vậy hoặc còn những cái ảnh hưởng khác mà tôi không nói đến, ấy là vì tôi chưa thấy. Sau nầy nếu tôi còn xem xét ra được điều nào nữa, tôi sẽ bổ thêm vào ; nay tạm dừng bút ở đây.
Trước khi dừng bút, có mấy cái vấn đề về Khổng giáo rất là quan hệ mà ai cũng nên biết, thì tôi xin giãi bày ra trong mấy thiên nữa, làm kết luận luôn thể.
Khổng giáo khi gặp Âu hóa tràn sang thì cái trạng thái nó ra làm sao, sự đó tưởng có nhiều người muốn biết lắm.
Theo tôi thấy thì Khổng giáo tuy đã làm nền móng cho xã hội, duy trì cái thế đạo nhân tâm trong mấy nước Á Đông ta mấy ngàn năm nay, nhưng khi nó đã cụng trán với cái văn minh Âu châu thì chừng như nó muốn lung lay, đứng không vững nữa. Sự ấy rất rõ ràng trước con mắt chúng ta, xin độc giả xem qua cái lịch sử sơ lược dưới nầy, rồi lấy lòng công bình mà xét đoán, thì dẫu viện ông thầy trời xuống cũng không lấy lời nào binh vực cho nó được. Mà theo cái thuyết “ưu thắng liệt bại”, thì nội chỗ đó cũng đủ chứng rằng Khổng giáo là không thích hiệp với sự sanh tồn ở đời nay.
Cái lịch sử Khổng giáo ở nước ta không đủ đem ra mà nói, phải mượn của Tàu.
Khổng giáo có cái tánh chất hay điều hòa. Khi trước gặp Phật giáo thì nó điều hòa với Phật giáo, coi như cái kết quả của Tống nho nói trên kia thì biết. Khi gặp Gia-giáo[46] thì lại cũng muốn điều hòa với Gia[47], tức như bọn Từ Quang Khải hồi nhà Minh là danh nho mà theo Đạo[48], lại làm tể tướng đương triều, theo các giáo sĩ Tây học được những món thiên văn toán pháp, rồi nhờ có thế lực mà làm sách truyền bá ra, về sau ai cũng nhìn rằng Tây học truyền sang Tàu là từ bọn đó. Nhưng đến khi Khổng giáo gặp cả cái văn minh của Âu châu thì dường như muốn điều hòa mà điều hòa không thể được, ví chẳng khác hai người gặp nhau, toan bắt tay, mà rồi một người đi bắc một người nam, rút lại chỉ nhìn nhau chớ không thể bắt tay.
Hồi nhà Minh, các giáo sĩ Tây đem truyền sang Tàu chỉ có thiên văn toán học mà thôi. Lịch pháp nước Tàu nhờ đó mà cải lương được đúng hơn trước. Người Tàu biết có trái đất, biết trái đất chia ra hai bán cầu và ở trển có năm châu cũng là từ đó. Nhưng một vài cái khoa học đó không đủ làm cho người Tàu kính phục, họ cũng vẫn còn tự đại như xưa, họ vẫn cho chỉ có ông Khổng Tử nhà mình là thánh hơn ai hết thảy.
Đến rốt đời nhà Thanh, đời Quang Tự sơ niên, người Tàu đã dịch ra được nhiều sách Tây cả sách khoa học và sách triết học. Bấy giờ họ mới biết bên Tây cũng có những bậc thánh triết như ông Socrates, ông Platon, ông Descartes, ông Kant, v.v. Lại thêm các nước Âu châu đem những tàu những súng qua mà dọa họ, họ mới càng hoảng hốt. Khi ấy các nhà nho nước Tàu trước sau chia ra làm ba phái, tìm cách phò trì cho Khổng giáo để chống lại cái văn minh Âu châu.
Phải thứ nhứt là bọn lập ra cái thuyết “Tây học do Đông nhi lai”. Họ tìm những chứng cớ quàng xiên mà chỉ minh ra rằng bao nhiêu những học thuật Âu châu, dầu triết học dầu khoa học cũng vậy, đều là từ Tàu truyền sang hết, tức như kỷ hà học là phép toán bày ra bởi ông Nhiễm Cầu, học trò đức Khổng Tử. Cái thuyết nầy chỉ là như anh nhà quê làm phách, không bổ ích gì cho sự thiệt hết, nên lại có kẻ nổi lên xướng cái thuyết khác.
Phái thứ nhì là bọn lập ra cái thuyết “Trung học vị thể, Tây học vị dụng”. Họ nói rằng những sự học về luân lý chánh trị, v.v. thì trong Khổng giáo cũng đã đủ thừa rồi, nên lấy những cái đó làm cốt ; nước Tàu thiếu là chỉ thiếu về khoa học, nên phải lấy Tây học để cung cấp cho sự cần dùng. Phái nầy có một tay kiện tướng tức là Trương Chi Đồng[49]. Coi như cái thuyết đó thì thấy họ tuy chưa[50] chịu nhận cả Tây học, nhưng cũng đã nhận một phần của Tây học (vì bấy giờ trong con mắt họ coi Tây học chỉ là khoa học). Cái thuyết ấy thạnh hành một lối, song không thấy công hiệu chi nên lại có phái thứ ba.
Phái thứ ba tức là phái Khương – Lương[51], xướng ra cái thuyết “tam thế” của Khổng giáo. Họ chủ trương rằng Khổng Tử đã lập ra phép tắc để trị các “đời” khác nhau, ấy là đời cứ loạn, đời thăng bình và đời thái bình, mà thái bình tức là đại đồng. Đó là tam thế. Họ chia ra các thời kỳ, từ Khổng Tử cho đến bây giờ cũng còn thuộc về đời cứ loạn ; từ thời kỳ họ đó mới bắt đầu thăng bình rồi còn lâu nữa mới đến thái bình, bấy giờ khắp thế giới sẽ đại đồng. Đương thời kỳ nào thì phải lấy phép tắc theo thời kỳ ấy mà trị. Rồi họ mới lấy một đoạn lời đức Khổng nói trong Kinh Lễ mà vẽ vời ra cái phép tắc đại đồng coi hơi giông giống cái chế độ cộng sản ngày nay. Chính ông Khương Hữu Vi xướng ra cái thuyết nầy, ổng cho rằng sau Khổng Tử hơn hai ngàn năm, cái bí truyền ấy đã giấu kín đi, đến ổng, nhờ Trời mở trí cho mới tìm thấy. Học trò ổng là Lương Khải Siêu cũng phụ họa theo mà nói bô bô lên một độ, nhưng về sau, khi Lương độ chừng 35 tuổi trở lên, không hề nói đến nữa cho đến chết.
Cái thuyết “tam thế” nghe nó xuyên tạc quá, thật không thể đứng được. Người Tàu có ông Trương Văn Khai đã phản đối. Muốn bẻ bác cái thuyết ấy thì phải dẫn sách vở nhiều quá, không tiện, cho nên tôi tạm bỏ đi. Ở đây tôi chỉ có ý cho độc giả biết rằng cái thuyết ấy xướng ra là bởi ông Khương Hữu Vi thấy Khổng giáo không sánh kịp Tây học, mới vẽ vời thêm cho tốt đẹp ra để có đem mà đối địch cùng nhau. Chớ thiệt ra thì trong Khổng giáo có đâu cái đồ quý lạ như Khương đã nói. Mà có lẽ đồ quý lạ ấy lại ổng mượn của Tây học mà đem chưng ra.
Khổng giáo ở nước Tàu xưa nay không có giáo hội (église) gì cả. Từ Khương Hữu Vi mới có lập ra giáo hội, kêu bằng “Khổng giáo hội”. Trần Hoán Chương[52], tấn sĩ, học trò của Khương, đứng chủ trương việc ấy, mà cách tổ chức và chương trình trong giáo hội thì đều do họ Khương bày ra. Giáo hội ấy lập đâu hồi cuối triều Quang Tự, đầu Tuyên Thống, ban đầu thiên hạ cũng nô nức, sau càng ngày càng suy. Tôi không rõ, ngày nay có lẽ tiêu rồi, chưa biết chừng.
Nội một sự lập giáo hội đó cũng đủ thấy cái thế lực của Khổng giáo đã sa sút lắm, không đủ địch lại với cái phong trào ở ngoài, sợ mình thua mà bị diệt vong đi, nên mới lập hội đặng hiệp sức lại mà giữ. Song hễ cái gì nó đã không thích hiệp với đời, thì tức là đã đến ngày nó phải đi, dầu neo tầu cầm cũng không lại. Khổng giáo hội nầy cũng như “Bảo hoàng hội”, mà hai cái đều do tay họ Khương lập ra. Thuở nay, ông vua có cần ai lập hội mà bảo hộ ổng bao giờ, cái ngày lập hội mà bảo hoàng tức là cái ngày đức hoàng đế sắp bước từ trên ngai bước xuống vậy.
Trong mấy năm đầu Dân quốc cũng còn nghe Khổng giáo hội vọc vạch nọ kia. Nhứt là hồi Viên Thế Khải toan xưng đế, muốn lợi dụng Khổng giáo để được việc cho mình, bèn sức cho các trường học phải đọc kinh truyện, bấy giờ Khổng giáo hội hơi đắc thế được một độ. Nhưng sau khi Viên đổ rồi, hội ấy lại suy, rồi suy luôn cho đến giờ. Một đoạn lịch sử ngắn ngắn nầy lại đủ tỏ ra rằng Khổng giáo là bạn với quân quyền, là vây cánh cho cái chánh thể chuyên chế. Hễ quân quyền lụn bại, chánh thể chuyên chế hạ màn, thì Khổng giáo cũng không còn đứng với ai.
Thế mà trong khi phái thứ ba nổi lên đó, họ cố làm cho những chỗ hiệp với quân quyền chuyên chế trong Khổng giáo thay hình đổi dạng đi để giống với Tây học, khỏi trái với thời thế. Ngoài các sách của họ Khương làm ra, là sách đại để dựa theo Tây học mà giải kinh Khổng, có mấy điều Lương Khải Siêu đã biện bác, cũng nên thuật lại mà nghe. Như câu “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi” trong Luận ngữ, tiên nho đều giải rằng : Dân, có thể cho chúng nó noi theo được, mà không thể cho chúng nó biết được. Lương giải lại rằng : Dân trình độ khá, thì cho chúng nó noi theo ; còn chẳng khá thì phải cho chúng nó biết đã. Lại câu “Thiên hạ hữu đạo tắc thứ nhân bất nghị” vốn có ý là dân không được nghị luận đến việc chánh trị ; nhưng Lương giải ra là hồi bấy giờ mọi việc đâu vào đó, nhân dân không còn chỗ nào dị nghị được nữa. Phàm những điều ấy đều vì có ý “cải trang” cho Khổng giáo mà làm ra ; nhưng chỉ cải trang được một câu một lời mà thôi, cả sách vở của họ Khổng còn đó, còn có lời nầy dính dấp với lời kia, chỗ nầy đối chứng với chỗ khác, làm thế nào mà che đậy hết đi được ? Việc họ làm đó chẳng có công hiệu gì, chỉ càng tỏ ra Khổng giáo đã đến ngày đứng không vững, nên mới dựa vào lưng người khác vậy.
Cũng như ở ta đây, có nhiều người đã lấy câu “tứ hải chi nội giai huynh đệ dã” trong Luận ngữ mà cho rằng Khổng giáo cũng chuộng nghĩa bác ái, không phân biệt các chủng tộc trong loài người. Thật ra thì lời đoán ấy chưa chắc là đã phải. Cứ văn nghĩa của nội một câu đó cũng đã rõ rồi. Bởi vì, nói rằng “tứ hải chi nội” (nghĩa là trong bốn biển) thì rõ là chỉ trong một nước Tàu mà thôi, câu ấy chẳng khác nào nhìn mọi người cùng ở nước Tàu là anh em, chớ không hề nói đến người ở ngoài bốn biển. Huống chi trong kinh Xuân thu của đức Khổng làm ra, có một cái nghĩa lớn, kêu là “nội Trung quốc ngoại di địch”, lấy nước Tàu làm chủ mà ngoại các nước khác ra, cho là mọi rợ hết ; đã cho là mọi rợ mà còn nhìn là anh em được sao ? Vì quá ư tự tôn theo kiểu Xuân thu đó mà 5-7 mươi năm về trước nước Tàu và nước ta đều cho người Tây là mọi, cái lầm như cái trời ấy trải bao lâu mới tỉnh biết. Thế mà ngày nay ta còn xưng Khổng giáo là bác ái, chẳng qua thấy Gia-tô và Phật có cái nghĩa ấy rồi ta cũng kiếm lấy một cái tựa tựa để chưng ra cho có với đời mà thôi.
Lại cũng có người lấy câu “Dân quý quân khinh” mà cho rằng chính Mạnh Tử đã xướng ra dân quyền trước các học giả bên Tây. Kỳ thiệt có phải vậy đâu. Lời Mạnh Tử nói đó cũng giống như trong Kinh Thơ[53] nói rằng “dân duy bang bổn” (nghĩa là dân là cội gốc của nước) mà chỉ bạo hơn một chút. Nói vậy có ý khuyên người làm vua phải coi dân là trọng chớ chẳng hề có ý biểu vua phải nhường quyền cho dân. Coi cả sách Mạnh Tử, chỗ nào ổng cũng nói “bảo dân, dưỡng dân, mục dân”, nghĩa là nuôi dân như nuôi con, chăn dân như chăn trâu chăn dê vậy ; vậy thì dựa vào chỗ nào dám bảo rằng Mạnh Tử đã xướng dân quyền ? Đại phàm bàn về một cái giáo nghĩa nào một cái học thuyết nào, cũng phải như đứng vào chỗ rất cao mà ngó xuống cả toàn thể nó, rồi phán đoán mới trúng được ; chớ nếu thấy đâu nói đó, mượn một câu một lời, thì luôn luôn là sai lầm, dối mình và dối cả người nữa.
Nãy giờ nói hơi xa đề, nay xin tiếp theo khúc lịch sử đã kể trước.
Người Tàu thấy ba phái kia đối với cái vấn đề Khổng giáo gặp Âu hóa giải quyết lúng túng không xong, năm 1916 khởi đầu mới có cuộc cách mạng lớn về tư tưởng, tức gọi là “tân văn hóa vận động”. Bấy giờ mới có những người cất thân ra làm tròng bia chịu đạn như bọn Ngô Ngu, Trần Độc Tú[54] mà công kích Khổng giáo rất kịch liệt. Sau đó bèn có những sự cất tế điền họ Khổng ở Khúc Phụ và bỏ xuân đình thu đình không tế.
Người An Nam mình nghe những sự như vậy đều phải than thở, cho họ là làm bậy, quá nhẫn tâm.
Song phải hiểu mới được, phải biết tình thế nước người ta, nếu đã biết, thôi thì không trách. Bởi vì các nước lập hiến đời nay, trong hiến pháp nước nào cũng có điều nhân dân tín giáo tự do. Đã tín giáo tự do thì trong nước chắc có nhiều tông giáo. Trong nước đã nhiều tông giáo thì nhà nước không có thể tôn một cái giáo nào làm quốc giáo (religion nationale) được.Trong bản thảo hiến pháp của Tàu[55], nơi điều 11, cũng đã định rằng tín giáo tự do, thì lẽ nào nhà nước Tàu còn tôn thờ riêng một mình Khổng Tử ? Nếu còn đặt tế điền, còn tế lễ một năm hai kỳ ở văn miếu, thì thành ra nhà nước lấy Khổng giáo làm quốc giáo rồi, há chẳng trái với hiến pháp hay sao ? Nước Tàu cũng còn có mấy chục triệu dân không theo Khổng giáo mà theo các giáo khác, bọn ấy có dại đâu ngồi yên mà để cho chánh phủ làm như vậy ? Vì lẽ đó nước Pháp trong năm 1904 cũng truất Thiên Chúa giáo, không nhận làm quốc giáo nữa, hầu để tôn trọng hiến pháp và quyền tự do tín giáo của nhân dân. Thế nhưng, người mình đối với việc nước Pháp làm thì không ai nói chi ; còn thấy người Tàu làm, thì cho là làm bậy. Sự đó cũng không lạ mấy, vì An Nam đối với Khổng Tử có tình sâu nghĩa nặng hơn là đối với Jésus Christ.
Tuy vậy, hiến pháp nước Tàu, nơi điều 19, nói về việc quốc dân giáo dục, lại có nói rằng “lấy đạo Khổng Tử làm cái gốc lớn cho sự tu thân”. Theo ý riêng tôi thì sự đó rất phải, và cũng chẳng đến nỗi mâu thuẫn với điều 11 ; ấy vậy mà lúc bấy giờ trong nước Tàu nhao nhao lên,có nhiều người còn không chịu nữa, thế thì đủ biết cái sự người ta làm trên kia là sự vạn bất đắc dĩ vậy.
Cho đến năm ngoái đây, sau khi Chánh phủ Quốc dân thành lập tại Nam Kinh, trở lại hạ lịnh cho nhân dân phải tôn Khổng. Bởi vậy mà khắp trong nước ta, thấy Hoa Kiều đã làm lễ kỷ niệm Khổng Tử hai lần rồi. Sự nầy tôi không được biết cho rõ là thế nào, cứ theo dư luận người Tàu thì họ nói vì Tưởng Giới Thạch muốn thi hành cái lối độc tài (dictature) nên mới hạ cái lịnh ấy, nghe có lẽ lắm. Độ trước, tôi có viết trong Quần báo mà rằng : “Đối với Chánh phủ Nam Kinh, tôi vốn không ngờ vực gì cả ; nhưng từ khi chánh phủ ấy hạ lịnh tôn Khổng, tôi bèn bắt đầu nghi cho họ có giã tâm”, vì việc họ làm đó coi giống việc Viên Thế Khải đã làm năm xưa.
Cái lược sử Khổng giáo ở nước Tàu cùng cái văn minh Âu châu gặp nhau đầu đuôi như vậy. Coi đó thì biết cái gốc của Khổng giáo ngày nay đã lung lay. Có kẻ hay than vắn thở dài, sợ rằng đạo Thánh gặp phải cái thời khó khăn nầy rồi một ngày một suy diệt. Tôi thì tôi nói : Đổ cho thời a ? Có ai bắt đạo Thánh phải suy ? Suy là tại đạo Thánh không đủ sức trong mình để làm nên thạnh.
Nước Tàu còn có năm ba bọn trung với Khổng giáo, gặp cơn nguy biến, ra tay chống chải, hết phương nầy tìm phương khác, tuy không kéo lại được mà cũng còn tỏ cho thiên hạ biết rằng trong Khổng giáo vẫn có người. Đến nước ta thì hết chỗ nói ! Khổng giáo ở nước ta trong khi gặp văn minh Âu châu, hình như nó nằm sát rạt xuống, vừa khóc vừa rên, vừa ngửng đầu lên coi chánh phủ. Chánh phủ có để khoa cử thì cứ thi đậu làm quan chơi ; chánh phủ bỏ khoa cử thì cũng đau lòng mà khóc rên chút đỉnh ; nhưng đến khi chánh phủ lập trường ra bắt học chữ Pháp thì lại lau nước mắt mà cứ việc học, mong cho tốt nghiệp đặng làm quan. Rồi đến ngày nay đây, có thằng ngỗ nghịch là thằng tôi nó dám ra đương trường chỉ trích Khổng giáo, - để coi giạc chừng như, - cũng không ai thèm nóng mặt mà ra miệng hết. Ừ, nó nói ông Khổng Tử chớ nó có nói chi mình đâu, nó có động đến bát cơm của mình đâu mà hòng ra miệng ! Không dám dối độc giả, tôi viết đến đây, bỗng dưng hai hàng nước mắt trào ra trên giấy. Không phải tôi khóc vì Khổng giáo điêu tàn, nhưng tôi khóc, một là vì cái kẻ chỉ trích Khổng giáo lại là tôi, hai là vì ngó thấy cái tình đời bạc bẽo !
Vậy mà hễ nói đến Khổng giáo thì ai nấy đồng thanh bảo phải duy trì. Hôm trước đây thấy Chánh phủ Nam kỳ ra lịnh bắt dạy chữ nho mỗi tuần một giờ trong các trường, thì đã đua nhau cảm ơn và ca tụng ! Tôi chẳng biết nửa giờ chữ nho ấy mà nó có ích gì cho học trò, có ích gì cho Khổng giáo, có ích gì cho cái văn hóa tương lai của Việt Nam?
Mới đây, đọc một tờ báo quốc ngữ ở Hà Nội, trong có bài bàn về sự duy trì Khổng giáo, tôi thấy như thấy của quý, nên coi thử lập luận ra sao. Cái lý do của họ rất là đơn sơ, chỉ nói rằng nước Tàu ngày nay mà còn tôn Khổng, các bậc kỳ cựu họ vẫn lo bảo tồn Khổng giáo, thì ta cũng nên lấy họ làm gương. Nói như vậy thì thật chẳng có lý gì hết. Muốn duy trì Khổng giáo thì phải hiểu Khổng giáo là gì, cái địa vị của nó ngày nay ra sao, duy trì nó có ích lợi gì không, và làm cách nào mà duy trì ; chớ còn thấy người ta duy trì, mình cũng duy trì, thì chỉ nói cho vui tai đó vậy.
Trong bọn kỳ cựu Tàu đó, tôi biết có lão Ngô Trĩ Huy. Va năm nay ngoài 60 tuổi, đương làm ủy viên trong chánh phủ Nam Kinh, mà là một người phản đối Khổng Tử, hồi trước rất kịch liệt và lỗ mỗ. Trong văn tập chú va, có chỗ va nói rằng : “Cái học của Khổng Khưu là cái học ăn c...” (“Khổng Khưu khiết phẩn chi học”), vậy mà ngày nay va lại đồng tình với mấy ủy viên kia hạ cái lịnh tôn Khổng, thì tôi chẳng hiểu va là người gì ! Ông biểu tôi lấy thứ đồ kỳ cựu ấy mà làm gương cho tôi sao?
Nguồn: Bài đăng trên Thần chung, Sài Gòn, 21 số liền: số 213 (1.10.1929); số214 (3.10.1929); số 216 (6&7.10.1929); số 218 (9.10.1929); số 219 (10.10.1929); số 220 (11.10.1929); số 221 (12.10.1929); số 222 (13&14.10.1929); số 223 (15.10.1929); số 225 (17.10.1929); số 227 (19.10.1929); số 229 (22.10.1929); số 232 (25.10.1929); số 235 (29.10.1929); số 236 (30.10.1929); số 239 (5.11.1929); số 241 (7.11.1929); số 242 (8.11.1929); số 247 (15.11.1929); số 248 (16.11.1929); số 249 (17&18.11.1929). Phiên bản điện tử: http://lainguyenan.free.fr
[1] Kinh Thơ (viết theo giọng đọc Nam Kỳ) đây chính là Kinh Thư chứ không phải Kinh Thi
[2] Bản gốc chấm lửng liền hai dòng và để trống chừng 4 dòng, không rõ vì kiểm duyệt hay vì lý do nào khác
[3] Đại học, chương IX
[4] Rột: mạnh, oai, ví dụ : đi rột quá : đi có đông kẻ hầu người hạ ; làm rột quá : làm ra sự thể lớn ; chèo rột : chèo mạnh mẽ (theo H.T. Paulus Của)
[5] Trung dung, chương XX
[6] Ingénier : kỹ sư
[7] Bản gốc là vẫy, có lẽ in sai; ở đây sửa lại
[8] Sách Trung dung, chương II
[9] Sách Mạnh Tử theo Chu Hy tập chú, thiên Tận tâm thượng
[10] Sách Trung dung theo Chu Hy tập chú, chương II
[11] Trung dung, chương III
[12] Trung dung, chương III
[13] Trung dung, chương III
[14] Trung dung, chương VI
[15] Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng
[16] Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng
[17] Luận ngữ, thiên Thuật nhi
[18] Thấy trong Tân ước thánh kinh, sách Mathieu
[19] Thấy trong Tân ước thánh kinh, sách Mathieu
[20] Thấy trong Tân ước thánh kinh, sách Mathieu
[21] Ở bản đăng báo chỗ này rơi mất 1 chữ nguyên âm nên hơi khó đoán “con t n” là gì ? Nguyên câu trong sách Mạnh Tử là : “Khổng Tử tam nguyệt vô quân, tắc hoàng hoàng như dã, xuất cương tất tải chí” (= Khổng Tử nếu ba tháng không thờ vua nào thì lòng dạ như bàng hoàng thiếu thốn; mỗi khi ngài từ nước này sang nước khác đều mang sẵn theo lễ vật hiến tặng). Ở các từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh và Thiều Chửu có 2 từ “chí”, dạng chữ khác nhau, đều có nghĩa là “đồ lễ”, “của làm tin”, “đồ lễ tương kiến”. Khi dịch câu này của Mạnh Tử, có lẽ Phan Khôi không muốn dịch sát là “đồ lễ”, “lễ vật” nói chung mà muốn cụ thể hóa hơn một chút hành vi của Khổng Tử. Dựa vào gợi ý của một vài bạn nghiên cứu, tôi đoán chỗ này có lẽ Phan Khôi dịch là “... chở con tẫn theo”; tẫn, chữ Hán, trỏ con cái trong các giống chim, thú.
[22] Mạnh Tử, thiên Đằng văn công, hạ.
[23] Luận ngữ, thiên Hiến vấn
[24] Luận ngữ, thiên Dương hóa
[25] Luận ngữ, thiên Vi tử
[26] Luận ngữ, thiên Dương hóa
[27] Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công
[28] Luận ngữ, thiên Tử Lộ
[29] Luận ngữ, thiên Tiên tấn
[30] Luận ngữ, thiên Tử Lộ
[31] Mạnh Tử, thiên Đằng Văn công, thượng
[32] Sanh lý ở đây gần với sinh kế, ý nói việc làm ăn kiếm sống thực tế; hoàn toàn khác sinh lý theo nghĩa hiện nay
[33] Phản động: ở đây nghĩa là “chống lại” ; khác hàm nghĩa “phản động” thời nay
[34] Khi không: tình cờ, tự nhiên, không có chuyện gì (theo H.T. Paulus Của) ; bỗng dưng, tự dưng (theo Từ điển phương ngữ Nam Bộ)
[35] Luận ngữ, Lý nhân
[36] Luận ngữ, Hiến vấn
[37] Bản gốc là quý phụ, có lẽ in lầm; ở đây sửa lại
[38] Mạnh Tử, Lương Huệ Vương thượng
[39] Mạnh Tử, Cáo tử hà
[40] Luận ngữ, Lý nhân
[41] Hà chính: chính trị hà khắc, tàn bạo; bạo liễm: đánh thuế quá nặng
[42] Luận ngữ, Thuật nhi
[43] Luận ngữ, Thái bá
[44] Luận ngữ, Vệ Linh công
[45] Tấn thối: tiến thoái
[46] Gia, Gia-giáo, Đạo nói ở đây đều trỏ Thiên Chúa giáo (cũng gọi Ki-tô giáo, Cơ-đốc giáo, Gia-tô giáo), tức là Christianisme nói chung, chưa phân biệt Catholicisme (Công giáo) hay Orthodoxie (chính thống giáo), Protestantisme (tân giáo, Tin lành)
[47] Xem chú thích trên.
[48] Xem chú thích trên.
[49] Đúng ra là Trương Chi Động (1837-1909), đại diện cho phái Dương Vụ cuối triều Thanh (theo Từ điển Nho Phật Đạo, bản dịch từ Hoa ngữ, Hà Nội: Nxb. Văn học, 2001)
[50] Bản gốc là “học tuy chưa...”, có lẽ in sai, ở đây sửa lại
[51] Hoặc Khang – Lương: gồm Khang Hữu Vi (1858-1927) và Lương Khải Siêu (1873-1829)
[52] Trần Hoán Chương (1881-1933) Tiến sĩ Nho học; lưu học đại học Columbia (Mỹ) lại đỗ Tiến sĩ; về nước sáng lập Khổng giáo hội, ra Khổng giáo hội tạp chí (1913), mở đại hội Khổng giáo toàn quốc ở Khúc Phụ, để xuất với Thượng viện và Hạ viện Trung Hoa dân quốc việc lập Khổng giáo làm quốc giá.
[53] Kinh Thơ: tức là Kinh Thư (viết theo giọng đọc Nam Kỳ) chứ không phải Kinh Thi
[54] Ngô Ngu (1871-1949), học giả, thủ lĩnh tinh thần của phong trào “tân văn hóa” (phong trào Ngũ Tứ). Trần Độc Tú (1880-1942), học giả, một trong những người đề xướng “tân văn hóa”; là người sáng lập và tổng bí thư đầu tiên của Đảng cộng sản Trung Quốc (1921-27), sau trở thành người chống đảng.
[55] Đây là nói dự thảo hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc, tức là chính thể nhà nước cộng hòa được thành lập sau Cách mạng Tân Hợi (1911), chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế ở Trung Quốc
Ý KIẾN BẠN ĐỌC