ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
THIÊN THỨ HAI ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO, GIÁO LÝ LÝ LUẬN
CHƯƠNG THỨ BA ĐẶC CHẤT CỦA PHẬT GIÁO TẠI BA QUỐC GIA
KIMURA TAIKEN
Kimura Taiken. Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận. Thích Quảng Độ dịch. Viện Đại học Vạn Hạnh. 1969. | Phiên bản điện tử: thuvienhoasen.org
TIẾT THỨ NHẤT: Nói một cách khái quát thì tuy gọi là Phật giáo song trong đó có nhiều lập trường khác nhau. Chúng ta hãy đứng trên lập trường giáo lý và lịch sử chia thành ba loại để quan sát. Thứ nhất, Nguyên thủy Phật Giáo, thứ hai, Bộ phái Phật Giáo, và thứ ba, Đại thừa Phật Giáo. Do đó, muốn hiểu rõ đặc chất của Phật GiáoĐại Thừa, trước hết ta phải hiểu qua về Nguyên thủy Phật Giáo và Bộ phái Phật Giáo. Nguyên thủy Phật Giáo, còn được gọi là căn bản Phật Giáo, thường được coi như gần với lịch sử và lập trường của đức Phật nhất, và gần đây rất được các giới học giả lưu tâm nghiên cứu. Bởi thế về chân tướng của Phật Giáo Nguyên thủy có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nói một cách đại thể, ta hãy chia thành số mục sau đây: 1) Những người do đức Phật trực tiếp cảm hoá, tập hợp thành giáo đoàn, lấy Phật làm thầy, muốn được an tâm lập mệnh như Phật, chỉ khi thành Phật đạo đến một trăm năm sau khi Phật nhập diệt (từ đầu thế kỷ thứ năm đến hết thế kỷ thứ tư trước Tây lịch). 2) Xuất phát từ điểm muốn được an tâm lập mệnh, người ta ý thức nhiều về những nỗi khổ não cố hữu của kiếp sống. 3) Các pháp thế gian đều lưu chuyển không ngừng, khó có thể quán phá được các Pháp duyên khởi. Nguồn góc của mọi khổ đau là tham dục, chấp ngã. 4) Bởi thế muốn thoát ly mọi khổ đau, người ta chỉ cần diệt trừtham dục, chấp ngã, trước hết phải bình tĩnh quán sát các pháp thế gian một cách thuần túy khách quan, coi lão, bệnh, tử và hết thảy điều bất như ý là hình tướng của các pháp thế gian. Nếu lý hội được như vậy thì các cái đó không còn làm ta khổ não, tâm hồn ta sẽ đạt đến cảnh an nhiên tự tại và còn được gọi là Niết Bàn. Khổ, vui, mê, ngộ đều không ngoài tâm: hết thảy đều do tâm chủ trì. 5) Nếu muốn đạt được những mục đích kể trên, người ta cần nổ lực cải tạo hành vi, quán tưởng, mở mang trí tuệ, làm cho cái tâm trong sáng, gạn trừ mọi tư tưởng nhiểm ô. Trên đây là những lập trường chủ yếu của Phật Giáo Nguyên thủy. Căn cứ vào lập trường của Phật Giáo Nguyên thủy với những quá trình phát triển về tâm lý hoặt luận lý để lần lần tiến đến nhiều phương hướng khác nhau, ta thấy bề ngoài Phật Giáo Nguyên thủy vẫn đượm một màu sắc thuần phát chứ không như những thuyết lý do đời sau chủ trương. Không những thế mà thôi, thái độ giáo hóa của đức Phật cực kỳ bao quát, không những đối với hàng đệ tử xuất gia chỉ bày con đường giải thoát, mà đối với tất cả vấn đề trọng đại của nhân sinh, đức Phật cũng lấy quãng đại quần chúng làm đối tượng, dùng mọi phương tiện thích ứng để dẫn đạo họ về con đường tốt lành và hạnh phúc. Tóm lại, đặc chất của Phật Giáo Nguyên thủy là ở chổ ít quan tâm đến lý luận chỉ trọng thực hành; ít thuyết minh về giáo điều, chỉ cần thể nghiệm được pháp vị, ít chú ý đến hình thức, mà trọng tinh thần; còn đối với việc xây dựng một thế giới hiện thực tốt đẹp tuy cũng có lưu tâm, nhưng điều đó chỉ có nhân cách hoàn toàn của đức Phật mới cảm hóa và thực hiện được mà thôi. Kế thừa Nguyên thủy Phật Giáo là Bộ-Phái Phật Giáo, nhưng đến Bộ-Phái Phật Giáo thì cái nhân cách cảm hóa của đức Phật dần dần suy giảm, chỉ chuyên duy trì giáo pháp và giới luật của Phật để bảo toàn sự sống còn của giáo đoàn. Do đó giáo pháp mới được chỉnh lý, chú giải, đặt nền tảng cho thần học và xác định giáo điều của Phật Giáo. Song như đã nói ở trên, vì lập trường của Phật Giáo Nguyên thủykhông triệt để chú trọng về luận lý, cho nên với vấn đề chi li về giáo điều hay thần học tất nhiên là đã phát sinh nhiều ý kiến bất đồng, và đây kà một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa giáo đoàn đến chổ phân biệt vậy. Và theo truyền thuyết thì khoảng bốn, năm trăm sau khi Phật nhập diệt, giáo đoàn đã chia thành hơn mười Bộ phái với những lập trường khác nhau, nhưng nói một cách tổng quát thì đại để đặc chất Bộ-phái Phật Giáo không ngoài những điểm sau đây: 1) Nguyên thủy Phật Giáo lấy nội tâm làm chủ; Bộ phái Phật Giáo tuy cũng lấy nội tâm làm chủ nhưng đói với ngoại giới cũng đặc biệt chú ý. 2) Nguyên thủy Phật Giáo dẫu trên hình thức cũng thuyết minh phân tích, nhưng về nội tâm lấy duyên khởi quan “một tức hết thảy" làm nền tảng, đến Bộ-phái Phật Giáo thì phân tích những yếu tố của vạn hữu và rất coi trọng sự phân tích đó. 3) Nguyên thủy Phật Giáo tuy có một quy tắc thực hành nhất định nhưng lại lấy tinh thần làm chủ chứ không lấy hình thức ngoại làm chủ, đến Bộ-phái Phật Giáo thay vì chú trọng nội tâm, lại chú trọng đến quy định ở ngoài. 4) Nguyên thủy Phật Giáo đối với cái gọi là đạo tại gia cũng rất chú ý; đến Bộ-phái Phật Giáo thì chỉ chuyên chú trọng về đạo xuất gia, lấy đó làm vấn đề trung tâm mà sao lãng đạo tại gia, do đó, đối với các xu thế của thời đại hầu như không quan tâm.
1. 5) Ở Nguyên thủy Phật Giáo người ta được coi như đức Phật là lấy giải thoát làm mục đích: đến Bộ-phái Phật Giáo vì quá tôn sùng nhân cách cao cả của phật, cho nên coi Phật là bậc cao siêu hơn hết người thường không thể sánh được, tất cả người tu hành chỉ được coi là đệ tử của Phật mà thôi.
TIẾT THỨ HAI: Trên hình thức, Phật Giáo đến thời đại Bộ-phái đã được chỉnh đốn một cách rất nghiêm chỉnh. Tuy nói là hạn cục, nhưng vì muốn kế tiếp tinh thần truyền đạo của đức Phật, Bộ-phái Phật Giáo không những chỉ lưu hành trong nội đại Ấn Độ mà còn phát triển ra các nước ngoài. Ngày nay chỉ truyền là nam phươngThượng-tọa-bộ được truyền tại các nước Xiêm-La, Miến Điện, Tích Lan v.v… nhưng thật thì đã có một thời các Bộ-phái khác cũng đã được truyền bá bốn phương, và điều này chỉ cần xem các tập du ký của ngài Huyền Trang, Nghĩa Tịnh cũng đủ rõ. Song nhận xét theo phần nội dung của giáo nghĩa thì như trên đã nói, Bộ-phái Phật Giáo vì quá chú trọng về vấn đề chuyên môn hoá, nên đã biến thành chủ nghĩa xuất gia, còn đối với quãng đại quần chúng tại gia, Bộ-phái Phật Giáo đã không thể tiếp xúc trực tiếp để duy trì và hướng đạo họ, điều này cũng là một sự thật hiển nhiên. Cũng vì thế mà đối với những xu hướng tiến bộ và tinh thần hoạt động không ngừng của thời đại, Phật giáo đã không có sự thích ứngthỏa đáng, nên tinh thần của đức Phật đối với xã hội cũng đã suy giảm nhiều. Các nhà Đại Thừa gọi Bộ-phái Phật Giáo là Tiểu Thừa chính là do điểm này. Đã phá thái độ đó, vận động làm sống lại tinh thầnhoạt động của đức Phật để thích ứng với những đòi hỏi tiến bộ của thời đại chính là Đại Thừa Phật Giáo. Kết quả của cuộc vận động này đã đưa đến cuộc kết tập các kinh điển Phương-Đẳng của Phật, như: Bát Nhã, Pháp Hoa, Duy Ma, Thắng Man. Hoa nghiêm, Đại Vô Lượng Thọ, Đại Thừa Niết Bànv.v… đều là sản phẩm của cuộc vận động này. Nói vào niên đại thì đại khái vào khoảng đầu thế kỷ thứ tư hay thứ năm sau Tây-lịch. Đại Thừa tuy đến lúc đó mới phát khởi và hoàn thành, nhưng truy đến uyên nguyên của nó thì tinh thần đó đã có sẳn ngay ở đức Phật, và sau này khi Đại Thừa được truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản, thì tinh thần đó lại được khai triển rất nhiều. Nhưng có thể nói cho đếnngày nay tinh thần Đại Thừa vẫn chưa được hoàn toàn viên mãn. Như vậy đặc chất của Đại Thừa Phật Giáo như thế nào? Câu hỏi đó tưởng không cần nói là một câu rất khó trả lời. Tuy nhiên, nếu chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nổi bật thì đại khái có những điểm như sau: 1) Thời kỳ Tiểu Thừa Giáo, vì chỉ tìm cầu sự giải thoát cho bản thân, việc cứu độ người khác đối với con đường giải thoát của mình không phải là một điều tất yếu. Nhưng Đại Thừa vì cho rằng tất cả mọi ngườiđều có khả năng tính thành Phật, cho nên chủ trương người ta ai cũng có thể tu thành Phật, được như Phật, bởi vậy mới lấy việc cứu độ hết thảy chúng sanh làm lý tưởng tối cao của mình. Tiểu Thừa chỉ nhận có một Phật Thích Ca, Đại Thừa thừa nhận chư Phật đồng thời tồn tại, đó là lý do minh chứng mọi người đều có thể thành Phật chứ không riêng gì Phật Thích-Ca. Và không những chỉ ở thế giới này mà còn ở các thế giới khác trong mười phương đều có Phật cả; không những chỉ có Phật ở hiện tại, mà ở quá khứ, tương lai đều có Phật. Thành Phật là lý tưởng tối hậu; nhưng thật ra không phải thực hiệnđược lý tưởng đó một cách dễ dàng. Theo Đại Thừa, muốn thành Phật trước hết hành giả phải thành một vị hậu bổ Bồ-Tát, tu theo hạnh Bồ-Tát của các bật Bồ-Tát tiền bối. Bồ Tát là người cầu đạo Bồ Đề(sự giác ngộ của Phật), tức là thời kỳ tu để thành Phật. Song Bồ-tát đây không như Thanh Văn chỉ hạn cục ở người xuất gia, những người tuy ở tại gia sông theo thế gian, nhưng nếu diệt trừ lòng tham dụcích kỷ, làm lợi cho đời, dắt dẫn người đời về đường thiện, tích công lập đức, cuối cùng hồi hướng cho quả vị Phật, đều được coi là Bồ-Tát cả. Mà trái lại chính những người ở tại gia phát tâm cầu đạo mới chính là bản vị của Bồ-Tát. Cứ theo ý nghĩa đó thì đạo Bồ-Tát là một loại thế tục đạo và như Nghiêm Mật nói là một đạo chỉ dương giữa thế tục và xuất gia. Nhưng tuy cũng gọi là Bồ-Tát song trong đó cũng có nhiều loại và cấp bậc khác nhau, có vị đã gần thành quả vị Phật, chỉ có vị chỉ mới phát tâm trên cầu đạo Bồ Đề, dưới hóa độ chúng sinh mà thôi. Lý dotại sao Đại Thừa lấy Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm làm đầu để lập nên vô số Bồ-Tát là ở chổ đó. Lấy Bồ-Tát làm trung tâm là đặc trưng của Đại Thừa Phật Giáo; và gọi Đại Thừa là Phật Thừa hay Bồ-Tát-thừa để đối lại với Tiểu Thừa và Thanh-Văn-thừa hay La-Hán-Thừa cũng lại do ở điểm đó. Nói tóm lại, lập trường của Đại Thừa là lấy Phật làm lý tưởng và lấy sự trở về với tinh thần của đức Phậtlàm mục tiêu. Nếu theo ý nghĩa đó, ta có thể nói Đại Thừa đứng trên lập trường thâm sâu để mưu khôi phục Phật Giáo Nguyên thủy. 2) Bồ-Tát lấy việc trên cầu đạo Bồ Đề, dưới hóa độ chúng sinh làm bản nguyện, và lấy tại gia làm điểm xuất phát, cho nên khác hẳn Đại Thừa, không theo chủ nghĩa ẩn dật, mà trái lại, ở ngay trong thế gianhoạt động với đời, lấy việc cứu dộ làm cơ sở, vì nhu cầu giải thoát chung, cố kiến thiết một thế giới tốt đẹp hơn, nói một cách khác muốn cùng một lúc hoàn thành cả hai nhiệm vụ tại gia và xuất gia, kết quả đã phát họa một quốc gia lý tưởng, đó là lý tưởng Tịnh-Độ vậy. Tiểu Thừa vì lấy sự giải thoát cá nhânlàm chủ nghĩa nên không có lý tưởng Tịnh Độ. Đại Thừa vì có lý tưởng Tịnh Độ nên nhất nhất hoạt độngđều tỏ cái hy vọng là lý tưởng hóa thế gới, đó là đặc chất của Đại Thừa ta cần phải chú ý chổ này (về ý nghĩa và các loại Tịnh Độ, xin xem thiên thứ ba, chương Hiện thực và Tịnh Độ). 3) Đại Thừa vì chấp nhận giá trị của sự thích ứng với sinh hoạt hiện thực cho nên cách khảo sát về dục vọng hay phiền não cũng có nhiều điểm khác hẳn với cách quan sát của Tiểu-Thừa cho rằng con ngườikhổ vì dục vọng, muốn thoát khổ người ta phải diệt hết dục vọng, mà diệt dục tức là chuyên theo giải pháp tiêu cực. Nếu theo nghĩa hẹp của chữ "dục" thì cũng như Tiểu Thừa. Đại Thừa nhân đó là nguồn gốc của mọi khổ đau, nhưng Đại Thừa muốn cho chữ dục một định nghĩa rộng rải hơn để đạt tới vô hạn dục, nhờ vào vô hạn dục đó mà phát tâm mong cầu thành Phật trong kiếp sống vô hạn đau khổ này. Nói tóm lại, Đại Thừa muốn cho chữ dục một ý nghĩa đạo đức và tôn giáo. Bởi vậy, đối với những khổ đau của kiếp người, khác hẳn với Tiểu Thừa tìm cách trốn tránh, Đại Thừa lấy khổ đau làm cơ duyên để tiến đến khía cạnh cao sâu hơn của sự sống; tuy nhận khổ đau là hiện hữu nhưng vẫn có một ý nghĩa đạo đức nên Bồ-Tát mới lăn lộn trong vòng khổ đau để cứu độ chúng sinh và coi đó là một phương châmthoát khổ chân chính duy nhất. Do đó, quan niệm về luân hồi giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa cũng có chổ bất đồng. Tiểu Thừa lấy việc cắt đứt vòng luân hồi làm lý tưởng. Trái lại, Đại Thừa chấp nhận luân hồi, lấy luân hồi làm căn cứ để phát tâm tu hành hướng thượng. Bởi vậy, nếu đứng trên lập trường tu nghiệp mà nhận xét, ta có thể nói luân hồi là điều kiện tất yếu của Bồ-Tát để thực hiện bản nguyện của mình, nói một cách đơn giản thì trong dục vọng khổ đau và luân hồi cũng có giá trị về luân lý, muốn áp dụnggiá trị đó vào cuộc sống tự chủ để tiến tới tích cực hoạt động, đó là đặc sắc nhân sinh quan của Đại Thừa. 4) Như ở trên đã nói, lập trường của Phật Giáo Nguyên thủy là đặc biệt chú trọng vào nội tâm, nhưng đến Tiểu Thừa Phật Giáo thì cho tâm là điều kiện động, nghĩa là đối với sự tồn tại bên ngoài cũng chú ý, và dần dần chú ý quá đến nỗi coi dó là một ý nghĩa đặc biệt trọng yếu, cho nên đã sản sinh ra những người chủ trương thực tại luận một cách cực đoan. Đại Thừa Phật Giáo muốn trở về lập trường của Phật Giáo Nguyên thủy nên chủ trương hết thảy đều do tâm, nhưng ý nghĩa của tâm ở đây so với ý nghĩa tâm của Phật Giáo Nguyên thủy có phần thâm thuý hơn, hoặc nói là tâm kinh nghiệm cũng được mà nói là vật cũng được, tâm chỉ dương hết thảy. Căn cứ vào đó để, hoặc đứng về phương diện Bản luận, dần dần quy định trạng thái hoạt động của tâm một cách tinh tế, đó kà trung tâm của triết học Đại Thừa. Trong cái tâm của ta có đầy đủ đức tính của Như Lai (Như-lai-tạng hay Phật-tính) cũng như có cả vô minh phiền não, tùy theo cách nó biểu hiện như thế nào mới có mê, ngộ, địa ngục, tịnh độ khác nhau. Như vậy hết thảy hiện tượng chẳng qua chỉ là biểu tượng của cái vọng tâm của ta, và cứ theo lập luậnđó thì hết thảy đều là không; diệt trừ được vọng tâm làm cho chân tâm biểu hiện thì lúc đó mới thấy chân tướng của vũ trụ. Căn cứ vào lập luận này mới thành lập thế giới quan "Chân-không Diệu-hữu". Xét ra tất cả tư tưởng của Đại Thừa đều xuất phát từ điểm đó và rồi cũng quy kết về điểm đó cả. Sau hết nên tìm hiểu đặc chất của Đại Thừa. Đại Thừa căn bản muốn thích ứng với tinh thần thời đạimà có, đồng thời Đại Thừa cũng lại có đặc tính thích ứng với tinh thần thời đại. Phật Giáo Nguyên thủycủa đức Thế Tôn đối với thời đại bấy giờ tỏ ra rất quan tâm một cách sâu sắc, đều đó là một sự thậtkhông thể chối cãi. Đến Tiểu Thừa Phật Giáo vì chỉ chuyên tâm vào việc tìm tòi tài liệu của Phật Giáo Nguyên thủy mà không hề để ý đến tinh thần thời đại, cho nên dần dần Tiểu Thừa trở thành khô khan. Theo một ý nghĩa đó thì Đại Thừa chống đối điều này, và vận động xướng lên phong trào Đại Thừa mục đích để tiếp xúc rộng rãi với tinh thần thời đại. Do đó, trong tư tưởng Đại Thừa ta thấy phản ánh rất nhiều vấn đề thuộc tinh thần giới đương thời. Cho nên ta có thể nói nếu không hiểu được tinh thần văn hóa của thời bấy giờ thì không hiểu được phong trào Đại Thừa một cách chính đáng, bởi vì giữa tinh đương thời và Đại Thừa Phật Giáo có những quan hệ rất mật thiết. Về điềm này ta cũng nên chú ý rằng, khi Đại Thừa được truyền bá ra các nước ngoài, trải qua nhiều thời đại đã phải dùng nhiều phương tiệnvà tùy cơ ứng biến để phát triển. Tóm lại, Tiểu Thừa có tính chất tiêu cực, Đại Thừa có thì tích cực, giáo hội truyền thống Tiểu Thừakhông nhiều thì ít do khuynh hướng tự do cá nhân mà vận động, Đại Thừa do phong trào quần chúng, Tiểu Thừa lấy việc giải thoát cá nhân làm mục tiêu, Đại Thừa lấy việc cứu tế xã hội làm chuẩn đích. Tiểu Thừa chủ trương ẩn dật, Đại Thừa chủ trương thông tục; Đại Thừa nêu khẩu hiệu trở về với tinh thầncủa đức Phật, và trên thực tế kế thừa tinh thần Nguyên thủy Phật Giáo, cho nên ta có thể nói Đại Thừagần với chân lý của đức Phật hơn.
TIẾT THỨ BA: Trở lên tuy mới đề cập một cách sơ lược đến đặc chất của Phật Giáo, song lấy đó làm bối cảnh thì đặc chất của Phật Giáo Nhật Bản như thế nào? Nếu muốn hiểu rõ điểm này, trước hết ta phải tìm hiểu qua về đặc chất của Phật Giáo Trung Quốc. Vì Phật Giáo Nhật Bản không phải du nhập trực tiếp từ Ấn Độ, mà hoàn toàn từ Trung Quốc thì không thể lý giải được đặc chất của Phật Giáo Nhật Bản . Phật Giáo Trung Quốc tuy có nhiều đặc chất, nhưng ba đặc chất sau đây được coi là chủ yếu nhất: a) Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc hiển nhiên là Phật Giáo Đại Thừa, tiêu biểu cho chân lý của đức Phật, còn Tiểu Thừa chỉ được coi là phương tiện quyền xảo mà thôi. Ở Ấn Độ, như đã nói trên, về hình thức Tiểu Thừa do giáo hội truyền thống mà truyền bá, còn Đại Thừa phong trào vận động phục cổ mà khởi xướng. Đứng về địa vị giáo hội mà nói, mãi về sau này cũng thế, giáo hội Tiểu Thừa vẫn chiếm ưu thế, trái lại Đại Thừa không có ưu thế. Tiểu Thừa có tất cả mười tám phái hai mươi phái, mà Đại Thừa mãi về sau này cũng vậy, chỉ có hai phái đối lập nhau, đó là phái Trung Quán (Tam Luận Tôn) và phái Du Dà, đây là một sự thật rất hiển nhiên. Nhưng khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc thì cái khẩu hiệu: "Đại Thừa phi Phật thuyết" đã tiêu tan mà bắt đầu quy định bản vị của Đại Thừa. Đứng trên lập trường ưu thế của giáo hội mà so sánh thì địa vị của Đại Thừa ở Trung Quốc rõ ràng khác hẳn với địa vị ở Ấn Độ. Trong mười ba phái dưới thời Tuỳ, Đường chỉ có Tỳ Đàm Tôn( sau là Câu Xá Tôn) có thể nói là chân chính Tiểu Thừa, còn tất cả các phái khác, trên bản chất thì thuộc Tiểu Thừa, nhưng đều coi mình là Đại Thừa, bởi thế mà địa vị Đại Thừa được thành lập. b) Điểm thứ hai cần nêu ra là vì có những đặc chất như đã kể trên nên đã thịnh hành cái gọi là " giáo tướng phán tích". Nghĩa là bất luận Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà dù ngay trong Đại Thừa, cũng có những chủng loại khác nhau, trong đó vô luận là chủng loại nào đều tự coi như từ đức Phật mà ra cả, và đều có thể đại biểu cho chân lý của Phật. Cũng vì thế nên mỗi phái đều đưa ra những quy định riêng đểthuyết minh tín ngưỡng của mình và trạo việt. Chẳng hạn như Thiên Thai Tôn chủ trương thuyết "Ngũ Thời Bát giáo" và Hoa Nghiêm Tôn thì chủ trương thuyết "Ngũ Giáo Thập Tôn" v.v… làm đại biểu của mình. Đến đấy thì hoặc đã có nhiều sự chống đối mà phát sinh nhiều cách phán thích khác nhau, và kết quả đã đưa đến sự thành lập nhiều tôn phái Đại Thừa. Nhất là trong các kinh điển Đại Thừa , mỗi phái tùy ý lựa chọn một bộ để làm tôn chỉ của mình, đó là đặc sắc của Phật Giáo Trung Quốc, mà tại Ấn Độchưa từng có hiện tượng ấy. Lại nữa về việc chú thích kinh luận một cách hoàn bị, làm nổi bật nhiều đạo lý thâm sâu, đó cũng là một đặc sắc của Phật Giáo Trung Quốc. Tại Ấn Độ, tưởng không cần nói cũng có chú thích kinh điển tuy không nhiều thì ít, cũng khơi thêm được ý nghĩa thâm sâu của nguyên văn, nhưng không thể vượt quagiới hạn của nguyên văn, cho nên thiếu hẳn tính chất tự do. Ở Trung Quốc, trái lại lấy việc phiên dịchnhững nguyên điển làm chủ, cho nên đối với vấn đề giải thích, phương pháp "Ý nghĩa giải văn" đã được áp dụng, kết quả là ngoài ý nghĩa của nguyên văn ra, trong các bản chú thích cũng có rất nhiều ý nghĩađặc biệt nữa. Chẳng hạn như Thiên Thai chú thích kinh Pháp Hoa, và Hiền Thủ chú giải kinh văn khác, những học giả của các tôn phái, theo chiều lập trường, đặc biệt giải thích cũng có rất nhiều. Tại Ấn Độvà Nhật Bản, chúng ta không thấy hiện tượng đó, bởi vậy mà việc ấy đã thành đặc sắc của Phật Giáo Trung Quốc và cơ sở của sự phán thích nói trên cũng do đó mà được thành lập. c) Trên thực tế, tưởng không cần nói, Phật Giáo Trung Quốc qua dòng thời gian đài đặc của lịch sử, tuy đã phát huy nhiều ý nghĩa về văn hoá sử, nhưng rõ ràng nhất ở hai điểm: - Như đã nói ở trên, đem Phật Giáo cấu thành nền học vấn, do đó, ta có thể nói Phật Giáo Trung Quốclà nền Phật Giáo học vấn, đây là điểm rất cụ thể. - Sự hưng thịnh của Thiền quán và giới luật. Về phương diện này, giáo lý Phật Giáo đã lan tràn khắp nơi, đâu cũng nghiêm trì giới luật, ham mê Thiền quán, bởi thế Phật Giáo đã trở thành vật sở hữu riêng của tăng lữ, đó cũng là lẽ tự nhiên. Theo một ý nghĩa nào đó thì sự hưng thịnh của Phật Giáo được căn cứ vào số lượng của tăng lữ nhiều hay ít mà có. Nhận xét theo điểm này thì Phật Giáo Trung Quốc tuy lấy Đại Thừa làm đặc sắc, nhưng phần nhiều vẫn còn mang sắc thái Tiểu Thừa, đó cũng lại là một lẽ hiển nhiên. Ba điểm trên đây là những đặc sắc chủ yếu Phật Giáo Trung Quốc, vậy đối với Phật Giáo Nhật Bản có những đặc sắc gì?. Nói một cách đại thể thì Phật Giáo Nhật Bản cũng lấy Trung Quốc làm mô phạm và thâu nhập những phong thái của Trung Quốc, điều đó tưởng không cần nói cũng rõ. Duy có hai điểm dần dần đã trở thành bất đồng với Phật Giáo Trung Quốc, mà đứng về phương diện cơ năng quyền xảo của Đại Thừa mà nói thì đây là điểm hết sức trọng đại. Điểm thứ nhất, Phật Giáo Nhật Bản phát huy đặc chất của Đại Thừa, coi nhẹ phần ẩn dật mà thiên trọng phần hoạt động, coi nhẹ phần học vấn mà coi trọng phần thực hành. Điểm này ta hãy lấy ngay trường hợp của Thái Tử Thánh-Đức sẽ rõ: Thái-tử Thánh Đức chú thích kinh Pháp Hoa đến đoạn nói" nên ở những nơi núi rừng u tịch mà tu luyện" thì ông chua thêm là:" không nên vì mục đích của đạo Phật mà lấy sự hoạt động ngay giữa xã hội thực tiễn để phát huy cơ năng của mình". Và mãi mãi về sau tinh thần Thánh Đức đã trở thành tinh thần chỉ đạo của Phật Giáo giới Nhật Bản. Tựu trung, Phật Giáo Nhật Bản từ triều đại Nại-Lương đến triều đại Bình An, do kết hợp với sự tinh hoạt quốc gia mà phát huy những hoạt động cơ năng của mình, cho nên đã dễ đi sâu vào mọi tầng lớp dân chúng: đó là sâu sắc. Rồi đến triều đại Liêm-Phương thì Phật Giáo lại từ chỗ sinh hoạt quốc gia tiến đến chỗ lấy sinh hoạt cá nhân làm trung tâm, lấy sự an tâm lập mệnh cá nhân làm cơ năng cao nhất, đến đây thì tinh thần Phật Giáo đã thật sự thu hút toàn bộ sinh hoạt quốc gia, và trên thực tế, điểm này có thể nói đã trở nên thiết yếu nhất của Phật Giáo Nhật Bản. Tại Trung Quốc, ngoài triều đình và các vị tăng già ẩn tuẫn trong các nơi thâm sơn u tịch ra, đối với dân gian. Phật Giáo chỉ phụ thuộc cho nên tinh thần Phật Giáo có vẻ bạc nhược. Ở thời đại Liêm-Thương của Nhật Bản, giáo nghĩa của Thiền-Tông, Nhật-Liên-Tông và Tịnh-Độ-Tông đã trực tiếp chi phối tín ngưỡng của quốc dân. Do đó, điểm thứ hai ta thấy đặc sắc của Phật Giáo Nhật Bản dưới thời Liêm-Thương. Về bối cảnh tuy có những triết lý cao thâm, nhưng về mặt biểu tượnggiáo lý lại cực kỳ đơn giản, cho đến nỗi Phật Giáo đã thành một tôn giáo dễ thực hành của mọi tầng lớp. Nhận xét theo điểm, nếu so sánh với Phật Giáo có tính cách học vấn và ẩn tuẫn của Trung Quốc, ta có thể nói Phật Giáo Nhật Bản phù hợp với chân tinh thần của cuộc vận động Đại Thừa tại Ấn Độ hơn. Ngày nay, trên lục địa Ấn Độ, nơi sản sinh ra Phật Giáo, mà Phật Giáo chỉ còn là một sự kiện" vang bóng một thời”, tại Trung Quốc tuy còn một chút hình thức, nhưng Phật Giáo đối với sự sống còn của quốc dân hầu như không còn một chút ảnh hưởng trực tiếp nào nữa: duy tại Nhật Bản mặc dầu bị coi là suy đồi, nhưng theo một ý nghĩa nào đó, tinh thần Phật Giáo vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong sinh hoạt quốc dân đó cũng là một đặc điểm vậy.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC