Nhân vật thứ hai trực tiếp khai đường mở lối cho triết lý hiện sinh là Friedrich Nietzsche. Ông là một nhà văn có ngòi bút sắc bén, linh hoạt, một nhà tâm lý nhìn tận vào gian manh vô ý thức của tình người, một nhà triết lý tha thiết với hạnh phúc nhân loại, và sau hết là một người tiên tri cô độc và nhẫn nhục.
Tự căn bản, người là một nghịch lý do định mệnh của ngẫu nhiên và tự do của ý thức. Nhờ có tự do, người không phải là một tĩnh vật. Người bản chất là biến động. Nhưng người có quyền tự do đồng nhất với thực trạng ban đầu ...
Con người Kierkegaard là sản phẩm bất đắc dĩ của một sự phối hợp bất đắc dĩ giữa cha ông và mẹ ông. Sau khi đã chỉ tay chửi thề Thượng Đế, và để mua chuộc trọng tội ấy, cha ông cố gắng sống một cuộc sống nghiêm khắc, hiếu thắng nhất là đối với đàn con của ông.
Không thời nào bất lợi cho triết học hơn cái thời mà triết học bị lạm dụng một cách đáng hổ thẹn, một mặt để đưa ra những mục tiêu chính trị, mặt khác để làm phương tiện sinh nhai... Thế không có gì để chống lại châm ngôn: “Primum vivere, deinde philosophari” (sống trước đã, rồi triết lý sau) hay sao ? Những ông lớn này muốn sống, và quả vậy, sống nhờ triết học. Họ được bao thầu triết học để nuôi vợ con...
Hiện sinh không thể là hiện hữu được quan niệm hóa, không thể là một ý niệm trừu tượng. Hiện sinh là một kinh nghiệm sống, một ý thức sống. Từ đó, triết gia hiện sinh lần tới quan điểm hiện sinh có trước bản thể và bản thể học nếu đó chính là khoa học về hiện sinh
Tính phổ biến của ý chí tự do tồn tại cho-mình này là tính phổ biến hình thức, tức là, quan hệ với chính mình một cách tự-giác (nhưng vô-nội dung) và đơn giản trong tính cá biệt [tính cá nhân] của mình; và trong chừng mực ấy, chủ thể là Nhân thân
Triết lý không phải là tìm ra những nguyên nhân hoặc tìm ra những giả thuyết. Không thể nói nguyên nhân ở đây, vì chưa có gì trước khi thế giới hình thành thế giới, và như ta biết thì thế giới “xuất hiện không lý do” nghĩa là không do một dự tính trù liệu nào hết
Phía sau chúng ta cũng như phía trước chúng ta, trong miền ánh sáng của các giá trị, chúng ta không có những biện minh hay những bào chữa. Chúng ta chỉ một mình, không có sự bào chữa. Đó là những gì tôi thể hiện bằng cách nói rằng con người bị kết án phải tự do.
Nguyên lý của triết học Epicurus là ở chỗ chứng minh rằng thế giới và tư duy là một cái gì đó có thể hình dung được, có thể có; mà luận cứ và nguyên tắc dùng làm cơ sở chứng minh cho điều đó và quy tụ mọi cái vào đó vẫn lại là bản thân [khả năng tồn tại cho bản thân mình] được biểu thị trong tự nhiên bởi nguyên tử, còn sự biểu hiện tinh thần của nó là sự ngẫu nhiên và sự tuỳ tiện.
Con người không phải là một tinh thần thuần túy như thần linh và cũng không phải là một linh hồn « ở trong » thân xác, nhưng con người là một sinh hoạt tại thế, cho nên thân xác không còn là một sự vật nhưng đó là chính bản thân tôi. Sinh hoạt chưa phản tỉnh đi trước sinh hoạt phản tỉnh, và sinh hoạt tại thế có trước suy tư.
Không có tiếng trả lời, vài phút sau Socrate cử động, người giữ ngục bỏ miếng vải che mặt ra, Criton vuốt mắt và miệng cho người chết. Đó là giây phút cuối cùng của tôn sư chúng tôi, ông là người minh triết nhất, công bằng nhất và tốt nhất.
Theo Husserl, tất cả các giảm trừ siêu nghiệm đều đồng thời là giảm trừ bản chất. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể lấy con mắt triết gia để nhận định tri giác của ta về thế giới, nếu chúng ta không thôi đồng lõa với thế giới, thôi không tha thiết với thế giới nữa
TÓM LƯỢC ĐẠI Ý. – Trước khi đem ứng dụng cái phương pháp của ông, ông muốn định cách cư xử ở đời thế nào. – Ông bèn đặt ra một cái luân lý riêng có ba điều sau này: - Đối với xã hội thì phần nhiều người ăn ở thế nào thì mình nên theo mà ăn ở như thế: đừng trái luật lệ nước nhà, vâng theo tôn giáo tổ tiên.
Điều thứ nhất là phàm sự gì tôi chưa biết đích sác là thực thì không được bao giờ nhận cho là thực vội, nghĩa là phải giữ gìn cẩn thận đừng hấp tấp vội vàng, sự gì có trình bầy ra phân minh rõ ràng trong trí tôi mà tôi không còn nghi ngờ một chút nào nữa thì mới chịu phán đoán cho là phả
Khi nói đến Paul Ricoeur, một số những câu hỏi đặt ra trong đầu là: tại sao người ta chú ý đến Ricoeur một cách muộn màng như vậy, trong khi những tác phẩm và tư duy của ông mở ra nhiều triển vọng?
TÓM LƯỢC ĐẠI Ý – Người ta ai cũng có nhẽ phải, cốt là dùng cho phải đường. – Bởi vậy sự hơn kém nhau chỉ bởi cách dùng nhẽ phải, không ở ở nhẽ phải. – Mỗi người nên đặt lấy một cái phương pháp để khiến nhẽ phải mình cho phải đường.