KỶ NIỆM 120 NĂM JEAN-PAUL SARTRE ------ o0o ------ TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
JEAN-PAUL SARTRE (1905-1980) Đinh Hồng Phúc dịch
Mặc dù những suy xét sau đây phần nhiều thuộc phạm vi quan tâm của nhà đạo đức học, người ta cho rằng sau những mô tả và lập luận này, việc quay trở lại vấn đề tự do của cái cho-mình và cố gắng hiểu cố gắng hiểu xem sự kiện về tự do này mang ý nghĩa gì đối với số phận con người sẽ không phải là điều vô ích. Hệ quả cốt yếu của những nhận định trước đó của chúng tôi là: con người, do bị kết án phải tự do, mang gánh nặng của toàn bộ thế giới trên vai mình; con người chịu trách nhiệm về thế giới và về chính mình như là một phương cách tồn tại. Chúng tôi hiểu từ “trách nhiệm” theo nghĩa thông thường là “ý thức (rằng mình) là tác nhân không thể phủ nhận của một sự kiện hay một đối tượng”. Theo nghĩa này, trách nhiệm của cái cho-mình là nặng nề, bởi chính nó là kẻ qua đó mới có thế giới; và vì nó cũng là kẻ tự làm nên chính sự tồn tại của mình, nên dù rơi vào bất cứ tình cảnh nào, cái cho-mình phải hoàn toàn đảm đương lấy tình cảnh đó với hệ số nghịch cảnh riêng của nó, cho dù tình cảnh ấy là không thể chịu đựng nổi; nó phải đảm đương điều đó với ý thức kiêu hãnh rằng chính mình là tác nhân của tình cảnh ấy, bởi vì những bất lợi hay mối đe doạ tồi tệ nhất có thể giáng xuống tôi chỉ có ý nghĩa thông qua dự phóng của tôi; và chính trên cơ sở sự dấn thân mà tôi là, chúng mới hiện ra như thế. Vì vậy, thật vô lý khi nghĩ đến việc than phiền, vì không có gì xa lạ bên ngoài nào quyết định những gì chúng ta cảm nhận, những gì chúng ta sống hay những gì mà chúng ta là. Trách nhiệm tuyệt đối này không phải là một sự chấp nhận đến từ bên ngoài; nó chỉ đơn thuần là sự đòi hỏi hợp lý những hệ quả tất yếu của tự do chúng ta. Điều xảy đến với tôi là do tôi làm cho nó xảy ra, và tôi không thể nào bị xúc động vì nó, cũng không thể nổi loạn chống lại nó, cũng không thể cam chịu nó. Hơn nữa, mọi điều xảy đến với tôi đều là của tôi; điều đó trước hết có nghĩa là: tôi luôn xứng tầm với điều xảy đến với tôi, trong tư cách là một con người, bởi lẽ những gì xảy ra với một con người, thông qua người khác hay qua chính anh ta, thì chỉ có thể là những gì thuộc về con người. Những tình cảnh tàn khốc nhất của chiến tranh, những cực hình tồi tệ nhất cũng không tạo ra tình trạng phi nhân tính: không có tình cảnh phi nhân tính; chỉ bằng nỗi sợ, sự trốn chạy, và việc viện đến những lối hành xử mang tính ma thuật, tôi mới có thể quyết định rằng có cái phi nhân tính; nhưng quyết định ấy vẫn là một hành vi nhân tính, và tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về nó. Nhưng tình cảnh còn là của tôi, bởi vì nó là hình ảnh của sự lựa chọn tự do của tôi về chính tôi, và mọi điều nó bày ra cho tôi đều là của tôi, bởi vì nó đại diện cho tôi và tượng trưng cho tôi. Há chẳng phải chính tôi là kẻ quyết định hệ số nghịch cảnh của sự vật, và thậm chí cả tính bất khả dự đoán của chúng khi tôi quyết định về bản thân mình đó sao? Như vậy, không có điều gì gọi là tai nạn trong đời người; một biến cố xã hội đột ngột bùng phát và cuốn tôi đi không đến từ bên ngoài; nếu tôi bị huy động vào một cuộc chiến thì cuộc chiến ấy là cuộc chiến của tôi, nó mang hình ảnh của tôi và tôi xứng đáng với nó. Tôi xứng đáng với nó trước hết bởi tôi luôn có thể né tránh nó, bằng cách tự sát hoặc đào ngũ: những khả thể tận cùng này là những gì mà ta luôn phải ý thức đến khi cân nhắc một tình cảnh. Vì đã không né tránh nó, nên tôi đã lựa chọn nó; có thể là vì bạc nhược, vì hèn nhát trước công luận, hoặc vì tôi ưu tiên một số giá trị khác hơn là giá trị của việc từ chối tham chiến (sự quý trọng của người thân, danh dự gia đình, v.v.). Dù thế nào đi nữa, đó vẫn là một sự lựa chọn. Sự lựa chọn này sẽ tiếp tục được lặp lại một cách liên tục cho đến khi chiến tranh kết thúc; vì thế, ta phải đồng ý với câu nói của J. Romains[1]: "Trong chiến tranh, không có nạn nhân vô tội." Vậy nên, nếu tôi đã chọn chiến tranh thay vì cái chết hay sự ô nhục thì mọi sự diễn ra như thể tôi gánh lấy toàn bộ trách nhiệm về cuộc chiến này. Dĩ nhiên, những người khác đã tuyên bố chiến tranh, và có thể người ta sẽ muốn xem tôi như một kẻ đồng phạm đơn thuần. Nhưng khái niệm đồng phạm ấy chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý; ở đây, nó không đứng vững; bởi việc cuộc chiến này có tồn tại đối với tôi và qua tôi hay không hoàn toàn tùy thuộc vào tôi, và tôi đã quyết định rằng nó tồn tại. Không có bất cứ sự cưỡng ép nào cả, bởi lẽ sự cưỡng ép không thể có hiệu lực đối với bất kỳ một tự do nào; tôi không có bất cứ sự bào chữa nào, bởi như chúng tôi đã nói và nhắc lại trong cuốn sách này, đặc điểm vốn có của thực tại con người là nó không có bất kỳ lời bào chữa nào. Vậy thì tôi chỉ còn cách nhận lấy cuộc chiến này. Nhưng hơn thế nữa, cuộc chiến này là của tôi bởi vì chỉ riêng việc nó bộc lộ trong một tình cảnh mà chính tôi đã góp phần tạo nên, và bởi vì tôi chỉ có thể nhận ra nó trong tình cảnh ấy bằng cách dấn thân, hoặc ủng hộ hoặc phản đối nó, nên giờ đây tôi không còn có thể phân biệt được đâu là sự lựa chọn về bản thân tôi và đâu là sự lựa chọn về cuộc chiến ấy: sống trong cuộc chiến này, tức là tôi tự lựa chọn chính mình thông qua nó, và lựa chọn nó thông qua sự lựa chọn về bản thân mình. Không thể nào coi cuộc chiến ấy như là “bốn năm kỳ nghỉ” hay một hình thức trì hoãn giống như “tạm ngưng phiên họp”, bởi phần thiết yếu trong các trách nhiệm của tôi vốn nằm ở chỗ khác, trong đời sống hôn nhân, gia đình và nghề nghiệp. Nhưng trong cuộc chiến này mà tôi đã chọn, tôi chọn lấy chính mình từng ngày một, và tôi làm cho cuộc chiến ấy trở thành của tôi bằng chính quá trình tôi tạo nên chính mình. Giả như bốn năm đó chỉ là bốn năm trống rỗng, thì chính tôi phải chịu trách nhiệm về điều đó. Cuối cùng, như chúng tôi đã nêu ở đoạn trước, mỗi người là một sự lựa chọn tuyệt đối về chính mình, trên cơ sở một thế giới gồm tri thức và kỹ thuật mà sự lựa chọn này vừa tiếp nhận vừa soi sáng; mỗi cá nhân là một thực thể tuyệt đối, sống trọn tại một thời điểm tuyệt đối, và hoàn toàn không thể hình dung ra ở bất kỳ thời điểm nào khác. Vì vậy, thật vô ích khi tự hỏi tôi sẽ là ai nếu cuộc chiến này đã không nổ ra, vì tôi đã chọn mình như một trong những ý nghĩa khả hữu của thời đại đang âm thầm dẫn đến chiến tranh; tôi không thể tách mình ra khỏi chính thời đại ấy, và tôi không thể được chuyển sang một thời đại khác mà không rơi vào mâu thuẫn. Vì thế, tôi là chính cuộc chiến này, vốn là cuộc chiến đánh dấu, giới hạn, và làm cho người ta hiểu được thời kỳ đã diễn ra trước đó. Theo nghĩa này, bên cạnh mệnh đề mà chúng tôi vừa trích dẫn khi nãy: “không có nạn nhân vô tội”, cần phải thêm vào mệnh đề sau đây để xác định rõ hơn trách nhiệm của cái cho-mình: “Ai cũng có cuộc chiến mà mình xứng đáng”. Như vậy, hoàn toàn tự do, không thể tách khỏi thời đại mà tôi đã chọn để trở thành ý nghĩa của nó, chịu trách nhiệm sâu sắc về cuộc chiến như thể chính tôi là kẻ đã tuyên bố nó, không thể sống bất kỳ điều gì mà không tích hợp nó vào tình cảnh của tôi, dấn thân trọn vẹn vào đó và ghi dấu ấn của tôi lên nó, tôi phải không hối hận hay hối tiếc, cũng như vì sự tồn tại của tôi vốn không có lời bào chữa, bởi lẽ, từ khoảnh khắc tôi trỗi hiện trong tồn tại, tôi đã mang lấy toàn bộ gánh nặng của thế giới một mình, mà không điều gì hay ai có thể làm nhẹ đi được. Tuy nhiên, trách nhiệm này thuộc một kiểu loại rất đặc biệt. Sẽ có người phản bác rằng: “Tôi đâu có đòi được sinh ra”, và đó là một cách ngây thơ để nhấn mạnh kiện tính của chúng ta. Thật vậy, tôi chịu trách nhiệm về mọi thứ, ngoại trừ chính trách nhiệm ấy của mình, vì tôi không phải là nền tảng cho sự tồn tại của mình. Mọi sự diễn ra như thể tôi bị buộc phải chịu trách nhiệm. Tôi bị bỏ rơi trong thế giới, không theo nghĩa tôi bị bỏ mặc và thụ động trong một vũ trụ thù địch, như một tấm ván trôi nổi trên mặt nước, mà ngược lại, theo nghĩa tôi bỗng thấy mình đơn độc và không có chỗ dựa, bị ném vào một thế giới mà tôi chịu toàn bộ trách nhiệm, và dù có làm gì đi nữa, tôi cũng không thể thoát ra khỏi trách nhiệm này dù chỉ trong chốc lát, bởi ngay cả mong muốn trốn tránh trách nhiệm của tôi, tôi cũng chịu trách nhiệm về nó; làm cho mình trở nên thụ động trong thế giới, không chịu tác động đến các sự vật và người khác, vẫn là một cách tôi chọn lựa, và tự sát là một trong những phương cách tồn-tại-trong-thế-giới. Tuy vậy, tôi lại thấy mình mang một trách nhiệm tuyệt đối bởi vì kiện tính của tôi, tức là ở đây, là việc tôi được sinh ra, là điều không thể nắm bắt trực tiếp và thậm chí không thể hình dung được; bởi vì sự kiện tôi được sinh ra không bao giờ xuất hiện với tôi như một dữ kiện thô, mà luôn thông qua một sự tái kiến tạo mang tính dự phóng của cái cho-mình: tôi cảm thấy xấu hổ vì đã được sinh ra hoặc tôi ngạc nhiên về điều đó, hoặc tôi vui mừng vì điều đó, hoặc khi cố gắng tự kết liễu đời mình, tôi khẳng định rằng tôi đang sống và tiếp nhận đời sống ấy như một điều tồi tệ. Như vậy, theo một nghĩa nào đó, tôi lựa chọn việc mình được sinh ra. Chính sự lựa chọn này hoàn toàn bị chi phối bởi kiện tính, bởi lẽ tôi không thể không lựa chọn; nhưng kiện tính ấy, đến lượt nó, cũng chỉ xuất hiện trong chừng mực tôi vượt qua nó để hướng đến các mục đích của mình. Như vậy, kiện tính có mặt ở khắp nơi, nhưng không thể nắm bắt; tôi không bao giờ gặp điều gì khác ngoài trách nhiệm của mình, vì thế tôi không thể hỏi “Tại sao tôi được sinh ra?”, nguyền rủa ngày tôi được sinh ra, hay tuyên bố rằng tôi đâu có xin được sinh ra, bởi những thái độ khác nhau đó đối với việc tôi được sinh ra, tức đối với sự kiện tôi đang hiện thực hóa một sự hiện diện trong thế giới, thì thực chất cũng không là gì khác ngoài những cách thức đảm nhận toàn bộ trách nhiệm cho việc được sinh ra ấy và làm cho nó trở thành của chính tôi; ngay tại đây nữa, tôi cũng chỉ gặp lại chính mình và những dự phóng của mình, để rồi cuối cùng tình trạng bị bỏ rơi của tôi, tức kiện tính của tôi, chỉ đơn giản là việc tôi bị kết án phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về chính bản thân mình. Tôi là tồn tại đang tồn tại xét như là tồn tại mà sự tồn tại của nó đang bị đặt thành vấn đề trong chính tồn tại của nó. Và cái “tồn tại” ấy của sự tồn tại của tôi đang tồn tại như là cái đang hiện diện và không thể nắm bắt được. Trong những điều kiện đó, vì mọi biến cố trong thế giới chỉ có thể hiện ra với tôi như một cơ hội [occasion] (một cơ hội được tận dụng, bị bỏ lỡ, bị sao lãng, v.v.) hay, đúng hơn, vì mọi điều xảy đến với ta có thể được xem như một cơ may [change], nghĩa là chỉ có thể xuất hiện ra với chúng ta như một phương tiện để hiện thực hoá sự tồn tại đang bị đặt thành vấn đề trong chính sự tồn tại của chúng ta, và vì người khác, xét như là tính siêu việt được siêu việt, bản thân họ cũng chỉ là những cơ hội và những cơ may, nên trách nhiệm của cái cho-mình mở rộng mình ra toàn bộ thế giới như là thế giới cư trú của con người. Chính trong tình cảnh ấy, mà cái cái cho-mình nắm bắt chính nó trong lo âu, tức như là một tồn tại không phải là nền tảng cho chính tồn tại của nó, không phải là nền tảng cho tồn tại của người khác, cũng không là nền tảng cho những cái tự-mình cấu thành thế giới, mà là bị buộc phải quyết định ý nghĩa của tồn tại, trong chính nó và ở mọi nơi ngoài nó. Trong nỗi lo âu, những ai nhận thấy thân phận tồn tại bị quăng ném của mình vào một trách nhiệm, trách nhiệm còn quay ngược lại đối với cả tình trạng bị bỏ rơi của mình, thì sẽ không còn phải hối hận, tiếc nuối, hay bào chữa nữa; người ấy không còn là gì khác ngoài một tự do, đang khám phá ra chính mình một cách trọn vẹn, và tồn tại của anh ta nằm trong chính sự khám phá ấy. Nhưng như đã chỉ ra ở phần đầu tác phẩm này, phần lớn thời gian, chúng ta đều lẩn tránh lo âu trong nguỵ tín.
Nguồn: trích dịch từ Jean-Paul Sartre (1943) L'être et le néant. Paris: Gallimard, pp. 598-601. [1] J. Romains. Les hommes de bonne volonté, “Prélude à Verdun”. |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC