Logic học | Tư duy phản biện

Tư duy biện luận là gì?

 

TƯ DUY BIỆN LUẬN LÀ GÌ?

ĐINH HỒNG PHÚC

 


Trích từ Đinh Hồng Phúc. Tư duy biện luận - cẩm nang thực hành. Nxb. Tài chính & Trường Đại học Thủ Dầu Một. 2021, tr. 7-10.


 

Khái niệm tư duy biện luận[1] phản ánh một ý niệm có gốc rễ trong ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại. Chữ "critical" ("biện luận", "phê phán" hay "phản biện") trong tiếng Anh, xét về mặt từ nguyên, có gốc từ hai chữ Hy Lạp cổ: kriticos (nghĩa là "phán xét sáng suốt") và kriterion (nghĩa là "các tiêu chuẩn"). Căn cứ theo nghĩa từ nguyên này, chữ biện luận hàm ý một sự phán xét sáng suốt dựa trên những tiêu chuẩn nào đó. Trong thế giới Hy Lạp cổ đại, có thể nói triết gia Socrates (k.470-399 TCN) là hiện thân cho tinh thần nguyên thủy của khái niệm này. Quả thực, cả cuộc đời thực hành triết học của mình, Socrates luôn sử dụng cách tiếp cận mang tính phê phán để tra xét mọi vấn đề trong cuộc sống.

Tuy nhiên, với tư cách là một khái niệm dùng để chỉ một lĩnh vực trong hoạt động giáo dục và nghiên cứu, tư duy biện luận chỉ mới xuất hiện trong thời hiện đại, khoảng một trăm năm nay, gắn liền với người khai sinh ra nó là John Dewey (1859-1952), một triết gia, nhà tâm lý học và giáo dục học người Mỹ, rồi được kế tục và phát triển bởi các học giả thuộc thế hệ sau ông và tạo thành một truyền thống. Trong quyển sách nhập môn tư duy biện luận của mình, Alec Fisher (2001) đã lược khảo một số định nghĩa cổ điển về khái niệm tư duy biện luận từ truyền thống này. Chúng tôi xin căn cứ theo phần lược khảo của Fisher để trình bày vấn đề này và trên cơ sở đó rút ra những đặc điểm cơ bản của tư duy biện luận.

Trong tác phẩm Cách ta nghĩ (1909)[2] John Dewey đã nêu ra định nghĩa của ông về tư duy biện luận, cho dù lúc này ông gọi nó là "tư duy phản tư" ("reflective thinking"), qua việc ông xác định các yếu tố cấu thành nên tư duy phản tư:

Sự suy xét chủ động, kiên trì và cẩn trọng một niềm tin hay cái gọi là một dạng tri thức nào đó bằng cách xem xét những cơ sở nâng đỡ cho niềm tin ấy và những kết luận nào đó nữa mà nó nhắm đến. (Dewey, 1909, tr. 9).

Qua định nghĩa này, Dewey coi tư duy biện luận về cơ bản là một quá trình "chủ động", đó là quá trình ta phải tự mình suy nghĩ về vấn đề của mình, tự mình nêu câu hỏi, tự mình tìm kiếm các thông tin xác đáng, chứ không phải là tiếp thu thông tin một cách thụ động từ người khác. "Kiên trì" và "cẩn trọng" là những phẩm chất cần có của một người có óc biện luận, sở đắc được những phẩm chất ấy ta có thể tránh được việc hình thành thói quen tư duy bất cẩn, thiếu suy xét. Và điều quan trọng nhất mà Dewey nói tới trong định nghĩa này là "những cơ sở nâng đỡ" một niềm tin và "những kết luận nào đó nữa mà nó nhắm đến", nói cách khác, theo ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là, ông đề cập tớinhững lý do biện minh cho một niềm tin và những hàm ý của niềm tin của chúng ta.

Với định nghĩa ngày, về cơ bản John Dewey đã định hình nên những yếu tố then chốt nhất của tư duy biện luận. Trên cơ sở này, các học giả sau ông tiếp tục xây dựng những quan niệm của mình về bộ môn này. 

Tiếp sau John Dewey là Watson Glaser, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực này, đã định nghĩa tư duy biện luận là: 

(1) một thái độ sẵn sàng xem xét thấu đáo các vấn đề và chủ đề nảy sinh trong phạm vi kinh nghiệm của mình; (2) nắm vững các phương pháp tra vấn và lập luận logic; và (3) kĩ năng áp dụng các phương pháp này. Tư duy biện luận đòi hỏi phải cósự nỗ lực kiên trì để khảo sát bất cứ niềm tin hay cái gọi là một dạng tri thức bằng cách xét các chứng cứ nâng đỡ cho nó và những kết luận nào đó nữa mà nó nhắm đến. (Glaser,1941,tr. 5)

Định nghĩa này là sự tiếp nối và phát triển định nghĩa của Dewey. Bên cạnh việc bảo lưu toàn bộ định nghĩa của Dewey, Glaser dùng chữ "chứng cứ" thay cho chữ "các cơ sở" của Dewey và ông bổ sung thêm yếu tố "thái độ" hay tâm thế sẵn sàng xem xét thấu đáo các vấn đề và kĩ năng áp dụng "các phương pháp tra vấn và lập luận logic". Như vậy, đến Glaser, quan niệm về tư duy biện luận đã trở nên hoàn chỉnh hơn. Tư duy biện luận không những đòi hỏi ta phải có những kĩ năng tư duy nhất định mà còn phải có tâm thế sẳn sàng sử dụng các kĩ năng ấy.

Robert Ennis cũng là người có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của khái niệm tư duy biện luận. Ông định nghĩa tư duy biện luận như sau:

Tư duy biện luận là tư duy hợp lý và có tính chất phản tư, chú trọng đến việc quyết định tin điều gì hay làm điều gì. (Norris và Ennis, 1989).

Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng đã chứa đựng nhiều yếu tố quan trọng của tư duy biện luận. Ngoài việc tái xác định đặc trưng của loại tư duy này là "hợp lý" và "có tính chất phản tư" như những gì mà các định nghĩa trước đã đề cập, nó còn thêm yếu tố ra quyết định vốn chưa có trong các định nghĩa trước. "Quyết định tin điều gì" và "quyết định làm điều gì" đòi hỏi ta phải xem xét vấn đề một cách thận trọng để xác định xem điều ta tin hay việc ta phải làm có cơ sở hợp lý hay không, nghĩa là chúng có được thẩm tra theo những quy tắc, phương pháp và tiêu chí nhất định nào đó để ta có thể chấp nhận mình sẽ tin hay sẽ làm; đồng thời để việc ra quyết định của ta thật sáng suốt đòi hỏi ta phải luôn có tinh thần phản tư. Phản tư là soi xét lại chính mình trong việc mình tin hay mình làm với nhiều phương diện khác nhau để thấy được đâu là điều tốt hơn hay tốt nhất cho mình. Một trí óc phản tư là một trí óc cởi mở.

Gần đây hơn, một học giả có uy tín khác trong lĩnh vực tư duy biện luận là Richard Paul đã nêu ra một định nghĩa có phần khác với các định nghĩa trên. Theo ông,

tư duy biện luận là phương cách tư duy  về bất cứ chủ đề, nội dung hay vấn đề nào  trong đó người tư duy cải thiện chất lượng tư duy của mình bằng cách điều hành khéo léo các cấu trúc cố hữu trong tư duy và áp đặt cho chúng các tiêu chuẩn của trí tuệ. (Richard Paul và Linda Elder, 1993, tr. 4).

Định nghĩa này nhấn mạnh tới một đặc điểm của tư duy biện luận, mà hầu như những người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh vực này đều đồng tình, đó là tư duy biện luận là cách thức hữu hiệu để ta phát triển năng lực tư duy của mình, học cách cải thiện nó. 

Qua những cách định nghĩa có tính chất kinh điển trên đây về tư duy biện luận, ta có thể thấy tư duy biện luận là một dạng tư duy đặc biệt, nó không những là những kĩ năng sử dụng thuần thục các phương pháp và quy tắc logic để làm sáng tỏ vấn đề cần xem xét, mà nó còn là những thái độ, những phẩm chất cần có của người sử dụng những kĩ năng ấy như: chủ động, kiên trì, cẩn trọng, và có tinh thần cởi mở. Mục đích của tư duy biện luận là nó giúp ta đưa ra những quyết định sáng suốt khi quyết định phải tin điều gì hay làm một việc gì. Và điều cuối cùng nhưng cũng quan trọng không kém, nhất là đối với hoạt động giáo dục, là đây là một dạng tư duy ta có thể cải thiện được thông qua việc học hỏi và rèn luyện nó đúng cách.



[1]. Còn có tên gọi là tư duy phản biện hay tư duy phê phán, đây là các thuật ngữ tiếng Việt chúng ta thường dùng để dịch thuật ngữ critical thinking trong tiếng Anh.

[2]. Xin xem bản dịch tiếng Việt của Vũ Đức Anh (NXB Tri thức, 2018).

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt