TỰ DO HỌC THUẬT: SINH LỘ CỦA MỘT NỀN VĂN MINH
BÙI VĂN NAM SƠN
Bùi Văn Nam Sơn. “Tự do học thuật: sinh lộ của một nền văn minh”. Người Đô Thị, Bộ mới, số 23, 03.07.2014. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn do tác giả gửi.
Hình tượng "học giả", như ta đã biết, được Kant sử dụng nhiều lần trong luận văn nổi tiếng "Khai minh là gì?" để nói đến việc sử dụng lý trí một cách công khai trong đời sống xã hội. Viên chức phải tuân lệnh trong công việc, xét từ vai trò xã hội nhất định. Nhưng đồng thời, "với tư cách học giả", họ còn có quyền công khai sử dụng ngòi bút, xét từ quan điểm công dân thế giới. Đó là cách nói khác về "tư cách người trí thức" theo nghĩa rộng, chỉ những ai được thụ hưởng nền giáo dục đại học và "có năng lực diễn đạt ý kiến dưới hình thức văn bản". Vì thế, môi trường đại học là nơi thể hiện quyền tự do này một cách tập trung và đậm đặc nhất. Với quan niệm ấy, Kant mở một chương mới cho tinh thần đại học hiện đại, sẽ được định chế hóa chỉ hơn một thập kỷ sau đó: sự ra đời của mô hình đại học Humbold (1810). Tuy nhiên, "tự do học thuật" ở phương Tây không phải là chuyện tình cờ, trái lại, có lịch sử rất lâu dài. Tuy trải qua nhiều thăng trầm, nó là một dòng chảy bất tận và bất diệt, như một cuộc đua tiếp sức. Những cá nhân kiệt xuất tiếp nối nhau mang ngọn lửa thiêng, soi đường sinh lộ cho cả một nền văn minh. TỪ "TỰ DO TRƯỜNG PHÁI" ... Với sự du nhập Kitô giáo như là tôn giáo chính thống vào các thế kỷ đầu công nguyên, phương Tây đứng trước thử thách chưa từng có trước sự xung đột giữa hai truyền thống lớn: truyền thống nhân bản, thế tục của Hy-La cổ đại và truyền thống tín ngưỡng siêu nhiên Do thái-Kitô giáo. Nhiều tín điều cơ bản có vẻ đi ngược, nếu không muốn nói là vượt khỏi trực quan và lý trí thông thường (sáng thế từ hư vô, Đức Mẹ đồng trinh, tam vị nhất thể v.v…), đòi phải được lý giải hợp tình hợp lý, thỏa mãn trí óc và con tim. Sớm nhìn nhận nhu cầu điều hòa ấy, và hơn thế, chấp nhận giải quyết nó một cách sòng phẳng là dấu son đầu tiên. Thế là, bên cạnh các tu viện, nhiều định chế học thuật độc lập ra đời. Ta không khỏi kinh ngạc nếu theo dõi kỹ chất lượng và cung cách tranh luận của thời kỳ này. Nhưng, được như vậy là nhờ đặc điểm chủ yếu của "tự do trường phái" (libertas scholastica) suốt thời trung cổ từ thế kỷ 12-15: đó là đặc quyền tự quản mang tính hiệp hội nghề nghiệp, gồm quyền thành lập, kết nạp và khai trừ thành viên, cũng như tự do bầu chọn người đại diện. Những quyền tự do này được bảo trợ bởi Giáo hoàng, và sau đó là bởi các ông vua. Sự thống nhất giữa chính trị và tôn giáo tất nhiên chưa mang lại những quyền tự do học thuật theo nghĩa ngày nay. Nhưng, các đại học không cảm thấy mình mất tự do, bởi chính chúng góp phần định hình sự thống nhất ấy. ... ĐẾN "TỰ DO KHOA HỌC" Từ thế kỷ 17, bắt đầu cất lên nhiều tiếng nói đòi tự do tư tưởng, tiền thân của tự do khoa học ngày nay. Các tác giả như Spinoza, Putendorf, Collins hay Gundling đòi hỏi "tự do triết học" (libertas philosophandi), thoát khỏi sự khống chế của thần học, việc định chế hóa đầu tiên theo hướng này là đại học cải cách ở Halle (Đức) năm 1694. Tiếp theo, tự do nghiên cứu và giảng dạy trong tinh thần khai minh của thế kỷ Ánh sáng có cơ sở pháp lý vững chắc trong điều lệ của phân khoa triết, đại học Göttingen (Đức) năm 1737. Trong "văn hóa sinh viên", nền tự do học thuật dành nhiều đặc quyền hợp pháp cho đời sống của sinh viên chính thức: ăn mặc tùy thích, để râu đủ kiểu, kể cả ăn chơi, đập phá, vượt khỏi các quy tắc luân lý thông thường! "Ôi, thời vàng son của đời sinh viên: tự do, tự do, tất cả là tự do!", một từ điển ghi nhận với nhiều tiếc nuối vào năm 1749. Một cao điểm mới của khái niệm tự do trong sinh viên là thời kỳ Đại Cách mạng Pháp (1789). Lần đầu tiên có sự pha trộn, rồi hòa quyện giữa ý thức đặc quyền của tầng lớp ưu tú với ý thức tự do chính trị của quảng đại quần chúng cách mạng. Một ngọn lửa khai phóng bùng lên năm 1798 với tác phẩm cuối đời của Immanuel Kant: "Sự tranh chấp giữa các chuyên khoa". NHƯ CÁI THANG CẦN HAI THANH CHỐNG Vào thời Kant, đại học gồm ba chuyên khoa trụ cột: thần học, luật học và y học. Thần học lo chuyện "hạnh phúc vĩnh hằng" của kiếp người; luật học lo chuyện hạnh phúc dân sự của mọi thành viên xã hội; và y học lo hạnh phúc thể xác của mỗi người. Được gọi là ba chuyên khoa "cao cấp", vì được nhà nước bảo trợ và quản lý, dựa vào ba văn bản "thiên kinh địa nghĩa": Kinh thánh, Bộ luật quốc gia và Bộ Điều lệnh y học. Chính thống hóa ba bộ môn này, nhà nước thực thi quyền lực của mình. Ở phía ngược lại là các chuyên khoa "cấp thấp" (!), trong ngôn ngữ của Kant, là "chuyên khoa triết học". Chuyên khoa này không thu hẹp trong môn triết theo nghĩa đen, mà bao gồm cả văn chương, khoa học và kinh tế. Chúng độc lập với lợi ích của nhà nước, mà chỉ dựa vào lý tính của con người. Chúng không nhất thiết đối lập với quyền lực nhà nước, trái lại, là phi quyền lực, một tiền thân sáng giá của quan niệm về tổ chức xã hội dân sự ngày nay. Chúng có bản tính khác với quyền lực, vì luôn thách thức "những ranh giới của quyền lực từ bên trong" (Derrida). Là bộ phận của đại học, nhưng chuyên khoa này bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống hàn lâm nhờ vào quyền sử dụng lý tính phê phán một cách công khai và vô điều kiện. Giữ một chỗ, đồng thời không giữ chỗ nào trong hệ thống đại học là nghịch lý đầy sức sống cho bản thân đại học. Sự "tranh chấp giữa các chuyên khoa" không phải là xung đột kiểu chiến tranh mà là hợp pháp. Nếu các chuyên khoa "cao cấp" giữ cánh phải của chiếc thang tri thức để củng cố hệ thống, thì chuyên khoa "triết học" giữ cánh trái của chiếc thang như là trách vụ phản biện. Khi lý tính đưa ra phán đoán công khai, nó giữ cho chiếc thang vững chắc, an toàn. Có chiếc thang nào chỉ có đơn độc một thanh chắn? Chỗ độc đáo của Kant: chuyên khoa triết học không vỗ ngực sẽ mang lại chân lý. Nó chỉ yêu chân lý và, quan trọng hơn, tạo nên "điều kiện khả thể" cho việc đi tìm chân lý. Xin nghe Kant nói: "Trong đại học phải có một chuyên khoa giảng dạy độc lập với mệnh lệnh của nhà nước. Nó không ra lệnh, nhưng có quyền tự do phán đoán về tất cả những gì liên quan đến mối quan tâm khoa học là đi tìm chân lý". Quả là một con đường dài và gian khổ từ cái chết của Socrates, từ tự do trường phái thời trung cổ đến tự do học thuật ngày nay, để nó được trịnh trọng ghi vào hiến pháp của các nước văn minh (chẳng hạn, đó là điều 5 trong Luật cơ bản của CHLB Đức). Chiếc thang đã được bắt, và các thế hệ sau Kant sẽ tiếp tục leo lên từng nấc một. Không ít gian nan, nhưng dù sao đã có chỗ đặt chân. Đại học Humboldt - chỉ hơn một thập kỷ sau - như vừa nói, là thành tựu rực rỡ từ một lời di chúc. BVNS
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC