Triết học nhân học

Sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân Hy Lạp (phần 3)

 

S ra đi ca ch nghĩa cá nhân Hy Lp

Một bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng 

[tiếp theo phần 2]

ISAIAL BERLIN (1909-1997)

 

Tất nhiên những người theo chủ nghĩa khắc kỷ có nhiều ảnh hưởng hơn là những người theo Epicurus. Zeno, người đã tự khẳng định mình ở Athens vào cuối thế kỷ IV, vốn là người ngoại quốc, một người Phoenic đến từ Cyprus, giảng dạy sự minh triết bao gồm tự do nội tâm, chỉ có thể đạt được bằng cách diệt trừ xúc cảm sinh ra từ thể tạng của con người.

Ngọn đuốc tự do Hy Lạp

Thế giới là một khuôn mẫu và trật tự duy lý, và bởi vì con người về bản chất là một vật tạo duy lý nên việc thấu hiểu trật tự ấy tức là thừa nhận vẻ đẹp và tính tất yếu của nó – những định luật được khắc họa bằng những chữ viết bất tử vào lý trí bất tử của chúng ta.[1] Chỉ khi nào anh giải thoát bản thân mình khỏi những ảnh hưởng tàn phá anh – những lầm lạc về thế giới do ngu xuẩn và vô minh gây ra, hoặc do điều kiện xấu xa và đồi bại gây ra – khi đó anh mới trở thành người không thể bị tổn thương đối với những thứ xấu xa và bất hạnh do những người khác tạo ra.

Thấu hiểu thực sự thế giới là hiểu được rằng mọi thứ trong thế giới đều là tất yếu cả, và cái mà anh gọi là điều ác là một yếu tố không thể thiếu được trong một sự hài hòa rộng lớn hơn. Đạt được sự thấu hiểu ấy là thôi không còn cảm thấy những ham muốn thông thường, những nỗi sợ hãi, những hy vọng của loài người, và hiến dâng bản thân mình cho một cuộc sống hòa hợp với lý trí hay với tự nhiên – đối với Zeno đó là cùng một thứ, vì tự nhiên là hiện thân các định luật của lý trí (logos) hoàn vũ. Nhà thông thái khắc kỷ nhận xét rằng lý trí điều hành thế giới.

Nếu nỗi đau là bộ phận của bản thiết kế thì nó phải được đón nhận; ý chí của anh phải hiệu chỉnh theo nó. Khi Posidonius,[2] người theo chủ nghĩa khắc kỷ, bị trọng bệnh hành hạ, ông đã thốt lên:”Xin người cứ làm cho đau đớn tệ hại, dù người có làm gì đi nữa, người cũng không khiến tôi căm thù người đâu.”[3]

Bất cứ người nào cũng có thể thấu hiểu tính tất yếu duy lý của bất cứ điều gì xảy ra, nên không cần phải cố giành lấy sự hài hòa, ổn định, bình an của tâm hồn để nhằm có được một mức tối thiểu của sức khỏe và tiền bạc vật chất mà Aristotle thừa nhận là cần thiết cho hạnh phúc. Vua Priam, dù có can đảm và lương hảo tới đâu, cũng không thể đạt được hạnh phúc, theo như Aristotle nhận định, vì những bất hạnh của Priam là quá lớn; còn theo nhận định của những người khắc kỷ thì Priam có thể đạt được hạnh phúc.

Chỉ có một thứ là hiện thực, ấy là lý trí cơ bản thấu qua suốt bản chất con người. Tại sao phải thu thập chi tiết của 257 thể chế để tìm ra cái gì thì thích hợp với loại người nào, ở nơi nào, trong khí hậu nào, với những truyền thống gì – trong khi mọi con người về cơ bản đều như nhau cả, và chúng ta có thể khám phá một cách tiên nghiệm bằng việc rèn luyện lý trí bên trong chúng ta để thấu hiểu những định luật vĩnh cửu của thế giới, phải chăng điều chúng ta nên làm là hòa hợp chính mình cùng thế giới, hơn là biết được điều đó qua con đường quy nạp không chắc chắn như các Peripatetics[4] đã chọn? Làm sao chúng ta biết được cái gì là chắc chắn? Bởi vì đôi khi một cái gì đó “gần như nắm lấy tóc chúng ta…bắt chúng ta phải chấp thuận”.[5] Một số chân lý là không thể sửa được và không cưỡng lại được.

Dễ dàng thỏa thuận trong hòa bình ở một số tình huống này hơn là ở một số tình huống khác: nếu vàng không được đào lên hay các đồ xa hoa không được các con tàu chở đến từ nước ngoài, thì hẳn đã có nhiều sự giản dị và an bình hơn, thế nhưng ngay cả tại Athens đầy sành sỏi và đồi bại vào đầu thế kỷ thứ ba, sự rèn luyện cảm xúc vẫn có thể có được, và người ta có thể tự rèn luyện mình thành trơ lỳ trước ý chí độc ác của con người hay những đòn đánh của số phận. Con tàu phải được sơn bảo vệ chống rò rỉ - nếu để cho những cảm xúc yếu ớt có thể thấm qua thì anh sẽ bị chìm.

Lý tưởng là apathia – vô cảm xúc. Nhà thông thái khắc kỷ không cảm xúc, khô khan, không thiên kiến, không thể bị tổn thương; chỉ có ông ta là nhà vua, là giáo sĩ, là ông thầy, là thần linh. Giống như những giáo đồ Pharisees[6] mà Josephus[7] so sánh những người khắc kỷ với họ, các nhà thông thái khắc kỷ bị kết tội là lạnh lùng, đạo đức giả, kiêu căng, khinh người, kiêu kỳ. Phong trào đã có những người tuẫn đạo của mình: do đau khổ chỉ là kết quả của sự lệch ra khỏi lý trí, của sự quyến luyến quá đáng với con người hay đồ vật, nếu các tình huống trở nên quá xấu hay bạo chúa quá tàn nhẫn và luôn đe dọa, thì anh luôn có thể thoát khỏi các hậu quả bằng cách tự kết liễu đời mình.

Nữ thần mùa xuân (Bảo tàng Uffizi)

Những người khắc kỷ không biện hộ cho việc tự sát, nhưng họ cũng không thuyết giảng chống lại chuyện này. Một người duy lý lìa đời khi mà cuộc sống phù hợp với lý trí trở nên bất khả dĩ, bởi các chức năng của đời sống đã tiêu tan quá nhiều, hoặc là bởi cuộc sống có thể duy trì bằng một giá quá bất hợp lý. Con người như con chó bị buộc vào cỗ xe kéo; nếu anh ta khôn ngoan thì sẽ chạy theo cỗ xe. (Cái đó được gọi là tuân theo tự nhiên – chính là hợp lý và sáng suốt. Nếu anh ta không sáng suốt thì cỗ xe sẽ lôi anh ta và anh ta phải chạy theo xe dù muốn dù không.)

Các học thuyết chính trị của chủ nghĩa khắc kỷ thời sơ khởi là gì? Chỉ có người sáng suốt mới có thể sống trong an bình và hòa hợp. Họ có thể sống ở bất cứ thành bang nào; không quan trọng là ở đâu, vì họ vô cảm xúc nên họ không cảm thấy quyến luyến đặc biệt với đám người nào. Nơi cư trú lý tưởng là nơi không có thánh đường thờ thần linh, không có tượng thờ thần linh, không có nơi xử án, không có nơi luyện võ, không có quân đội hay tàu chiến hay tiền bạc, vì người sáng suốt không cần đến những thứ đó; nếu anh sống trong ánh sáng của lý trí thì những xung đột, những nỗi sợ hãi và niềm hy vọng dẫn đến việc dựng nên các định chế ấy sẽ tan biến mất.

Zeno biện minh cho tự do tình dục hoàn toàn: mọi con cái đều là con cái của tất cả các cư dân. Trong cuộc sống đúng đắn của con người, theo Zeno, “Chúng ta không nên sống theo các thành bang hay các khu vực hành chính ngăn cách nhau thật tách biệt tùy theo ý tưởng của riêng chúng ta về điều gì là đúng đắn, mà phải xem mọi người đều là thành viên của khu vực và là công dân [thành bang]; phải xem chỉ có một cuộc sống và một thế giới, đúng như một bầy đàn cùng ăn chung, được nuôi dưỡng cùng nhau bởi một đồng cỏ chung.”[8] Đó là thế giới của những người tốt; chỉ có họ mới có thể thụ hưởng tình yêu, tình bạn, sự hòa hợp nội tại và ngoại tại.

Đó là những gì Zeno thuyết giảng; và Plutarch thốt lên đầy hứng khởi, [hoàng đế] Alexander xứ Macedon tiếp thu nó. Tarn than phiền rằng, giống như Aristotle chia người ta ra thành những người tự do và những kẻ nô lệ theo bản chất, thì Zeno cũng chia họ ra thành những người tốt và những kẻ xấu xa, những người được cứu rỗi và những kẻ có tội. Thế nhưng điều này không đúng. Bất kỳ ai cũng có thể được cứu rỗi, nhưng không phải người nào cũng có thể chuyển đổi bản chất của mình xác định theo Aristotle, từ bản chất của kẻ nô lệ sang bản chất của người tự do được.

Điều rõ ràng là trong khi Plato và Aristotle khao khát tổ chức, tạo dựng nên và duy trì một trật tự, chủ nghĩa cộng sản của Plato về nguyên tắc là một phương tiện để nhân giống những công dân thích hợp. Zeno muốn bãi bỏ chuyện này; cả Zeno lẫn các môn đệ Cleanthes[9] và Chrysippus của ông đều biện minh cho tự do xã hội theo kiểu cực đoan nhất: tình dục lang chạ bừa bãi, tình dục đồng tính, loạn luân, buông thả nhục dục, cho phép làm mọi thứ không ngăn cấm bởi thể chất (physis) – tự nhiên – bất chấp việc đi ngược lại với các quy phạm, các truyền thống và các tập quán, những thứ mà khi nghiên cứu kỹ sẽ thấy đều là nhân tạo và phi lý tính.

Khi anh nhìn vào bên trong bản thân mình và chỉ vào bên trong mình mà thôi – vì cũng chẳng có chỗ nào khác nữa để nhìn vào (chắc là anh chẳng nên nhìn vào các định chế xã hội, những thứ đơn thuần chỉ là cái trợ giúp ngoại tại ngẫu nhiên để sống) – khi đó anh sẽ thấy được một số quy phạm khắc ghi nơi trái tim anh bởi chính tự nhiên, trong khi những thứ khác đơn thuần chỉ là những thứ nhân tạo, phù du và hướng tới những mục đích phi lý, chẳng có gì là dành cho con người sáng suốt cả.

Chủ nghĩa khắc kỷ hậu kỳ hấp thu vào nó nhiều học thuyết Aristotle hơn, tự làm cho mình thích nghi với sự sử dụng của đế chế La Mã, từ bỏ giọng điệu và nội dung sắc bén chống chính trị của mình – bởi lẽ về nguyên tắc chủ nghĩa khắc kỷ cũng chống chính trị như học thuyết Epicurus. Quả thực Zeno đã gây ấn tượng cho người cai trị Athens gốc Macedon là Antigonus Gonatas, như một vị thầy về đức hạnh công dân. Bản thân Zeno chắc không phục vụ ông ta, nhưng ông cung cấp các đệ tử của mình trở thành các cha tuyên úy cung đình và các cố vấn riêng cho các vị vua thời Hy Lạp cổ đại, đôi khi còn trở thành các vị tướng lĩnh và các nhà cải cách xã hội thực tiễn (như ở Sparta).

Mặc dù vậy, đối với những người khắc kỷ thì ông vua không phải là một nhân vật thần thánh như những người theo Pythagoras hay thậm chí cả Aristotle quan niệm như thế; ông vua là người bình thường, và vì rằng điều đáng mong muốn là khiến cho cuộc sống được hợp lý càng nhiều càng tốt, nhà thông thái khắc kỷ có thể tư vấn cho nhà vua và gây ảnh hưởng lên ông ta theo hướng đúng đắn, chuyện này tuy không phải là nghĩa vụ cốt yếu nhất – nghĩa vụ cốt yếu nhất là đặt mình trong khuôn khổ đúng đắn của tâm hồn và không có gì khác hơn – nhưng tạo điều kiện cho con người dễ dàng cứu rỗi bản thân bằng phép nội quan khắc kỷ, tự xem xét mình về các nhiệm vụ mà lý trí đặt ra.

Đôi khi người ta nói rằng Zeno tin vào một Nhà nước toàn cầu, nhưng đó là sự diễn giải sai văn bản nơi Plutarch[10]: Zeno chẳng có chút quan tâm nào đến Nhà nước cả. Trái ngược hẳn với Plato và Aristotle, ông ta tin rằng sự minh triết phải được học hỏi và thực hành không phải trong polis lý tưởng, mà trong thế giới đầy những con người sáng suốt. Xã hội về cơ bản là vật cản trở cho sự tự đầy đủ. Hiển nhiên là người ta không thể tránh khỏi xã hội hoàn toàn và cần phải tạo ra xã hội tốt nhất, nhưng ngược hẳn với đạo đức diễn dịch ra từ chính trị, riêng tư diễn dịch ra từ công cộng, con đường đúng đắn là con đường khác: điều chỉnh các sự vụ công cộng cho phù hợp với các quy phạm của đạo đức cá nhân.

Con người đức hạnh và sáng suốt phải học hỏi để không quan tâm đến những bão tố của cuộc sống công cộng, thoát đi vào bên trong bản thân mình, bỏ qua những thứ công cộng là thứ rốt cuộc chẳng mấy quan trọng. Khoảng cách giữa cái ataraxia của Epicurus – sự thản nhiên – và cái apathia khắc kỷ - vô cảm xúc – là không lớn. Niềm vui hay nghĩa vụ, hạnh phúc hay tự thể hiện mình hợp lý, ấy là những lý tưởng đối lập với các lý tưởng của thế giới Hy Lạp cổ đại. Dù chúng có khác biệt nhau đến đâu, chúng đều là thứ chống lại thế giới công cộng của Plato và Aristotle và những nhà ngụy biện chủ chốt. Sự gián đoạn là rất xa và các hệ lụy là rất lớn.

Lần đầu tiên ý tưởng đạt kết quả là ý tưởng cho rằng chính trị là công việc bẩn thỉu, không đáng xem là sáng suốt và thiện hảo. Sự phân cách giữa đạo đức và chính trị được tạo thành tuyệt đối; con người được xác định dưới dạng cá nhân, còn chính trị may lắm cũng chỉ trở thành sự ứng dụng của những nguyên lý đạo đức nhất định cho một nhóm người thay vì ngược lại. Không phải trật tự công cộng mà sự cứu rỗi cá nhân mới là quan trọng.

Hy sinh sự cứu rỗi vì những nhu cầu công cộng là sai lầm tai hại lớn nhất mà con người có thể phạm phải; là sự phản bội lại tất cả những gì làm cho anh ta thành con người, phản bội lại lý trí bên trong anh ta - thứ duy nhất mang đến cho con người phẩm cách và giá trị. Không cần phải nói tới ảnh hưởng của ý niệm này trong đạo Kitô, đặc biệt là trong các truyền thống Augustine và truyền thống tĩnh tịch (quietist) Kitô giáo.

Chuyện này thật kỳ lạ. Làm sao lại có một sự gián đoạn gay gắt đến thế trong vòng hai thập kỷ? Vào một thời điểm tất cả các nhà tư tưởng chủ chốt có vẻ như đều thảo luận các vấn đề xã hội và chính trị; không đầy hai chục năm sau chẳng có người nào còn làm thế nữa. Những người theo Aristotle bận sưu tập các cây cỏ thực vật, tích góp thông tin về các hành tinh, các động vật, các thông tin địa lý; những người theo Plato bận nghiên cứu toán học, không một ai nói về các chuyện xã hội và chính trị nữa – nó đột nhiên trở thành một chủ đề không đáng để những người đứng đắn có ý kiến.

Lời giải thích chính thức được hầu hết các nhà sử học chấp thuận, tất nhiên rồi, là sự phá hủy các thành bang bởi [các vua] Philip và Alexander xứ Macedon. Quan điểm theo thông lệ, được hầu hết các nhà sử học chấp thuận về chủ đề này (có vài ngoại lệ đáng tôn vinh), cho rằng các trước tác của những nhà tư tưởng chủ chốt phản ánh các điều kiện chính trị một cách trực tiếp và dứt khoát. Sophocles, Pericles của [sử gia] Thucydides, Aeschylus, Herodotus là những người phát ngôn cho Athens trong tuyệt đỉnh sức mạnh và thành tựu sáng tạo của nó. Plato, Isocrates, bản thân Thucydides phản ánh áp lực và sự căng thẳng thời kỳ sơ khởi của sự suy đồi.

Đền thờ Erechthein

Demosthenes là sự cầm cự tuyệt vọng cuối cùng của nền dân chủ độc lập. Sau đó là đến trận chiến ở Chaeronea năm 338 tr. CN.[11] Polis bị phá hủy bởi các đội hình chiến đấu của Macedon. Aristotle – giống như con cú của nữ thần Minerva[12]- nói về quá khứ chứ không phải về tương lai, và tự tụt hậu về thời gian mà ông trốn chạy khỏi Athens năm 323. Polis trở nên không quan trọng nữa. Một thế giới rộng lớn được mở ra bởi các đạo quân của Alexander, và người Hy Lạp hay người Athens trung bình (tùy theo tác giả chọn lựa) bị tước đoạt mất ý thức thân mật và an toàn vốn được đảm bảo bởi các tường thành của thành bang nhỏ bé tự cung tự cấp, cảm thấy mình nhỏ bé không đáng kể trong đế chế mới đầy rộng lớn trải dài đến tận phương Đông. Không có tổ chức tự nhiên để anh ta trung thành và tụm lại cho an toàn.

Bầu không khí mới hoang vắng đã không còn các cảnh trí quen thuộc nữa, khiến cho anh ta cảm thấy sợ hãi và đơn độc, nên chỉ quan tâm tới sự cứu rỗi bản thân cá nhân mình thôi. Cuộc sống công cộng tiêu tan. Các mối quan tâm công cộng trở nên có vẻ không thích hợp. Menander,[13] một công dân cùng thời với Epicurus, viết các vở hài kịch về những chuyện cá nhân trong nhà. Chủ nghĩa tự nhiên từng thành công với hội họa và điêu khắc lý tưởng hóa, thể hiện lý tưởng chung của toàn thể polis – các đối tượng cao quý cho sự sùng bái xã hội, cho sự ngưỡng mộ, cho sự tranh đua. Mê tín dị đoan từ nay lấp đầy khoảng trống do sự biến mất tôn giáo Nhà nước để lại.

Người ta rút lui vào bản thân mình. Cơ cấu xã hội tan vỡ. Tất cả mọi người đều bình đẳng trước kẻ chuyên chế xa xôi từ Pella, hay Alexandria, hay Antioch. Tính cộng đồng hữu cơ bị nghiền nát thành các nguyên tử tách rời nhau. Học thuyết khắc kỷ và học thuyết Epicurus là các hình thức tự nhiên của niềm tin cho con người ở trong điều kiện ấy.

Điều khó tin được của sự tường thuật này là sự thay đổi thảm hại – chẳng có gì quá lời – xảy ra quá nhanh. Athens vẫn nhỏ bé chẳng đáng kể trước trận chiến Chaeronea và cũng không ngừng tồn tại như một thành bang vào năm 337 tCN. Nó bị đánh bại, nhưng nó cũng đã từng bị Sparta đánh bại trước đó, và nó đã vẫn giữ cuộc sống đủ mãnh liệt như một thành bang vào thế kỷ thứ tư như những diễn từ của các nhà hùng biện truyền lại, nếu không có gì khác nữa. Đã có một đạo quân Macedon đồn trú ở Acropolis;[14] đạo quân ấy đã phải rời đi.

Thực ra nó có trở lại để khuất phục thành bang nổi loạn. Nhưng cảm xúc công dân vẫn còn tiếp tục; người ta tiếp tục đi bầu cử, bầu chọn cơ quan công cộng, giữ các nghi thức tế lễ. Các polis đã không bị Alexander hay các ông vua kế vị giải thể: ngược lại, các polis mới còn được tạo ra thêm. Các văn bia không cho thấy sự uể oải của tinh thần công cộng. Không có sự suy sụp thực sự nào cho đến khi những người La Mã xuất hiện trên vũ trường. Chắc chắn các thành bang quả có mất đi tính cách độc lập của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực chính sách đối ngoại.

Tất nhiên hẳn sẽ là ngớ ngẩn nếu phủ nhận việc Alexander đã biến cải thế giới Địa trung hải. Nhưng dù cho bạn có tin chắc đến đâu rằng cấu trúc thượng tầng ý thức hệ đi theo một cách trung thành với các biến đổi trong cấu trúc hạ tầng về xã hội và kinh tế - trong trường hợp này là tổ chức chính trị - thì chắc chắn cũng không có một sự gián đoạn gắt gao đến thế trong lịch sử của polis, phán đoán từ những trải nghiệm chủ quan của các công dân để giải thích một sự biến cải đột ngột, nhanh chóng và toàn diện đến thế trong quan điểm chính trị.

Những cuộc chinh phục của Alexander là một nhân tố thích đáng trong sự phát triển, tất nhiên [ý kiến này] là đúng; nhưng thật khó mà cho rằng đó là yếu tố duy nhất đủ để giải thích những gì xảy ra. Nó cũng giống như nói là cuộc chinh phục châu Âu của Napoléon đã hoàn toàn biến cải tư duy xã hội và chính trị; đâu phải vậy. 

Nó thay đổi châu Âu một cách sâu sắc, nhưng không có khoảng cách giữa các trước tác của Hume và James Mill[15] chẳng hạn, hay là của Kant và Hegel, như khoảng cách ghi nhận sự gián đoạn giữa Aristotle và Zeno. Người ta không tự nhủ: ”Thế giới cũ của tôi đang tan vỡ, tôi phải hướng sự chú ý của mình đến các phương diện khác của trải nghiệm. Cuộc sống ngoại tại đã trở nên ảm đạm, đáng sợ và tẻ nhạt – đã đến lúc tôi phải hướng về cuộc sống nội tâm.” (Và nếu như ta có viện đến tiềm thức về điểm này thì cũng chỉ là hợp lý để nói rằng nó không thể vận hành đầy bí mật nhanh chóng đến thế.)

Người ta đã không nói như thế, đặc biệt là trong thế giới cổ đại, khi mà xem ra các đổi thay diễn ra như các bước ngoặt ít đột ngột và thê thảm hơn so với thời đại chúng ta. Vì vậy chỉ là hợp lý khi cho rằng chủ nghĩa cá nhân khắc kỷ và [theo thuyết] Epicurus không phải đã sinh ra được vũ trang đầy đủ như thế ngay từ đầu ở cái thành Athens giờ đây bị đánh bại và bị làm nhục. 

Và quả thật những nhà tư tưởng mới đã có những vị tiền khu đôi khi được nhắc đến bởi các nhà lịch sử triết học cổ đại. Zeno là học trò của Crates[16], là người theo trường phái hoài nghi ích kỷ (Cynic), về phần mình ông này lại thuộc về trường phái Diogenes,[17] một người thành đạt vào giữa thế kỷ thứ tư trước công nguyên, nếu đó là từ ngữ thích đáng cho cuộc sống độc đáo của ông. 

Chúng ta biết rằng đằng sau ông ta là các nhân vật Antisthenes[18] và Aristippus. Antisthenes là học trò riêng của Socrates và được biết đến như một người không quan tâm đến cuộc sống công cộng hay Nhà nước, một người tin vào tính độc lập, xem Herakles[19] như vị anh hùng của mình, người đã bỏ nhiều công sức làm lợi cho những người đi theo con đường hẹp của nguyên tắc. Aristippus, người ở mọi nơi đều tự xưng mình là kẻ xa lạ, nói rằng ông chẳng muốn “cai trị người hay bị người cai trị”,[20] cho nên đối với Socrates ông đã đi quá xa.

Biểu tượng của ông là ekho all´ oukh ekhomai (“Tôi sở hữu, nhưng tôi không bị sở hữu”)[21]: Tôi thụ hưởng niềm vui và tìm kiếm chúng, nhưng chúng không khiến tôi trở thành kẻ nô lệ của chúng; Tôi có thể dửng dưng với chúng theo ý muốn của mình. Antisthenes đồng ý với Plato ở một điểm, dù sao đi nữa thì việc chiến thắng bản thân mình là chuyện khó khăn nhất và quan trọng nhất trong mọi chiến thắng.

Aristippus là người có chủ trương Cyrenaic,[22] ông đến với Athens từ một nơi có khí hậu rất khác; ông có thể đã tin rằng niềm vui là mục đích tự nhiên của con người với điều kiện nó không nô dịch con người, trong khi đó những người khắc kỷ tin rằng niềm vui là kẻ thù, nó làm vẩn đục các cảm xúc và che mờ chân lý, khiến cho con người bị vấp ngã và đi lạc đường, trở thành kẻ nô lệ của các thế lực mà con người không kiểm soát được; tuy nhiên lý tưởng của cả hai trường phái đều như nhau – tính độc lập, tự chủ, tự khẳng định cá nhân mình.

Chừng nào mà phần đông loài người còn mù lòa, bị làm nô lệ, là nạn nhân của các cảm xúc phi lý tính, thì nhà thông thái còn không được quần chúng ưa thích và ít nhiều bị nguy hiểm; vì vậy lợi ích của nhà thông thái là phải tác động khiến những người cai trị đi theo cách suy nghĩ của mình.

Đằng sau Antisthenes, thậm chí đằng sau cả Socrates nữa, là nhân vật đầy bí ẩn Antiphon, nhà ngụy biện cuối thế kỷ thứ năm mà ít nhất chúng ta cũng có bằng chứng độc lập [viết trên] giấy cói về ông ta. Ông ta tin rằng anh có thể lừa bịp con người chứ không lừa bịp được tự nhiên. Nếu anh ăn phải thức ăn có độc, anh sẽ chết; nhưng nếu anh phạm tội được gọi là bất công, nếu không có ai nhìn thấy, anh sẽ không bị tổn hại vì chuyện đó.

Từ đấy sinh ra việc anh chỉ thực hành công bằng nếu có nhân chứng cho hành vi của anh – là người mà anh có thể gây ấn tượng cho anh ta, nếu cần thì cả ấn tượng giả dối. Tình trạng hỗn loạn là một trạng thái tệ hại, cho nên có lý do để dạy trẻ con phải vâng lời, thế nhưng nếu anh có thể thoát khỏi mắc vào chuyện gì đó bị lên án bởi lề luật của con người do những con người đặc biệt lập nên, thì tại sao lại không làm thế? Ông ta chống lại chuyện kiện cáo bởi vì bằng việc tuyên cáo công lý anh gây thù oán với những kẻ mà anh làm chứng chống lại họ, dù anh có làm chứng chân thực đến đâu đi nữa, điều này vẫn tiềm ẩn một nguy cơ trầm trọng cho anh sau này.

Từ những gì chúng ta thu lượm được thì Antiphon là một người theo thuyết tĩnh tịch bi quan, thuyết giảng sự cần thiết tự đề phòng. Thế giới đầy bạo lực, những kẻ nguy hiểm sẵn sàng gây tổn hại cho người vô tội. Ông khuyên bảo các nạn nhân làm sao để tránh bị rắc rối. Đây là tiếng nói đầu tiên có thể nghe rõ thời cổ đại ở Hy Lạp – điều mà Epicurus và các đồ đệ lặp lại mấy trăm năm sau – nói rằng chỉ có được một cuộc sống thỏa đáng bằng cách tránh xa những kẻ có thể làm hại mình, bằng cách lẻn vào một xó mà anh lựa chọn và xây đắp một cuộc sống riêng tư, và chỉ có cuộc sống riêng tư mới thỏa mãn được các nhu cầu sâu sắc nhất của con người.

Đó là quan điểm mà Plato tự đặt cho mình nhiệm vụ phải bác bỏ - quan điểm cho rằng công lý, sự tham gia vào đời sống công cộng không có ích lợi gì mà dẫn đến các tổn hại và đau khổ, còn tham vọng thì chẳng thành. Plato hoàn thành nhiệm vụ của mình tốt đến đâu là chuyện vẫn còn tranh cãi cho đến bây giờ.

Diogenes còn đi xa hơn thế. Ông tuyên bố rằng ông phải thay cái đang thịnh hành – phá hủy những giá trị cũ và thay thế bằng những giá trị mới. Ông lấy làm hãnh diện là mình chẳng thuộc về một thành bang nào vì đó chính là hàm ý mà người theo chủ nghĩa thế giới đòi hỏi – theo ý nghĩa mà Bản tuyên ngôn Cộng sản năm 1847 tuyên cáo rằng “những người lao động không có tổ quốc” và “những người vô sản chẳng có gì để mất ngoài xiềng xích.”[23] Chỉ có con người độc lập là tự do, và chỉ có tự do mới tạo ra hạnh phúc bằng cách trở thành không thể bị tổn thương.

Ông đả kích chống lại nghệ thuật, khoa học và mọi thứ tài nghề bề ngoài với sự vô lễ có chủ tâm chĩa vào Alexander. Những câu bông đùa sống sượng được gán cho ông tạo ra hình ảnh một con người quyết tâm gây sốc cho công luận để hướng sự chú ý vào sự giả trá vô lý và những thói đạo đức giả theo lối cổ truyền của đời sống văn minh. Người ta bảo rằng ông biện hộ cho sự hoàn toàn coi thường những [lề thói] đúng mực: giao hoan tình dục và mọi sự kiện thân thiết riêng tư đều có thể thực hành phô bày nơi công cộng.

Từ chuyện đó thì có gì làm người ta phải sợ? Sự kiện là mọi người bị sốc ư? Thế thì sao nào? Tại sao người ta lại phải tôn trọng phản ứng của lũ ngu ngốc và bọn đạo đức giả, những kẻ làm nô lệ cho ước lệ, những kẻ không hiểu được rằng người ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc và phẩm giá bằng cách thuận theo tự nhiên, tức là gạt bỏ những sắp xếp nhân tạo một khi mọi bản năng của con người thúc giục người ta theo chiều ngược lại? Đó là chủ nghĩa cá nhân nở rộ, nhưng được giới quyền uy trình bày như là kỳ quặc và hơi loạn trí.

(Xem tiếp phần 4)

NGUYỄN VĂN TRỌNG dịch

Nguồn: phunutoday.vn



[1] Stoicorum veterum fragmenta (từ nay ký hiệu là SVF) iii 360. (TG)

[2] Posidonius (135-51 tCN) triết gia Hy Lạp được xem là uyên bác nhất trong thời đại của ông. (ND)

[3] Loc. Cit. (p. 31 dẫn ở trên, ghi chú 1) = Edelstein – Kiđ T38. (TG)

[4] Peripatetics: biêt hiệu đặt cho các học trò của Aristotle. Trường học của Aristotle đặt trong lùm cây. Ông có thói quen đi bộ vòng quanh lùm cây khi giảng bài. Tiếng Hy Lạp perivòng quanh, pateinđi bộ. Các tác phẩm của Aristotle phần nhiều do các học trò ghi lại. (ND)

[5] Sextus Empiricus, Adversus mathematicos 7 (Adversus logicos 1). 257. (TG)

[6] Thành viên một giáo phái Do thái thịnh hành ở Palestine trong khoảng từ 515 tCN đến 70. (ND)

[7] Flavius Josephus (sinh khoảng 37, 38 tCN, chết 100) giáo sĩ, học giả, và sử gia Do thái viết nhiều tác phẩm giá trị về cuộc nổi dậy của dân Do thái những năm 66-70. (ND)

[8] SVF I 262. Từ “đồng cỏ”(pasture) trong tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là “luật pháp”. (TG)

[9] Cleanthes (sinh 331/330 mất 232/231 tCN) triết gia đứng đầu trường phái khắc kỷ thời kỳ (263-232) sau khi Zeno chết. (ND)

[10] Plutarch (46-119) nhà viết tiểu sử Hy Lạp nổi tiếng. (ND)

[11] Trận chiến vua Philip II của Macedon đánh bại Thebes và Athens. (ND)

[12] Được nhắc đến trong đoạn cuối của Lời nói đầu mà Hegel viết cho Grundlinien der Philosophie des Rechts: xem Georg Wilhelm Friedric Hegel, Samtliche Werke, ed. Hermann Glockner (Stuttgart, 1927-51), vol. 7, p. 37. (TG)

[13] Menander (342-292 tCN) nhà viết kịch Athens được giới phê bình cổ đại tôn là nhà viết “hài kịch mới” lớn nhất của Hy Lạp. (ND)

[14] Bộ phận thành phố được xây ở trên cao cùng với các công trình phòng thủ. (ND)

[15] James Mill (1773-1836) nhà triết học, sử học, kinh tế học người Scottland. Ông là cha của John Stuart Mill, tác giả cuốn Về tự do. (ND)

[16] Crates (sinh 424 tCN) kịch tác gia kiêm diễn viên hài kịch. (ND)

[17] Diogenes (mất 320 tCN) được xem như nguyên mẫu của trường phái hoài nghi ích kỷ (cynic), còn được gọi là khuyển nho. Ông tự nhận mình chịu ảnh hưởng của Antisthenes. (ND)

[18] Antisthenes (445-365 tCN) triết gia Athens, học trò Socrates, được xem là người sáng lập ra trường phái hoài nghi ích kỷ (Cynic School of Philosophy). (ND)

[19] Herakles (hay Hercule) là nhân vật thần thoại Hy Lạp – La Mã, cũng là nhân vật trong các vở kịch của Euripides. (ND)

[20] Socrates “formulation of Aristippus” position. Xenophon, Memorabilia 2. 1. 12. (TG)

[21] Diogenes Laertius 2. 75. (TG)

[22] Aristippus (435-366 tCN) triết gia Athens, học trò Socrates, người sáng lập ra trường phái Cyrenaic, cho rằng niềm vui chốc lát là tiêu chí của điều thiện. (ND)

[23] Karl Marx, Friedric Engels, op. cit. (p. 85 above, note 1), vol. 4, pp. 479, 493; cf. eid., Collected Works (London, 1975- ), vol. 2, pp. 502, 519. (TG)

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt