SIÊU LÝ TÌNH YÊU Bài một (Mấy nhận xét sơ bộ)
VLADIMIR SOLOVIEV (1853-1900)
I
Thông thường, ý nghĩa của tình yêu hữu tính được nhìn thấy ở sự sinh sôi nảy nở của nòi giống, nó được xem như là phương tiện cho sự sinh sôi nảy nở ấy. Tôi cho quan niệm ấy là không đúng – không chỉ căn cứ vào những nguyên do lý tưởng nào đó, mà trước hết dựa vào những hiện thực tự nhiên - lịch sử. Sự sinh sôi nảy nở các vật sống có thể không cần đến tình yêu hữu tính, điều này là rõ ràng từ một thực tế là nó không cần đến ngay cả sự phân chia giới tính. Một bộ phận đáng kể của cả thế giới thực vật lẫn động vật sinh sôi nảy nở một cách vô tính: bằng sự phân hóa, đâm chồi, bào tử, ghép chiết. Tuy nhiên, các hình thái cấp cao của cả hai vương quốc hữu cơ đều sinh sản bằng đường tính giao. Nhưng, thứ nhất, những cơ thể sinh sản bằng đường ấy, cả thực vật lẫn một phần động vật, cũng có thể sản sinh một cách vô tính (chiết cây, trinh sinh ở các côn trùng cấp cao) và, thứ hai, nếu loại bỏ những hiện tượng ấy đi và xem như một quy tắc chung là những cơ thể cấp cao sinh đẻ thông qua phối hợp tính giao, thì ta vẫn cứ phải kết luận rằng nhân tố tính ấy gắn không phải với sự sinh sản nói chung (bởi nó có thể diễn ra cả một cách vô tính), mà chỉ với sự sinh sản các cơ thể cấp cao. Vì thế, ý nghĩa của sự phân chia tính (và của tình yêu hữu tính) cần tìm kiếm tuyệt đối không phải ở ý tưởng sự sống và sự sinh sôi nảy nở giống nòi, mà chỉ ở ý tưởng cơ thể cấp cao. Một minh chứng khá hùng hồn cho quan niệm này ta tìm thấy ở một thực tại vĩ đại sau đây. Trong lĩnh vực các động vật sinh đẻ chỉ bằng đường tính giao (ngành động vật có xương sống), càng lên cao theo thang cấu tạo cơ thể, thì sức sinh đẻ càng giảm thiểu, mà sức hấp dẫn hữu tính thì, ngựơc lại, càng mạnh lên. ở lớp thấp nhất của ngành này – lớp cá - sự sinh sản diễn ra với quy mô rất lớn: mỗi con cái hàng năm đẻ ra hàng triệu phôi; những phôi ấy được con đực làm cho thụ tinh ở bên ngoài thân thể con cái, mà phương thức thụ tinh như thế không cho phép giả định một sự đam mê hữu tính mãnh liệt. Trong tất cả các loài vật có xương sống, cái lớp máu lạnh này rõ ràng sinh sản nhiều nhất và ít bộc lộ đam mê tình ái nhất. Trên bậc tiếp theo – ở những động vật lưỡng cư và bò sát – sự sinh sôi nảy nở đã ít hơn rất nhiều so với loài cá, mặc dù, nếu chỉ căn cứ vào một số chủng loại nhất định, thì lớp động vật này không phải không có lý do được Kinh Thánh liệt vào hạng những sinh linh đông nhung nhúc; thế nhưng, với sự sinh đẻ ít hơn, ta tìm thấy ở những động vật này những quan hệ tính giao mật thiết hơn... ở lớp chim, sức sinh sản yếu hơn rất nhiều không những so với cá tôm, mà còn cả so với, thí dụ, ếch nhái, song sự hấp dẫn hữu tính và sự gắn bó quyến luyến giữa con đực và con cái lại đạt mức phát triển chưa từng thấy ở hai lớp dưới. ở các động vật có vú – chúng cũng là những động vật đẻ con – lượng sinh sản lại càng ít hơn nhiều so với chim muông, còn sức hấp dẫn hữu tính thì nhìn chung mặc dù ít thủy chung hơn, nhưng lại có cường độ lớn hơn nhiều. Cuối cùng, ở con người, so với toàn bộ thế giới động vật, sự sinh đẻ được thực hiện với số lượng ít nhất, nhưng tình yêu hữu tính lại có ý nghĩa cao nhất và đạt sức mạnh to lớn nhất, kết hợp ở mức siêu đẳng tính thủy chung (như ở chim muông) với cường độ đam mê (như ở các động vật có vú). Như vậy, tình yêu hữu tính và sự sinh sôi nảy nở của chủng loại có quan hệ nghịch với nhau: cái này càng mạnh hơn, thì cái kia càng yếu hơn. Nói chung, toàn bộ thế giới động vật từ phía đương xem xét phát triển theo trật tự sau đây: ở dưới là sức sinh sản khổng lồ với sự vắng mặt hoàn toàn của bất cứ cái gì giông giống như tình yêu hữu tính (bởi lẽ chưa có ngay sự phân chia tính); tiếp theo, ở những sinh thể hoàn hảo hơn, xuất hiện sự phân hóa giới tính, và ứng với nó, một sự hấp dẫn hữu tính nhất định – ban đầu cực kì yếu, sau đó dần dần tăng cường ở những bậc phát triển hữu cơ cao hơn, cùng với sự giảm thiểu sức sinh sản (tức là trong quan hệ thuận với độ hoàn hảo của tổ chức và quan hệ nghịch với sức sinh đẻ), cho đến khi, ở bậc cao nhất – ở con người – có thể xuất hiện một tình yêu hữu tính mãnh liệt nhất, ngay khi loại trừ hoàn toàn yếu tố sinh sản. Nhưng như vậy, nếu ở hai cực của sự sống động vật, ta thấy một bên là sự sinh sôi nảy nở hoàn toàn không có tình yêu hữu tính, còn bên kia là tình yêu hữu tính không có bất kì sự sinh đẻ nào, thì rõ ràng không thể đặt hai hiện tượng ấy vào quan hệ không thể tách rời, - rõ ràng, mỗi hiện tượng có ý nghĩa độc lập của nó,và lẽ tồn tại của cái này không thể ở chỗ nó là phương tiện cho cái kia. Ta sẽ rút ra cũng kết luận ấy, nếu xem xét tình yêu hữu tính chỉ riêng trong thế giới con người; ở đây, ở một độ cao hơn rất nhiều so với thế giới động vật, nó thu nhận được tính chất cá thể, khiến cho một và chỉ một cá nhân nhất định thuộc giới khác trở nên có ý nghĩa tuyệt đối đối với người yêu quý nó, như thể một cái gì đó độc nhất vô nhị, không gì thay thế được, như một mục đích tự thân tự tại.
II Đến đây, ta bắt gặp một lý thuyết được truyền bá khá rộng, lý thuyết này vẫn thừa nhận tình yêu hữu tính là phương tiện của bản năng chủng loại, hay là của sự sinh sôi nảy nở giống nòi, đồng thời nó cố gắng cắt nghĩa sự cá thể hóa tình cảm yêu đương ở con người như thể một mưu kế hay một phép quyến rũ mà thiên nhiên hoặc ý chí hoàn vũ sử dụng đặng đạt tới những mục tiêu đặc biệt của chúng. Trong thế giới con người, nơi mà những đặc điểm cá thể có ý nghĩa to lớn hơn rất nhiều so với thế giới thực và động vật, thiên nhiên (nói cách khác – ý chí hoàn vũ, ý chí sống, hoặc một cách khác nữa – tinh thần hoàn vũ vô thức hay siêu thức) mong muốn không chỉ bảo toàn nòi giống, mà còn thực hiện, trong khuôn khổ nòi giống, càng nhiều càng tốt những kiểu loại cá biệt và những tính cách cá thể. Nhưng ngoài mục đích chung ấy – sự thể hiện thật đầy đủ tính muôn màu muôn vẻ của các hình thái – cuộc sống của loài người, được hiểu như là một tiến trình lịch sử, còn có thêm nhiệm vụ nâng cao và hoàn thiện bản chất con người. Muốn thế, cần có không chỉ càng nhiều càng tốt những kiểu mẫu khác nhau của tính người, mà còn cần làm cho xuất hiện những kiểu mẫu ưu tú, chúng có giá trị không chỉ một cách tự thân tự tại, như là những kiểu thức cá thể, mà còn do tác dụng nâng cao và làm cho hoàn thiện hơn của chúng đối với những cá thể khác. Như vậy, trong sự sinh sản của loài người, cái sức mạnh – ta gọi nó thế nào cũng được – thúc đẩy tiến trình thế giới và tiến trình lịch sử có nguyện vọng không chỉ làm cho những cá thể con người sinh sôi nảy nở liên tục theo chủng loại của mình, mà còn làm cho ra đời những cá thể nhất định, càng có giá trị cao càng hay. Mà muốn thế, thì chỉ một sự sinh hạ đơn thuần bằng đường kết hợp ngẫu nhiên và vô tình các cá thể khác giới là chưa đủ: để có những sản phẩm cá thể - xác định, cần có sự kết hợp những người sản xuất cá thể - xác định, và vì thế mà cái sức hút hữu tính chung phục vụ cho sự tái sản xuất nòi giống ở các động vật đã không còn là đủ. Vì trong nhân loại, vấn đề không chỉ là sản sinh ra hậu thế nói chung, mà còn là sản sinh ra một loại hậu thế nhất định, thích hợp hơn cả cho mục đích thế giới, và bởi lẽ một cá nhân xác định có thể sản sinh ra hậu thế ấy không phải với bất kì một cá nhân nào khác giới, mà chỉ với một cá nhân xác định, cho nên chỉ một cá nhân ấy có sức hấp dẫn đặc biệt đối với y, hiện ra trong con mắt y như là một cái gì đó hết sức đặc biệt, không gì thay thế được, có một không hai và có khả năng ban thưởng cho y một hạnh phúc cao nhất. Đấy, chính cái đó là sự cá thể hóa và sự phấn khích bản năng tính dục, nó làm cho tình yêu của con người khác tình yêu của con vật, nhưng cả hai thứ tình yêu ấy đều được kích thích ở trong ta bởi một sức mạnh xa lạ với ta, mặc dù có thể đó là một sức mạnh cao siêu, và những mục đích của nó nằm ngoài ý thức của cá nhân ta - được kích thích như là một dục vọng phi lý tính và định mệnh, chiếm lĩnh và chi phối ta, nhưng sẽ biến mất ngay như ảo ảnh một khi đã không còn cần thiết đến nó nữa* . Nếu mà cái thuyết ấy là đúng, nếu mà sự cá thể hóa và phấn khích hóa tình cảm yêu đương có toàn bộ ý nghĩa , có lý do và mục đích duy nhất của nó ở ngoài tình cảm ấy, đích thị là ở những phẩm chất của hậu thế cần thiết (cho những mục tiêu thế giới), thì từ đấy, theo lôgic, sẽ phải suy ra là mức độ cá thể hóa và phấn khích hóa cái tình yêu ấy, hay là sức mạnh của tình yêu, có quan hệ trực tiếp với mức độ điển hình và giá trị của hậu thế là sản phẩm của tình yêu: hậu thế càng là những nhân vật quan trọng bao nhiêu, thì tình yêu của các thân sinh càng phải mãnh liệt bấy nhiêu, và ngược lại, tình yêu gắn bó hai con người nào đó càng mạnh bao nhiêu, thì ta càng phải chờ đợi ở họ những hậu thế xuất sắc bấy nhiêu, theo cái thuyết ấy. Nếu nói chung tình cảm yêu đương đựơc ý chí hoàn vũ kích thích chỉ vì thế hệ mai sau cần thiết và chỉ là phương tiện để sản sinh ra nó, thì dễ hiểu là trong từng trường hợp một, sức mạnh của phương tiện mà động cơ vũ trụ sử dụng phải tương xứng với tầm quan trọng của mục đích muốn đạt. ý chí hoàn vũ càng quan tâm đến một sản phẩm nào đó sẽ phải ra đời thì nó càng cuốn hút lại với nhau mạnh hơn và gắn bó với nhau chặt hơn hai người sản xuất cần thiết. Chẳng hạn, vấn đề là làm cho ra đời một thiên tài cấp thế giới mà hoạt động của con người ấy sẽ có ý nghĩa rất to lớn cho tiến trình lịch sử. Thế thì sức mạnh tối cao điều khiển tiến trình ấy sẽ phải bận tâm với sự ra đời này nhiều hơn gấp bao nhiêu lần so với những sự ra đời khác, tương đương với việc vị thiên tài thế giới này là hiện tượng hiếm hoi hơn cũng gấp bằng ấy lần so với những con người bình thường, và vì thế mà cái sức hấp dẫn hữu tính, mà bằng nó ý chí hoàn vũ (theo thuyết này) bảo đảm cho mình sự thực hiện mục đích quan trọng ấy, sẽ phải mãnh liệt hơn cũng gấp bằng ấy lần so với ham thích bình thường. Tất nhiên, những người bảo vệ thuyết này có thể bác bỏ ý tưởng về tương quan số lượng chính xác giữa tầm quan trọng của nhân vật và sức mạnh ái tình ở cha mẹ anh ta, bởi lẽ những đối tượng này không cho phép đo lường chính xác; nhưng điều hoàn toàn mặc nhiên (theo quan điểm của thuyết ấy), là nếu ý chí hoàn vũ quan tâm đặc biệt đến sự ra đời của một con người nào đó, thì nó phải có những biện pháp đặc biệt để bảo đảm kết qủa mong muốn, tức là theo nghĩa của thuyết này, nó phải kích thích ở trong cha mẹ người ấy một dục tính mãnh liệt đặc biệt, có khả năng chiến thắng mọi trở lực không cho họ đến với nhau. Trong thực tế thì chúng ta lại chẳng tìm thấy một cái gì tương tự như thế – chẳng có một tương quan nào hết giữa sức mạnh của dục vọng tình ái và tầm quan trọng của hậu thế. Trước hết, chúng ta bắt gặp một hiện thực mà thuyết này tuyệt không giải thích nổi, đó là tình yêu mãnh liệt nhất lại hay không được chia sẻ và vì thế mà tuyệt không để lại sau mình một hậu thế nào. Nếu vì một tình yêu như thế mà người ta cắt tóc đi tu hay tự tử, thì cái ý chí hoàn vũ bận tâm với hậu thế xăng xái ở đây để làm gì? Nhưng giả sử chàng Werther cuồng nhiệt không tự vẫn đi nữa, thì niềm say đắm bất hạnh của chàng vẫn cứ là một câu đố không giải được đối với thuyết hậu thế ưu việt. Tình yêu hết sức cá thể hóa và phấn khích hóa của Werther đối với nàng Scharlotte chỉ ra rằng (theo quan điểm của thuyết này), chính cùng với Scharlotte, Werther sẽ phải sản sinh ra một hậu thế đặc biệt quan trọng và cần thiết cho nhân loại, vì nó mà ý chí hoàn vũ đã kích thích nên trong chàng niềm say mê phi thường ấy. Thế nhưng vì sao cái ý chí toàn tri và toàn năng ấy lại đã không đoán ra hay là đã không thể tác động đến cả Scharlotte theo hướng mong muốn, bởi lẽ không có sự tham gia của nàng thì dục vọng nơi Werther là hoàn toàn vô đích và vô dụng ? Đối với một bản thể hoạt động hợp đích, love’s labor lost là cái vô nghĩa hoàn toàn. Tình yêu mãnh liệt đặc biệt thường đa số là bất hạnh, mà tình yêu bất hạnh rất hay đẩy đến tự sát dưới hình thức này hay hình thức kia; và mỗi một cuộc tự sát như thế vì thất tình rõ ràng làm đổ nhào cái thuyết cho rằng tình yêu mãnh liệt được kích thích ngõ hầu bằng mọi cách cho ra đời một thế hệ mai sau mong muốn, mà tầm quan trọng được biểu thị bằng sức mạnh của tình yêu ấy, trong khi đó thì trong thực tế, ở tất cả các trường hợp ấy, chính sức mạnh tình yêu loại trừ không chỉ khả năng có được một hậu thế quan trọng, mà còn cả khả năng có được bất kì một hậu thế nào. Những trường hợp tình yêu không được chia sẻ quá là thông thường, để có thể nhìn thấy ở đấy một ngoại lệ không để ý đến cũng được. Mà giả sử nó có là ngoại lệ, thì cái đó cũng chẳng hề chi, bởi vì ngay cả trong những trường hợp có tình yêu mãnh liệt đặc biệt từ hai phía, nó vẫn không dẫn đến cái mà lý thuyết đòi hỏi. Theo lý thuyết, lẽ ra Romeo và Juliet, tương xứng với niềm say đắm nhau vĩ đại ở họ, sẽ phải sinh ra một con người nào đó rất vĩ đại, ít nhất cũng một Shakespeare, nhưng trong thực tế, như mọi người đều biết, thì ngược lại: không phải họ đã tạo tác ra Shakespeare, như là lý thuyết dạy, mà Shakespeare đã tạo tác ra họ, mà lại một cách vô dục hoàn toàn – bằng sáng tác vô tính. Romeo và Juliet, cũng như đa số các cặp tình nhân cuồng nhiệt, đã chết đi mà không đẻ ra ai cả, còn Shakespeare đã sinh ra họ thì, cũng như những vĩ nhân khác, đã được sinh ra không phải từ một tình yêu cuồng điên nào đó, mà từ một cuộc hôn nhân đời thường rất xoàng xĩnh (và bản thân ông, mặc dù đã từng nếm trải cái tình yêu say đắm, cuồng nhiệt, như có thể thấy, thí dụ, từ những bài xonê của ông, nhưng từ đấy đã chẳng ra đời một hậu thế tuyệt vời nào). Sự ra đời của Christophe Colomb, đối với ý chí hoàn vũ, có thể còn quan trọng hơn sự ra đời của Shakespeare; song chúng ta không biết tí gì về tình yêu đặc biệt của các thân sinh ông, mà biết về mối tình say đắm mãnh liệt của chính ông đối với qúy nương Beatrice Enriquez, và mặc dù ông đã có với nàng một con trai ngoài giá thú tên là Diego, nhưng người con ấy đã không làm nên sự nghiệp gì vĩ đại, mà chỉ để lại tiểu sử về cha mình là việc mà bất cứ người nào khác cũng làm được. Nếu toàn bộ cái lẽ của tình yêu là ở hậu thế và nó có một sức mạnh tối cao điều khiển việc yêu đương, thì vì sao sức mạnh ấy, thay vì lo liệu cho những người yêu nhau được đoàn tụ, lại ngược lại, cứ như cố tình ngăn cản sự đoàn tụ ấy, cứ như nhiệm vụ của nó chính là bằng mọi cách tước đoạt của những người tình chân chính ngay cả khả năng sinh đẻ con cái: nó bắt họ, do một sự hiểu nhầm định mệnh, đâm chết mình trong nhà mồ, nó nhận chìm họ dưới đáy biển Hellesponte và bằng nhiều phương cách khác dẫn dắt họ đến cái chết sớm không để lại con cái. Còn trong những trường hợp hãn hữu, khi mà tình yêu cường liệt không kết thúc thê thảm, khi mà cặp uyên ương sống hạnh phúc đến già, thì dẫu sao họ vẫn không có con. Một linh tính thơ ca nhạy sắc với hiện thực đã buộc Ovidius và Gogol tước đoạt con cháu hậu sinh của Philimon và Baucis, Afanasi Ivanovich và Pulkheria Ivanovna. Không thể thừa nhận tương quan trực tiếp giữa sức mạnh của tình yêu cá thể và tầm quan trọng của hậu thế, khi mà với tình yêu như thế, ngay sự tồn tại của hậu thế chỉ là điều ngẫu nhiên hiếm hoi. Như ta đã thấy, 1) tình yêu mãnh liệt rất hay không được chia sẻ; 2) nếu được chia sẻ, thì sự đắm đuối mãnh liệt đưa đến kết cục bi thảm, trước khi để lại hậu thế; 3) tình yêu hạnh phúc, nếu nó rất mạnh, cũng thường không sinh con đẻ cái; còn trong những trường hợp hãn hữu, khi mà một tình yêu mãnh liệt phi thường để lại hậu thế, hậu thế ấy hóa ra hết sức tầm thường. Có thể xác định một quy tắc chung hầu như không có ngoại lệ là cường độ đặc biệt của tình yêu hữu tính hoặc là hoàn toàn không cho phép có con cháu hậu sinh, hoặc chỉ cho hậu sinh mà giá trị không tương xứng tí nào với độ căng thẳng của tình cảm yêu đương và tính chất ngoại biệt của những quan hệ nảy sinh từ đấy. Nhìn thấy ý nghĩa của tình yêu ở sự sinh con đẻ cái hợp đích – tức là chỉ thừa nhận ý nghĩa ấy ở nơi nào hoàn toàn không có tình yêu, còn ở đâu nó có, thì tước đoạt đi của nó mọi ý nghĩa và mọi lẽ tồn tại. Cái thuyết hư mạo ấy về tình yêu, khi ta đối chiếu nó với hiện thực, hóa ra không phải là một giải thích, mà là một sự chối từ bất kì giải thích nào.
III Cái sức mạnh điều khiển sự sống của loài người, mà có người gọi là ý chí hoàn vũ, có người gọi là tinh thần vô thức, nhưng trong thực tế nó là Cơ Trời, rõ ràng sắp xếp sự ra đời đúng lúc của những con người thiên hựu cần thiết cho những mục đích của nó, xếp đặt trong các chuỗi dài của các thế hệ những kết hợp phải có của những người sản sinh, hướng tới những sản phẩm tương xứng không chỉ gần nhất, mà cả xa xôi nhất. Để có được sự lựa chọn theo thiên mệnh những người sản sinh ấy, nhiều phương tiện hết sức đa dạng được sử dụng, nhưng tình yêu theo nghĩa đích thực, tức là sự say đắm hữu tính, được cá thể hóa và phấn khích hóa đặc biệt, không thuộc về số những phương tiện ấy. Lịch sử Thánh Kinh, với chủ nghĩa hiện thực chân chính và sâu sắc của nó – cái chủ nghĩa hiện thực không loại bỏ, mà thể hiện ý nghĩa lý tưởng của các sự việc trong những chi tiết nghiệm chứng của chúng – lịch sử Thánh Kinh, trong trường hợp này cũng như mọi khi, cho ta một minh chứng chân thật và giàu sức giáo huấn đối với tất cả những ai hiểu biết lịch sử và nghệ thuật, không phụ thuộc vào tín ngưỡng tôn giáo. Sự kiện trung tâm của thánh sử, tức là sự ra đời của Đấng Cứu Thế, hơn bất kì sự kiện nào khác, giả ước một kế hoạch thiên định trong sự lựa chọn và kết hợp những người sản sinh nối tiếp nhau, và qủa là cái thú vị chính của các thánh tích tập trung ở những số phận kì lạ muôn màu muôn vẻ đã làm phương tiện cho sự ra đời và liên kết của các bậc ‘tổ tiên thần thánh’. Thế nhưng trong toàn bộ hệ thống phức tạp ấy của những phương tiện đã quy định, theo trật tự hiện tượng lịch sử, sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế, không có chỗ cho tình yêu theo đúng nghĩa của nó; trong Kinh Thánh tất nhiên cũng có tình yêu, nhưng đó chỉ là những sự kiện riêng biệt, không phải là công cụ của quá trình sản sinh Đấng Kitô. Sách thánh không nói, Abraham đã lấy Sara có phải vì tình yêu nồng cháy hay không, nhưng trong mọi trường hợp thì Thiên Cơ đã chờ đến khi tình yêu ấy đã nguội lạnh hoàn toàn mới cho ra đời từ cặp thân sinh đã trăm tuổi một đứa con của đức tin, chứ không phải của tình yêu. Isaac đã lấy Rebecca không phải vì tình yêu, mà theo kế hoạch định trước của cha mình. Jacob yêu Rachel, nhưng tình yêu ấy hóa ra không cần thiết cho sự sinh hạ Đấng Cứu Thế. Ngài là hậu dụê của con Jacob – Juda, nhưng ông này đã có mẹ đẻ không phải là Rachel, mà là Léa không được chồng sủng ái. Để sản sinh ra trong thế hệ này một vị tổ tiên của Đấng Cứu Thế, đã cần có sự kết hợp của Jacob với Léa chứ không phải ai khác; nhưng để có được sự kết hợp ấy, Cơ Trời không kích thích ở Jacob tình yêu đắm đuối mãnh liệt đối với người mẹ tương lai của vị ‘tổ tiên thần thánh’ – Juda; không vi phạm tự do của tình cảm trái tim, sức mạnh tối cao đã để cho Jacob yêu Rachel, còn để thực hiện sự kết hợp không thể thiếu được của ông với Léa thì nó lại dùng một phương tiện hoàn toàn khác: đó là cái mẹo vụ lợi của một nhân vật thứ ba- một Lavane trung thành với những lợi ích của gia đình và kinh tế của mình. Bản thân Juda để sản sinh ra những tổ tiên gần hơn của Đấng Cứu Thế đã phải, ngoài con cháu trước đây của mình, lúc đã về già còn phối giao với người con dâu Tamara. Vì sự phối giao như thế tuyệt không nằm trong trật tự sự vật và sẽ không thể xẩy ra trong những điều kiện bình thường, cho nên mục đích đã đạt được nhờ một cuộc phiêu lưu rất kì lạ, khá giàu sức cám dỗ đối với những người đọc Kinh thánh một cách hời hợt. Trong cuộc phiêu lưu này, không thể nói về bất kì một thứ tình yêu nào. - Không phải tình yêu đã liên kết một kĩ nữ ở Ierechon tên là Rahab với một người Do Thái ngoại bang; ban đầu, nàng hiến thân cho chàng theo nghề của mình, sau đó quan hệ tình cờ ấy được gắn bó bằng niềm tin của nàng vào một Thần Linh mới và nguyện vọng được Thần che chở cho mình và những người thân thuộc của mình. Không phải tình yêu đã kết hợp cụ nội của vua David, ông già Booz, với nàng Ruth trẻ tuổi thuộc bộ tộc Mohabit, và cũng không từ một tình yêu chân chính, sâu sắc, mà chỉ từ một ý muốn kì quặc, tội lỗi của bậc vương giả mấp mé tuổi già mà vua Salomon đã ra đời . Trong thánh sử, cũng như trong thông sử, tình yêu hữu tính không phải là phương tiện hay công cụ của những mục đích lịch sử; nó không phục vụ cho nòi giống con người. Vì thế cho nên, khi cảm giác chủ quan nói với ta rằng tình yêu là một phúc lợi độc lập, rằng nó có giá trị riêng, siêu tương đối trong cuộc sống cá nhân của ta, thì ứng với cảm giác ấy, cả trong thực tại khách quan ta cũng thấy tình yêu cá thể mãnh liệt không bao giờ là phương tiện cho mục đích giống nòi, những mục đích ấy luôn đạt được ở bên ngoài tình yêu. Trong thông sử, cũng như trong thánh sử, tình yêu hữu tính (theo đúng nghĩa của nó) không đóng một vai trò nào cả và không tác động trực tiếp đến tiến trình lịch sử: ý nghĩa chính diện của nó phải bắt rễ trong cuộc sống cá nhân. Thế thì ở đây, ý nghĩa của nó là thế nào? PHẠM VĨNH CƯ dịch |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC