Nhập môn triết học

Triết học nước Pháp (kỳ 5)

Tạp chí Nam Phong

Số 14, năm 1918, tr. 90-3

TRIẾT HỌC NƯỚC PHÁP [1]

(tiếp theo kỳ 4)

HENRI BERGSON

 

VI

Ta đã kể lượt qua các nhà triết học Pháp, cốt hiểu lấy cái phần mới lạ trong học thuyết của mỗi nhà, để biết các nhà ấy đã giúp cho cái công tư tưởng của thế giới được những gì. Nay ta thử xét xem các nhà ấy có những tính cách gì giống nhau, những tính cách ấy gồm lại mà làm ra cái đặc sắc của triết học nước Pháp vậy.

Cái tính cách rõ ràng hơn cả là khi ta đọc sách vở của các nhà ấy thấy nhời văn thực là giản dị. Trừ về nửa sau thế kỷ 19, trong một khoảng 20, 30 năm, có mấy nhà triết học chịu ảnh hưởng ở ngoài, dùng một lối văn kỳ khu trắc trở, thực là trái với tính sáng sủa quốc văn, - còn thì suốt triết học nước Pháp từ xưa đến nay vẫn lấy một điều này làm tôn chỉ; là không có một cái tư tưởng về triết học nào, dù sâu sắc, dù huyền diệu đến đâu mà lại không thể đem ra diễn bằng nhời nói của mọi người được. Các nhà triết học Pháp không phải là chỉ làm sách cho bọn chuyên môn xem; thực là muốn nói cho cả nhân loại nghe vậy. Muốn thấu được hết cái tư tưởng sâu sắc của các nhà ấy, để lấy bổ ích cho sự tư tưởng riêng của mình, thì phàm người nào đã có học thức là cũng có thể hiểu được. Khi các nhà ấy phải cần đến những lối văn mới để diễn cái tư tưởng mới, thì không như ở các nước khác đặt ra những danh từ riêng, - sự đặt tiếng mới ấy thường chỉ là dùng những tiếng còn sốc nổi chưa luyện để chỉ những tư tưởng còn mập mờ chưa rõ[2] -, nhưng lấy những tiếng thường dùng mà khéo sếp đặt lại thành ra nghĩa mới, mới có thể diễn được những tư tưởng rất huyền diệu mà rất sâu sắc. Bởi thế mà những nhà triết học như ông Descartes, ông Pascal, ông Rousseau - ấy là chỉ kể có mấy nhà ấy thôi -, dù nghiên cứu về cái lý tưởng (ông Descartes), hay dù nghiên cứu về cái cảm tình (ông Pascal, ông Rousseau), thực là đã có ông to đối với quốc văn giúp cho tiếng Pháp được thêm mạnh mẽ, thêm mềm mại ra. Vì rằng trong trí mình có cái tư tưởng gì tất phải phân tách ra cực tinh vi thì mới có thể diễn nó ra bằng nhời thường được. Cái nhà triết học Pháp, kẻ ít người nhiều đều là có cái tư cách riêng biết phân tách cái tư tưởng như thế cả.

Cái tư tưởng ấy cũng tức là một cái đặc tính của triết học Pháp từ xưa đến nay vậy.

Những nhời văn mới là cái hình thể ở ngoài, nay xét đến cái cốt thực ở trong thì thấy triết học Pháp còn có những đặc tính như sau đây:

Trước hết triết học Pháp bao giờ cũng có quan hệ một cách rất mật thiết với các khoa học thực nghiệm, ở các nước khác thì thảng hoặc có nhà triết học kiêm nhà bác học, hay nhà bác học kiêm triết học; nhưng những người như thế, thực là ít có, họa may mới có một đôi người, như ở nước Đức, tuy có được một ông Leibniz vừa là nhà đại triết học vừa là nhà số học có tài, nhưng xét ra sự tiến hóa của triết học nước Đức trong khoảng nửa đầu thế kỷ 19 thực là không có quan hệ gì đến các môn học thực nghiệm cả. Triết học nước Pháp thì không thế; ở nước Pháp, triết học với khoa học vẫn liên tiếp với nhau, nương tựa lẫn nhau. Như trong các học thuyết của ông Descartes, phần triết học với phần số học thực đã hóa hợp với nhau, khó biện được rằng cái kỷ hà học của ông là bởi cái siêu hình học của ông mà ra, hay là cái siêu hình học của ông bởi cái kỷ hà học của ông mà ra. Ông Pascal nguyên là một nhà số học tuyệt luân, một nhà lý học đại tài, rồi mới thành một nhà triết học sâu sắc. Triết học Pháp về thế kỷ 18 phần nhiều là trong vòng những nhà số học, bác vật học, y học (như ông D’Alembert, La Mettrie, Bonnet, Cabanis, v.v.). Về thế kỷ thức 19, mấy nhà đại tư tưởng như: Auguste Comte, Cournot, Renouvier, v.v., cũng là xuất thân số học rồi mới đến triết học. Ông Henri Poincaré thì thực là một tay số học tuyệt luân. Lại ông Claude Bernard đã dựng ra cái triết học về phép thực nghiệm thực là người sáng lập ra khoa sinh lý học. Đến những nhà triết học Pháp trong thế kỷ mới rồi chỉ chuyên quan sát trong nội tâm người ta, cũng thấy thường tham bác đến các khoa học thực học khác như sinh lý học, thần kinh, bệnh học, v.v., để nghiệm rằng không phải mình học những sự huyền ảo không thực. Ông Maine de Biran là người khởi xướng ra cái phép nội quan cũng đã thấy chuộng thực học như thế. Nói rút lại thì ở nước Pháp triết học với khoa học là liên tiếp với nhau, sự đó là một sự thường từ xưa đến nay; tức là một tính cách riêng của triết học Pháp vậy.

Còn một tính cách nữa tuy không phải là riêng cho triết học nước Pháp, nhưng rõ ràng hiển nhiên hơn ở các nước là tính chuộng tâm lý học, chuộng sự quan sát về nội tâm. Chắc là một tính ấy cũng chưa giải được cái học thống của nước Pháp, vì cái tư cách biết tự cứu xét trong tâm tính mình, mà nhân cứu xét được cái tâm tính kẻ khác, thì người Anh người Mỹ cũng có bằng người Pháp, mà đem so với các nhà triết học Đức, thì xét ra các nhà ấy, dù những nhà đại danh nữa (như Leibniz, Kant), cũng  chưa từng thấy có tư cách riêng về tâm lý học, họa chỉ trừ một ông Shopenhauer là nhà siêu hình học có kiêm tâm lý học mà thôi. Đến như các nhà triết học Pháp thì không có một nhà đại danh nào là không thông tỏ cái tâm lý của người ta. Malebranche có những đoạn nghiên cứu về tâm lý rất tinh vi, sen lẫn với những đoạn thuyết lý về siêu hình học. Lại xem như ông Pascal, dù khi ông nghiên cứu về vật lý học, số học, triết học, hay dù khi ông quan sát đến những nơi âm u trong tâm tình người ta, cũng là sáng suốt mà sâu sắc cả. Ông Condilac thì vừa là nhà luân lý học, vừa là nhà tâm lý học. Đến những nhà tư tưởng như ông Rousseau, ông Maine de Biran thì đã vào những bậc khai đường mở lối mới cho cái phép nội quan rồi. Trong suốt thế kỷ thứ 17, thứ 18, cái công cụ của triết học nước Pháp cứu xét về nội tâm người ta, thực là mở đường sẵn cho các môn tâm lý học thực nghiệm của thế kỷ thứ 19 về sau này. Đến thế kỷ ấy nữa, những nhà đã có công gây dựng ra các môn học ấy cũng là những người Pháp cả (như ông Moreau de Tours, ông Charicot, ông Ribot). Vả cái phương pháp của các nhà ấy – nhờ phương pháp ấy mà tâm lý học đời này mới phát minh được nhiều điều quan trọng – cũng là do phép nội quan suy rộng ra mà thôi. Vì phàm học tâm lý bao giờ cũng phải dùng đến cái “ý thức” (conscience), là cái sức tự biết của người ta, nhưng tâm lý học ngày nay khác ngày xưa là không những xét người ta khi bình thường mạnh khỏe, mà xét cả khi bệnh trọng nữa, để biết cái tâm lý lúc biến lúc thường như thế nào.

Đó là hai cái đặc tính chính nhất của triết học nước Pháp vậy.

Hai cái điều hòa với nhau mà gây cho triết học Pháp một cái hình dung riêng. Nhờ có cái đặc tính ấy mà triết học Pháp vừa thu được cái chân tướng ở ngoài là cái chân tướng của nhà tâm lý học. Cũng bởi đó mà triết học Pháp không ưa kết cấu tư tưởng thành “thuyết hệ”, lấy cái độc đoán chủ nghĩa cùng cái kiểm điểm chủ nghĩa của triết học Đức là những chủ nghĩa quá đáng cả. Không phải rằng người Pháp không có tài kết cấu giỏi. Nhưng các nhà triết học Pháp hình như tự nghĩ trong bụng rằng dựng “thuyết hệ” thì có khó gì, lấy một cái tư tưởng suy cho đến cùng thì tưởng cũng là một việc dễ, khó ấy là biết suy đến đâu là nên thôi, biết đi đến đâu là nên rẽ, mà biết thế thì tất phải nghiên cứu sâu sắc các khoa thực học, tiếp súc luôn với sự thực mới có thể được. Ông Pascal đã từng nói người ta có một cái “trí khúc triết” (esprit géométrique) không đủ, nhà triết học phải có thêm cái “trí tinh nhuệ” (esprit de finesse) nữa mới được. Ông Descartes là nhà siêu hình học hiển hách như thế cũng tự nói bình sinh không có chuyên tâm về siêu hình học mấy tí, tức là muốn nói rằng không có chủ ý về việc suy diễn, việc kết cấu trong tư tưởng, việc ấy là tự nhiên nó thành. – Hoặc giả có người nói: Triết học mà không thành “thuyết hệ” thì chẳng phải là sai mục đích ư? Vì mục đích của triết học tức là gồm, là thống nhất cả sự thực. – Xin đáp rằng: Triết học Pháp bao giờ cũng chủ sự thống nhất ấy. Duy chỉ có không dùng cái lối thường mà thôi, cái lối ấy là lấy một cái lý tưởng nào ra, làm khuôn rồi cố nhét cả sự vật vào trong cái khuôn ấy, gọi thế là một cái “thuyết hệ” không biết rằng lấy cái lý tưởng ấy người ta lấy cái khác đối lại cũng được, mà cứ dùng một cái lối ấy cũng đủ dựng được một cái “thuyết hệ” khác chẳng kém gì; hai cái “thuyết hệ” có thể đem ra đối chĩ với nhau được, vì hai cái cũng là không thể kiểm điểm được. Như thế thì triết học thành ra một trò chơi, một đám những nhà thuyết lý ngồi cãi xuông với nhau không có ích gì. Lại phải biết rằng một cái lý tưởng là một phần nhỏ của cái trí thức ta, mà trí thức ta cũng lại là một phần nhỏ của cái chân tướng trong giời đất như thế thì một cái lý tưởng là một bộ phận của một bộ phận, gồm sao được toàn thể sự vật? Thống nhất sự vật là một việc khó khăn, lâu dài mà tinh tế: cái trí tư tưởng của người ta không phải là đem cái chân tướng mà rút lại cho vừa một cái lý tưởng riêng của mình, nhưng phải tự mình khoáng trương ra cho mỗi ngày gồm được một phần to hơn trong chân tướng. Nhưng muốn được thế phải công phu tích lũy trong mấy mươi đời mới được. Hiện nay thì cái nhiệm vụ của mỗi nhà triết học là phải dựng lấy một cái quan niệm về vạn vật trong cái quan niệm ấy cũng có thể đúng được một vài phần, còn những phần khác thì tất là phải tạm thời mà thôi. Có quan niệm đó muốn gọi là một cái “thuyết hệ” cũng được, nhưng nguyên lý của cái thuyết hệ ấy thì không có nhất định, tức là một cái nguyên lý uyển chuyển, có thể khoáng trương ra đến vô cùng được. Ấy chúng tôi thiết tưởng cái tôn chỉ của triết học Pháp là thế. Cái tôn chỉ ấy mãi đến sau này mới công nhiên xướng suất ra. Nhưng nó phát biểu ra chậm thế chính là bởi nó liền với tinh thần nước Pháp, mà tinh thần nước Pháp thì uyển chuyển và có hoạt động, không có tính cách cứng cỏi như cái máy vô hồn; cái tinh thần ấy lại có tính “duy tha” nữa, không ưa những sự kết cấu riêng của từng người, mà chỉ vị nghĩa công cho nhân loại vậy.

Bởi đó, bởi mấy cái tính cách ta vừa mới kể đó mà triết học nước Pháp tự xưa đến nay vẫn có cái tài sáng nghĩ, sáng tạo ra những tư tưởng mới. Bởi triết học Pháp xưa nay bao giờ cũng phải dùng đến nhời nói của mọi người nên không thành ra cái đặc quyền của một đảng triết học; người thường ai cũng có thể kiểm xét được, nên không thể cách tuyệt với cái trí thức thông thường được. Phàm nhà triết học vốn là những nhà tâm lý học, sinh lý học,vật lý học, số học, nên cái triết học ấy vẫn liên tiếp với thực học mà không xa cách với việc đời, bởi thường liên tiếp với thực học, bởi không cách tuyệt với cái trí thức thông thường, nên cái triết học ấy thường được rồi rào phong phú; cũng bởi vì thế mà khơi thành ra một món thanh đàm cho các cao sĩ lấy cái  lý tưởng siêu hình mà kết cấu lại cái thế giới hữu hình vậy. Nhưng nếu triết học Pháp đã đằm thắm trong tinh thần nước Pháp mà sinh hoạt được thì chẳng phải là cái tinh thần ấy cũng có khuynh hướng  riêng về được học triết ư? Thực thế, ở nước Pháp, không có mấy nhà bác học, nhà văn, nhà mĩ thuật là chịu biết chăm chăm về hình thức của nghề mình không biết quan niệm về cái nghề ấy để dựng lấy một cái triết học riêng của mình. Suốt trong nước đều có cái tính hiếu triết học: phàm nghị luận về việc gì, dù việc buôn bán nữa, cùng muốn bàn cao lên đến cái nguyên lý của nó. Xem thế thì biết cái tính hiếu triết học ấy thực là biểu hiệu cho cái lòng cao thượng của nước Pháp, chỉ ưa những sự công đồng, quảng đại. Như thế thì cái hồn nước Pháp với cái hồn triết học cũng lấy làm một vậy.

PHẠM QUỶNH dịch


Nguồn: Tạp chí Nam Phong, số 14, năm 1918, tr. 90-3. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.



[1]  Xem Nam Phong, số 13, trang 24-26.

[2]  Văn quốc ngữ ta cũng không tránh khỏi cái tật ấy. Người dịch bài này cũng hiểu nhẽ đó lắm, nhưng quốc văn ta xưa nay chưa có, chẳng phải sáng tạo ra những chữ, những câu, những nhời mới thì đủ dùng sao được.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt