(Bài nói chuyện của John Dewey tại Khoa Triết Đại học Columbia, New York, ngày 13/11/1947. Nguồn: Trung tâm nghiên cứu John Dewey thuộc đại học Nam Illinois (Southern Illinois University Carbondale 807 S. Oakland Carbondale, Illinois 6290 – http://www.siuc.edu/~deweyctr/about_influence.html)
Giáo sư Edman đã tìm hộ tôi chủ đề cho bài nói chuyện này. Tôi không ngờ ông đã tìm được một chủ đề sinh động như thế này. Ông bảo với tôi rằng ông đã nghe tôi nói chuyện về chủ đề này cách đây 5 năm. Thật tiếc là tôi đã quên hẳn mình đã nói gì vào hôm đó. Năm năm trước đây, tôi có nhiều điều để hi vọng hơn bây giờ. Trong 5 năm qua tôi đã trở nên e ngại hơn, e ngại hơn trong những gì cần nói chứ không phải e ngại hơn trong hi vọng.
Tôi sẽ trình bày vắn tắt quan niệm của tôi về triết học – về công việc của triết học, về mối quan tâm của triết học. Theo tôi, quan niệm tồi tệ nhất là quan niệm cho rằng triết học là để giải thích “tồn tại” là gì, như ta thấy ở quan niệm của người Hi Lạp cổ đại, hoặc giả quan niệm coi triết học là để giải thích “thực tại” là gì, như ta thấy ở triết học hiện đại. Như tôi sẽ đề cập ở phần sau, sự rút lui hiện nay của triết học vô tình lại có một ích lợi tích cực ở chỗ gần đây người ta bắt đầu thấy rõ rằng triết học chẳng đạt được thành công lớn nào trong làm việc với “thực tại”. Mặt khác, người ta cũng đang hi vọng rằng triết học bắt đầu giải quyết những vấn đề gần gũi với con người hơn.
Tôi quan niệm triết học phải giải quyết những vấn đề của nền văn minh, văn minh hiểu theo nghĩa khái quát được các nhà nhân học đưa ra rất dễ hiểu – tức triết học phải giải quyết những mô thức nằm trong các mối quan hệ con người. Triết học phải bao gồm những chủ đề như ngôn ngữ, tôn giáo, nền sản xuất, chính trị, mỹ học bao lâu giữa chúng có tồn tại một mô thức chung chứ không phải xét chúng tồn tại như những vấn đề tách rời và độc lập. Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu được nguyên nhân sâu xa của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm diễn ra sự biến động nhanh chóng của nền văn minh, hiểu được cái gì nằm ở đằng sau cái đang bộc lộ ra bên ngoài, hiểu được chất đất nào nuôi dưỡng những gốc rễ của một trình độ văn minh cụ thể. Triết học quan tâm tới mối quan hệ giữa con người với thế giới nơi nó đang sống bao lâu con người và thế giới bị tác động bởi văn hóa, sự tác động này là vô cùng lớn chứ không phải như ta thường vẫn tưởng.
Một “thế giới vật chất” hoặc “môn vật lý” xét như một nội dung như nó đang tồn tại hiện nay, là cái ra đời chưa lâu. Vật lý chỉ trở thành một nội dung được phân biệt riêng khi nền văn minh nhân loại đã phát triển tới một giai đoạn nào đó. Loài người đã phải trút bỏ vô số những lòng tin – trong đó có những điều mê tín. Trước đó con người nhìn thế giới thông qua tập tục, bằng những khao khát và những nỗi sợ hãi. Chỉ sau khi khoa học hiện đại xuất hiện (vào thế kỷ XVI) thì con người mới thừa nhận có tồn tại thật sự một thế giới vật chất riêng biệt. Ví dụ này chỉ đơn thuần minh họa sức mạnh biến đổi của văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng này thì văn hóa nghĩa là “nguyên liệu”.
Bởi vì công việc của triết học liên quan tới những mối quan hệ giữa con người và thế giới của con người xét như cả hai đều bị tác động bởi văn hóa, cho nên những vấn đề của triết học luôn thay đổi khi thế giới của con người thay đổi. Có thể lấy một ví dụ như sau: con người ở thời đại chúng ta có nhiều hiểu biết hơn về máy móc, công nghệ v.v. Những vấn đề của triết học do đó chỉ đơn giản gắn liền với sự thay đổi, mặc dù có những cấu trúc nền tảng nào đó vẫn tiếp tục duy trì bất chấp sự thay đổi. Việc viết lịch sử của triết học vì thế chưa phải là đã hoàn tất. Lịch sử của triết học cần được hiểu và ghi lại theo những đặc điểm phân biệt trình độ văn minh. Hiện nay có người đã thừa nhận điều này song sự thừa nhận của họ chỉ là hình thức chủ nghĩa – họ chia lịch sử triết học thành các phần gồm triết học Cổ đại, triết học thời Trung cổ, triết học phương Tây và triết học phương Đông. Cách phân chia này chỉ có tác dụng dùng làm những đề mục của tài liệu. Các đề mục này đã không được phân loại dựa trên những chi tiết cụ thể trong các hệ thống triết học.
Bây giờ tôi nói về những hi vọng và e ngại của tôi. Tôi hi vọng vào triết học ở chỗ những người làm nghề triết học nhất định sẽ thừa nhận rằng chúng ta đang ở điểm kết thúc của một thời đại lịch sử và ở điểm bắt đầu của một thời đại khác. Giáo sư và sinh viên nên tìm cách nói cho người khác biết sự thay đổi gì đang diễn ra. Bất luận thế nào, việc thừa nhận những thay đổi, việc thừa nhận những thời kỳ, thời đại diễn ra trong lịch sử của thế giới, đâu phải là điều do tôi bịa ra. Mọi cách viết sử đều chính thức thừa nhận sự phân chia lịch sử thành các thời kỳ. Chúng ta đang tiến tới gần một sự chuyển đổi giai đoạn này; xét như là một sự thay đổi, chúng ta cũng đang ở trong một tình trạng giống như thời Trung cổ: thời Trung cổ đã không còn khả năng kiểm soát những lòng tin và hoạt động của con người. Giờ đây chúng ta thừa nhận sự bắt đầu một thời đại mới. Thời đại mới này hầu như là hệ quả của khoa học tự nhiên ra đời vào thế kỷ XVI nhờ Galileo và Newton, bởi vì ứng dụng của khoa học tự nhiên đã làm thay đổi hoàn toàn cung cách sống và những mối quan hệ giữa con người. Ứng dụng khoa học đã làm nên những đặc điểm của nền văn hóa hiện đại và những vấn đề quan trọng của nó.
Con người ta bao giờ cũng dễ dàng nhận ra những đặc điểm có tính phá hủy hơn là nhận ra những khía cạnh có tính xây dựng. Có một giai đoạn nào đó, không nghiên cứu nào về thế giới này lại không nhắc tới phản ứng phân rẽ nguyên tử. Chúng ta coi điều này là quan trọng bởi vì nó là biểu trưng cho những thay đổi đang diễn ra trong khoa học.
Ai cũng đều biết rằng nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học đang phát triển nhanh hơn nghiên cứu những vấn đề liên quan đến con người – kinh tế học, chính trị và đạo đức. Sự chênh lệch này gợi ý cho ta điều gì nên hi vọng ở một sự phát triển tương lai của Triết học. Các triết gia ở thế kỷ XVI và XVII có lẽ tưởng rằng họ đang giải quyết lý luận về thực tại, song thực ra họ đang ủng hộ môn khoa học tự nhiên vừa ra đời. Họ bận rộn với việc phê phán thứ khoa học ra đời từ thời Aristotle và tồn tại cho tới thời Trung cổ. Họ đòi phải có một khoa học giải thích thế giới theo cách khác. Vào thế kỷ XVIII, nhất là tại nước Pháp thời Khai sáng, và trong chừng mực nào đó là tại nước Anh, các triết gia đã làm điều tương tự với những vấn đề của con người và xã hội, song họ thiếu những chất liệu và công cụ. Họ tống khứ rất nhiều thứ nhưng họ lại chẳng xây được cái gì đáng kể. Tôi cho rằng hiện nay triết học đang có những điều kiện trí tuệ để thúc đẩy những vấn đề của con người và xã hội. Môn khoa học tự nhiên [trước thế kỷ XVI] sau khi đã tống khứ những tàn dư duy linh (animistic) thì nó lại không hề quan tâm tới những vấn đề của con người. Nó quan tâm tới những vấn đề riêng lẻ tồn tại tách rời nhau về không gian và thời gian, và tách rời khỏi mọi thứ đã từng xảy ra. Khoa học tự nhiên [ra đời vào thế kỷ XVI] đã gần như đánh đổ quan điểm này. Nhờ những ứng dụng ngày càng nhiều trong tự nhiên học (physiology) và sinh học (biology), vật liệu của thế giới tự nhiên không còn được đặt trong quan hệ đối lập lại với những mối quan tâm của con người như trước đây. Bản thân khoa học cũng tự giải phóng khỏi cái vật chất hiểu theo nghĩa truyền thống. Nhưng điều này không có nghĩa là vật chất đã trở thành cái thứ yếu so với những mối quan tâm của con người, điều này là không thể xảy ra chừng nào mà quan niệm kiểu Newton vẫn còn thắng thế.
Có biết bao khó khăn cản trở việc thực hiện được niềm hi vọng mà tôi đang bàn tới. Một trở ngại rất nghiêm trọng là tình trạng đáng sợ, khủng khiếp của thế giới hiện nay, hiểu theo nghĩa đen của từ này, tức là thật khó khăn khi phải đối mặt với nó. Người ta có khuynh hướng đi tìm giải pháp hão huyền nào đó để giải quyết những vấn đề của thế giới hiện nay, cách giải quyết này về bản chất là mang tính phản động – tức người ta quay về với những quan niệm của thời Hi Lạp cổ đại hoặc thời Trung cổ, hoặc trong triết học người ta lựa chọn một phương pháp trốn tránh bởi vì ta không xem rằng ta có thể giải quyết được những vấn đề có thực, việc này chắc chắn đòi hỏi hàng thế kỷ khi mà ta đang ở thời điểm bắt đầu một thời đại mới.
Trong triết học, điều gây nản lòng nhất là thứ chủ nghĩa kinh viện hình thức kiểu mới, điều này đã từng xảy ra vào thời Trung cổ. Trong nhiều trường hợp, ngày nay đó là hình thức vị hình thức. Một hình thức của những hình thức chứ không phải là những hình thức của nội dung. Nhưng trong thế giới khó kiểm soát ngày hôm nay, nội dung là cái vô cùng hỗn độn và dễ gây nhầm lẫn. Tôi sẽ giải thích cách nào triết học đang rút lui vào những vấn đề thuần túy hình thức để trốn tránh đề cập những sự kiện của đời sống con người – tôi miễn cưỡng dùng chữ “vấn đề” bởi chưa bao giờ có “vấn đề” nào cả mà chỉ có “hình thức” mà thôi! Chuyện này là vô hại với tất cả mọi người nhưng với nhà triết học thì không. Sự rút lui này lý giải tại sao hiện nay công chúng ngày càng vô cảm trước những vấn đề của triết học.
Thuyết toàn trị, tức ý định tìm ra một kế hoạch chi tiết hoàn chỉnh hòng giải quyết mọi vấn đề, là một hình thức phản động khác, một hình thức nguy hiểm hơn nhiều so với sự trốn tránh. Chúng ta đã nhìn thấy điều này ở chủ nghĩa phát xít, và theo ý kiến của tôi còn ở cả chủ thuyết bôn-sê-vích hiện nay nữa.
Hiểu rõ được tình hình hiện tại đòi hỏi nhiều can đảm. Hiểu được tình hình một cách triệt để đòi hỏi nỗ lực lâu dài. Nhưng triết học đem lại niềm hi vọng bởi vì triết học nhất định phải tham gia vào việc khởi xướng những xu hướng vận động để rồi sau đó con người sẽ hoàn tất những xu hướng đó bằng hành động.
Bước trước tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta đang sống lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu như chúng ta không thể làm được gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng có thể nhìn thẳng vào nó. Nhưng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn chắn khiến cho chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự. Xét trên phương diện này thì chủ nghĩa hình thức là một trường hợp như vậy: nó có khi là một dấu hiệu đem lại hi vọng. Nó bắt đầu bằng một sự thừa nhận rằng nhà triết học là những kẻ giải quyết vấn đề chẳng đâu vào đâu, nói chung, chẳng hạn họ quan tâm giải quyết cái “thực tại tối hậu” nào đó. Sự phản động này có thể lại là cơ hội làm nảy sinh một nỗ lực nghiêm túc hơn trong việc giải quyết những vấn đề của nền văn minh ngày hôm nay. Trong vài thế kỷ qua khoa học đã thủ tiêu rất nhiều sự chia cắt nhị nguyên: tinh thần và vật chất, cá nhân và xã hội v.v. Những chia cắt nhị nguyên này đã từng có đất sống lâu dài chỉ bởi vì những điều kiện của nền văn minh đã cho phép điều đó. Giờ đây chúng ta đã trưởng thành và thoát khỏi những điều kiện đó. Chúng ta còn thiếu một tư tưởng có hệ thống để chỉ ra sự phát triển tiếp theo.
Triết học không thể giải quyết những vấn đề này, cũng giống như triết học của thế kỷ XVII không thể giải quyết những vấn đề của vật lý học, song các nhà triết học ngày hôm nay có thể phân tích những vấn đề và đưa ra những giả thuyết thuyết phục và gây ảnh hưởng tới nhiều người để rồi chúng có thể được trắc nghiệm bằng phương pháp duy nhất sau đây: việc làm thực tiễn (sinh viên vỗ tay).
Tôi muốn nói thêm một điều nữa, điều đó là thế này: ở thời nào cũng vậy, sinh viên triết học như các bạn đều có một cơ hội lớn lao giống như sinh viên trong bất cứ môn học nào, nhưng mọi sự đều đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn, rất nhiều sự can đảm, và cả rất nhiều khí phách nữa!
PHẠM ANH TUẤN dịch
Ý KIẾN BẠN ĐỌC