Chủ nghĩa Marx

Triết học về tự nhiên. Thời gian và không gian

CHỐNG ĐUY-RINH - MỤC LỤC

 

Phần thứ nhất: TRIẾT HỌC

V.

TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN.

 

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN

 

FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)

 


C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004. | Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh.


 

 

Bây giờ, chúng ta sang phần triết học về tự nhiên. Ở đây ông Đuy-rinh lại có đầy đủ lý do để không hài lòng về những bậc tiền bối của ông.

Triết học về tự nhiên "đã suy đồi đến mức trở thành một thứ thơ văn giả hiệu rỗng tuếch và dựa trên sự ngu dốt", và "đã trở thành số phận của thứ triết lý đánh đĩ của một gã Sê-linh nào đó hoặc của những kẻ cùng loại, cố đóng vai trò của bọn phụng thờ cái tuyệt đối và mê hoặc công chúng". Sự mệt mỏi đã giải thoát chúng ta khỏi những "quái vật " ấy, nhưng cho đến nay, nó chỉ mới nhường chỗ cho "sự dao động" mà thôi; "còn về công chúng đông đảo, thì như mọi người đều biết, ở đây sự ra đi của một tay bịp bợm lớn thường chỉ là một dịp cho kẻ kế vị cỡ nhỏ hơn, nhưng thạo nghề hơn, bày lại món hàng của kẻ bịp bợm trước dưới một nhãn hiệu khác". Chính những nhà khoa học tự nhiên cũng không "muốn dạo chơi trong cái vương quốc của những tư tưởng bao trùm cả thế giới" và do đó, trong lĩnh vực lý luận, họ chỉ đưa ra "những kết luận vội vã rời rạc".

Tóm lại ở đây rất cần có sự giúp đỡ, và may mắn thay đã có ông Đuy-rinh ở đó rồi.

Để đánh giá đúng những sự phát hiện tiếp theo và sự phát triển của thế giới trong thời gian và tính giới hạn của nó trong không gian, chúng ta buộc phải trở lại một vài đoạn trong chương "đồ thức luận về vũ trụ".

Tồn tại - vẫn lại nhất trí với Hê-ghen ("Bách khoa toàn thư", Đ93) - được người ta gán cho cái tính vô tận - cái mà Hê-ghen gọi là tính vô tận xấu[1] - và sau đó người ta nghiên cứu tính vô tận ấy.

"Hình thức rõ rệt nhất của tính vô tận có thể quan niệm được một cách không có mâu thuẫn, là sự tích luỹ vô hạn những số trong chuỗi đó... cũng như ta có thể thêm một đơn vị vào mỗi số mà không bao giờ làm cạn được khả năng tiếp tục đếm, thì       tiếp sau mỗi trạng thái của tồn tại cũng đều có một trạng thái khác, và tính vô tận chính là ở sự nảy sinh một cách vô hạn những trạng thái đó. Vì vậy tính vô tận đó được suy nghĩ một cách chính xác, cũng chỉ có một hình thức cơ bản duy nhất với một hướng duy nhất mà thôi. Bởi vì, mặc dầu đối với tư duy của chúng ta, thì việc hình dung về sự tích luỹ các trạng thái luôn luôn biến đổi theo hướng này hay hướng ngược lại là một việc không quan trọng, nhưng dầu sao tính vô tận đi giật lùi chẳng qua cũng chỉ là một hình ảnh do một biểu tượng quá vội vã tạo ra. Thật vậy, trong thực tế tính vô tận ấy sẽ phải theo hướng ngược lại, cho nên trong mỗi trạng thái riêng biệt của nó, nó sẽ để lại đằng sau nó một chuỗi số dài vô tận. Nhưng như thế là chúng ta lại mắc vào một mâu thuẫn không thể chấp nhận được về một chuỗi số vô vận có thể đếm được; vì thế giả định rằng tính vô tận còn có một hướng thứ hai nữa thì thật là vô nghĩa".

Kết luận thứ nhất rút ra từ quan niệm đó về tính vô tận là: mối liên hệ nhân quả trong thế giới vào một lúc nào đó đã phải có điểm khởi đầu của nó:

"Một chuỗi vô tận những nguyên nhân đã xếp nối đuôi nhau là một điều không thể tưởng được, chỉ là vì nó cho rằng sự hằng hà vô số có thể đếm được".

Như thế là nguyên nhân cuối cùng đã được chứng minh.

Hậu quả thứ hai là

"quy luật về con số xác định: chỉ có thể quan niệm được một sự tích luỹ những thành phần giống nhau của một chủng loại hiện thực nào đó gồm những vật thể độc lập, như là việc hình thành một con số nhất định". Không những con số hiện có của các thiên thể trong mỗi lúc phải là một con số xác định tự có, mà cả tổng số những phần vật chất độc lập nhỏ nhất tồn tại trên thế giới cũng phải là như vậy. Tính tất yếu này là lý do thực sự giải thích tại sao lại không thể quan niệm một hợp chất nào đó không có nguyên tử. Mọi sự phân chia hiện thực bao giờ cũng có một tính giới hạn dứt khoát và phải có tính giới hạn như thế, nếu không thì sẽ gặp mâu thuẫn là một sự hằng hà vô số mà lại đếm được. Cũng vì lẽ ấy mà không những số vòng Quả đất xoay quanh Mặt trời từ trước đến nay phải là một số xác định mặc dầu không thể nói rõ là bao nhiêu, nhưng tất cả các quá trình chu kỳ trong tự nhiên cũng đều phải có một khởi điểm, và tất cả mọi sự phân biệt, tất cả những tính nhiều vẻ nối tiếp nhau trong tự nhiên cũng đều phải bắt nguồn từ một trạng thái bất biến. Trạng thái này có thể đã tồn tại từ rất lâu mà không có mâu thuẫn, song ngay cả quan niệm này cũng sẽ bị loại trừ nếu bản thân thời gian gồm có những bộ phận hiện thực chứ không phải bị lý trí của chúng ta phân chia ra một cách tuỳ tiện, chỉ bằng cách giả định những khả năng trên ý niệm với nội dung hiện thực. Nhưng nội dung hiện thực và bên trong không giống nhau của thời gian thì lại khác; thời gian đó, - chứa đầy một cách hiện thực những sự kiện các loại có thể phân biệt được và cả những hình thức tồn tại của lĩnh vực đó đều thuộc phạm vi có thể đếm được chính cũng vì một lẽ là ngay bản thân thời gian và những hình thức đó đều có thể phân biệt được. Nếu chúng ta tưởng tượng ra một trạng thái không có những biến đổi và trong sự đồng nhất của nó với bản thân, nó tuyệt đối không thể hiện những sự phân biệt nào trong trình tự kế tục cả, thì một khái niệm riêng hơn về thời gian cũng sẽ chuyển thành một quan niệm chung hơn về tồn tại. Sự tích luỹ của một thời gian trống rỗng phải có nghĩa là cái gì, điều đó thậm chí không thể hình dung được.

Ông Đuy-rinh đã nói như vậy và ông ta lấy làm đắc ý không ít về tầm quan trọng của những phát hiện ấy. Thoạt tiên ông ta mong mỏi rằng người ta "ít nhất cũng sẽ không coi đó là một chân lý không đáng kể", nhưng sau đó, ông ta nói:

"Người ta hãy nhớ lại những phương pháp cực kỳ đơn giản nhờ đó mà chúng tôi đã đem lại cho các khái niệm về tính vô tận và cho sự phê phán những khái niệm ấy một tầm quan trọng từ trước tới nay chưa từng biết đến... Hãy nhớ lại những yếu tố của quan niệm phổ biến về không gian và về thời gian, được cấu tạo một cách đơn giản đến như thế nhờ việc đi sâu và làm cho rõ thêm hiện nay."

Chúng tôi đã đem lại! Việc đi sâu và làm cho rõ thêm hiện nay. Chúng tôi là ai và cái hiện nay ấy là vào lúc nào? Ai đi sâu và làm cho rõ thêm?

"Luận điểm. Thế giới có khởi điểm trong thời gian và cũng có giới hạn trong không gian. - Chứng minh. Thật vậy, nếu cho rằng thế giới không có điểm khởi đầu trong thời gian thì trước mỗi một thời điểm nhất định đều có cả một vĩnh cửu đã trôi qua, và do đó có một chuỗi vô tận những trạng thái kế tiếp nhau của những sự vật trong thế giới đã trôi qua. Nhưng tính vô tận của một chuỗi chính là ở chỗ mỗi chuỗi đó không bao giờ có thể kết thúc bằng một sự tổng hợp liên tiếp được. Vì vậy, cái chuỗi vô tận đã trôi qua của thế giới là điều không thể có được; có nghĩa là, khởi điểm của thế giới là điều kiện tất yếu của sự tồn tại của nó, - đó là điểm đầu tiên cần chứng minh. - Còn về điểm thứ hai, nếu lại thừa nhận điều ngược lại thì thế giới sẽ là một chỉnh thể vô hạn nhất định gồm những sự vật tồn tại trong cùng một lúc. Nhưng, đối với đại lượng của một lượng không nằm trong những giới hạn nhất định của bất cứ biểu tượng trực quan nào, thì chúng ta chỉ có thể quan niệm được đại lượng đó bằng cách tổng hợp các bộ phận, còn toàn bộ của một lượng như thế thì chỉ bằng cách tổng hợp đầy đủ hoặc chỉ bằng cách lặp lại việc kết hợp đơn vị với bản thân nó. Vì vậy, muốn quan niệm thế giới choán đầy tất cả các không gian như là một chỉnh thể, thì phải coi sự tổng hợp liên tiếp những bộ phận của thế giới vô tận là một sự tổng hợp hoàn thiện, nghĩa là phải coi cái thời gian vô tận, cần thiết để đến tất cả các sự vật cùng tồn tại, như là đã trôi qua rồi, nhưng đấy là một điều không thể làm được. Vậy không thể coi một hợp thể vô tận những sự vật hiện thực là một chỉnh thể nhất định, do đó nó cũng không thể được coi như là một chỉnh thể đã đồng thời tồn tại. Do đó xét về bề rộng của nó, trong không gian thì thế giới không phải là vô tận mà là nằm trong những giới hạn của nó,- đó là điểm thứ hai" (cần phải chứng minh).

Những câu trên đây được sao y nguyên từ một quyển sách nổi tiếng xuất bản lần đầu tiên năm 1781, với nhan đề: I-ma-nu-en Can-tơ, "Phê phán lý tính thuần tuý", trong đó bất cứ người nào cũng có thể đọc thấy những lời trên đây trong phần I, đoạn II, quyển II, chương II, Đ2: Luật tương phản thứ nhất của lý tính thuần tuý[2]. Như vậy là ông Đuy-rinh chỉ có niềm vinh quang là đã gán cái tên: "quy luật về tính xác định của mỗi số" cho một ý kiến mà Can-tơ đã nói ra, và ông Đuy-rinh đã phát hiện ra rằng đã có một thời kỳ chưa có thời gian nhưng đã có thế giới. Còn về tất cả những cái khác, tức là về tất cả những cái gì còn có đôi chút ý nghĩa trong những lập luận của ông Đuy-rinh, thì đó là "chúng ta" - tức là I-ma-nu-en Can-tơ, còn "hiện tại" thì chỉ cách đây mới có 95 năm. Quả thật là "cực đơn giản"! "Cái tầm quan trọng từ trước đến nay chưa từng biết đến" thật là tuyệt vời làm sao!

Nhưng Can-tơ cũng không hề khẳng định rằng những luận điểm trên đây đã được xác lập dứt khoát bằng sự chứng minh của ông. Trái lại. Ngay trang cạnh đó, Can-tơ khẳng định và chứng minh điều ngược lại: thế giới không có điểm khởi đầu trong thời gian và không có điểm kết thúc trong không gian. Và chính vì cả hai điều đó đều có thể chứng minh được nên Can-tơ mới đưa ra cái luật tương phản, tức là một mâu thuẫn không thể giải quyết được. Có lẽ là những người cỡ nhỏ hơn sẽ phải suy nghĩ một chút về điều mà ở đây "một Ngài Can-tơ nào đó" coi là một khó khăn không thể giải quyết được. Nhưng con người dũng cảm chuyên chế tạo ra những "kết luận và quan niệm độc đáo đến tận gốc" của chúng ta lại không thế: trong cái luật tương phản của Can-tơ, cái gì ông ta dùng được thì ông ta sao chép lại một cách chăm chỉ, còn những cái khác thì ông ta vứt bỏ đi.

Vấn đề tự nó được giải quyết rất dễ dàng. Cái vĩnh cửu trong thời gian, cái vô tận trong không gian, - như điều đó đã rõ ràng ngay từ đầu và theo ý nghĩa trực tiếp của những từ ấy, - là ở chỗ, ở đây không có điểm tận cùng về một phía nào cả, cả ở đằng trước lẫn ở đằng sau, cả ở trên lẫn ở dưới, cả ở bên phải lẫn bên trái. Cái vô tận này khác hẳn cái vô tận của một chuỗi vô tận, bởi vì chuỗi vô tận bao giờ cũng bắt đầu từ đơn vị, từ một số đầu tiên. Việc không thể áp dụng quan niệm về chuỗi số ấy vào đối tượng của chúng ta sẽ bộc lộ rõ ngay khi ta đem nó áp dụng vào không gian. Chuỗi vô tận, áp dụng vào không gian, là một đường kéo dài đến vô tận, bắt đầu từ một điểm nhất định, theo một hướng nhất định. Vậy thì điều ấy có biểu hiện được tính vô tận của không gian, dẫu chỉ là ở một mức xa xôi thôi, hay không ? Hoàn toàn không. Trái lại cần phải từ cùng một điểm ấy kẻ sáu đường theo ba hướng ngược nhau thì mới có thể quan niệm được các chiều của không gian, và do đó chúng ta sẽ có sáu chiều. Can-tơ hiểu rất rõ điều đó nên ông chỉ vận dụng chuỗi số của ông vào tính không gian của thế giới một cách gián tiếp, bằng cách đi vòng mà thôi. Trái lại, ông Đuy-rinh ép chúng ta phải thừa nhận sáu chiều trong không gian, và ngay lập tức sau đó ông ta lại không ngớt căm phẫn lên án chủ nghĩa thần bí toán học của Gau-xơ là một người đã tỏ ý không thoả mãn với ba chiều thông thường của không gian[3].

Áp dụng vào thời gian thì đường vô tận về hai phía, hay chuỗi vô tận những đơn vị hướng theo hai phía, có một ý nghĩa hình ảnh nào đó. Nhưng nếu chúng ta hình dung thời gian như một chuỗi tính từ đơn vị trở đi, hay như một đường bắt đầu từ một điểm nhất định, thì như vậy chúng ta nói trước rằng thời gian có điểm khởi đầu; chúng ta đã giả định chính điều mà chúng ta phải chứng minh. Chúng ta gán cho tính vô tận của thời gian một tính chất phiến diện, nửa vời; nhưng một tính vô tận phiến diện, bị phân đôi, cũng là một mâu thuẫn tự nó, là cái đối lập trực tiếp với cái "vô tận được quan niệm là không có mâu thuẫn". Người ta chỉ có thể tránh được mâu thuẫn đó nếu thừa nhận rằng đơn vị mà chúng ta dùng để bắt đầu đếm chuỗi số, điểm mà từ đó chúng ta đo tiếp đường, đều là một đơn vị nào đó trong chuỗi số, một điểm nào đó trên đường, và dù ta có đặt đơn vị hay điểm đó ở đâu chăng nữa thì điều đó cũng không quan trọng đối với đường hay đối với chuỗi số cả.

Nhưng còn mâu thuẫn của "chuỗi vô tận đếm được" thì thế nào? Nếu ông Đuy-rinh chỉ cho chúng ta thấy cái thuật đếm chuỗi số đó như thế nào thì có lẽ chúng ta sẽ có thể nghiên cứu nó sâu hơn. Bao giờ ông ta làm nổi cái công việc đếm từ - OO (âm vô cực) cho đến số không, thì lúc đó xin mời ông ta trở lại với chúng ta. Rất rõ ràng là dù ông ta bắt đầu đếm từ số nào cũng vậy, ông ta vẫn để lại đằng sau ông một chuỗi số vô tận và cùng với nó là cả một bài toán mà ông ta phải giải đáp. Ông ta h•y cứ đảo ngược cái chuỗi vô tận của ông ta 1 + 2 + 3 + 4... và cứ thử đếm ngược lại từ vô cực đến đơn vị xem; hiển nhiên đó là mưu toan của một người hoàn toàn không hiểu biết gì về việc mình đang làm cả. Hơn thế nữa. Nếu ông Đuy-rinh khẳng định rằng chuỗi vô tận của thời gian đã qua là đã đếm được rồi thì như vậy ông ta đã khẳng định rằng thời gian có điểm khởi đầu, vì nếu không thì ông không tài nào bắt đầu "đếm" được. Thế là một lần nữa ông lại lén lút đưa ra dưới dạng một tiền đề cái mà ông ta phải chứng minh. Như vậy, cái quan niệm về chuỗi vô tận đếm được, nói cách khác là quy luật bao quát toàn thế giới ở Đuy-rinh về tính xác định của mỗi con số, là một contradiction in adjectoa1*, nó chứa đựng một mâu thuẫn trong bản thân nó, thậm chí còn là một mâu thuẫn phi lý nữa.

Một điều rõ ràng là: cái vô tận có điểm tận cùng nhưng không có điểm khởi đầu, thì cũng vô tận không hơn không kém cái vô tận có điểm khởi đầu nhưng không có điểm tận cùng. Nếu có được một chút hiểu biết về biện chứng thì có lẽ ông Đuy-rinh đã biết được rằng điểm khởi đầu và điểm tận cùng nhất định phải đi đôi với nhau cũng như cực bắc với cực nam; rằng nếu xoá bỏ điểm tận cùng đi thì chính điểm khởi đầu lại trở thành điểm tận cùng- điểm tận cùng duy nhất của chuỗi số, và ngược lại cũng thế. Toàn bộ ảo tưởng sẽ không thể thực hiện được nếu không có thói quen toán học vận dụng những chuỗi vô tận. Vì trong toán học, cần phải xuất phát từ cái xác định, cái có hạn, để đi đến cái không xác định, cái vô hạn, cho nên tất cả các chuỗi toán học dương hoặc âm đều phải bắt đầu bằng đơn vị, nếu không thì không dùng để tính toán được. Nhưng nhu cầu trên ý niệm của nhà toán học thì còn xa mới là một quy luật bắt buộc đối với thế giới hiện thực.

Vả lại ông Đuy-rinh cũng sẽ không bao giờ quan niệm được cái vô tận hiện thực không có mâu thuẫn. Cái vô tận là một mâu thuẫn, và nó chứa đầy những mâu thuẫn. Cái vô tận chỉ gồm những đại lượng có hạn cộng thành cũng đã là một mâu thuẫn rồi, và đúng là như thế. Tính có hạn của thế giới vật chất cũng dẫn đến nhiều mâu thuẫn chẳng kém gì tính vô tận của nó, và như ta đã thấy, bất kỳ mưu toan nào định gạt bỏ những mâu thuẫn đó đều dẫn đến những mâu thuẫn mới và nghiêm trọng hơn. Chính vì cái vô tận là một mâu thuẫn nên nó là một quá trình vô tận, diễn ra vô tận trong thời gian và trong không gian. Xoá bỏ mâu thuẫn sẽ có nghĩa là chấm dứt cái vô tận. Hê-ghen đã hiểu điểm này một cách hoàn toàn đúng đắn, nên ông ta coi khinh một cách chính đáng những ngài triết lý suông về cái mâu thuẫn ấy.

Chúng ta hãy bàn tiếp. Vậy, thời gian đã có điểm khởi đầu. Nhưng trước điểm khởi đầu đó có cái gì? Thế giới nằm trong trạng thái bất biến, đồng nhất với bản thân. Và vì trong trạng thái ấy, không xẩy ra những sự biến đổi nối tiếp nhau, cho nên khái niệm đặc biệt hơn về thời gian cũng tự nó biến thành ý niệm phổ biến hơn về tồn tại. Một là, ở đây chúng ta hoàn toàn không dính dáng gì đến vấn đề: những khái niệm nào đang chuyển biến trong đầu óc của ông Đuy-rinh. Vấn đề ở đây không phải là khái niệm về thời gian mà là thời gian hiện thực mà ông Đuy-rinh quyết không thể dứt bỏ được dễ dàng như vậy. Hai là, dù cho khái niệm về thời gian có thể chuyển hoá thành ý niệm chung hơn về tồn tại đến mức nào chăng nữa, thì điều đó vẫn không làm cho chúng ta tiến thêm được bước nào cả. Vì các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian. Cái "tồn tại từ thuở rất xa xưa"[4] của phái Sê-linh mới, còn lại những biểu tượng hợp lý so với cái tồn tại ngoài thời gian ấy. Vì vậy ông Đuy-rinh đi vào vấn đề một cách rất thận trọng: nói cho đúng ra, đấy cũng là thời gian, nhưng là thời gian mà về thực chất không thể gọi là thời gian được, bởi vì bản thân thời gian ấy không bao gồm những bộ phận hiện thực và chỉ bị lý tính của chúng ta phân chia ra một cách tuỳ tiện thành các phần mà thôi; chỉ có việc thực sự nhét đầy thời gian bằng những hiện tượng có thể phân biệt được, thì mới là cái có thể đếm được; còn sự tích luỹ một khoảng thời gian dài trống rỗng là cái gì thì điều đó thậm chí cũng không thể hình dung được. ở đây, sự tích luỹ đó là cái gì, điều đó hoàn toàn không quan trọng; vấn đề là trong trạng thái giả định ở đây, liệu thế giới có kéo dài không, liệu nó có trải qua một khoảng thời gian dài hay không? Việc đo một khoảng thời gian dài không có nội dung như thế thì chẳng mang lại kết quả gì cả, cũng giống như trường hợp đo một cách vu vơ không có mục đích trong không gian trống rỗng, - điều đó chúng ta đã biết từ lâu rồi, và chính vì cái tính chất tẻ nhạt của loại công việc đó mà Hê-ghen đã gọi cái vô tận ấy là vô tận xấu. Đối với ông Đuy-rinh, thời gian chỉ tồn tại thông qua sự biến đổi, chứ không phải là sự biến đổi tồn tại trong thời gian và nhờ thời gian. Chính vì thời gian khác biệt, độc lập với sự biến đổi mà người ta có thể dùng sự biến đổi để đo thời gian, bởi vì muốn đo thì bao giờ cũng phải dùng một cái gì khác với vật cần đo. Còn thời gian trong đó không xảy ra những biến đổi rõ rệt nào thì quyết không thể hoàn toàn không phải là thời gian; trái lại, đó là thời gian thuần tuý, không bị những tạp chất lạ từ bên ngoài xâm nhập, do đó là thời gian thực sự, thời gian với tư cách là thời gian. Thật vậy, nếu chúng ta muốn hiểu được khái niệm thời gian dưới dạng hoàn toàn thuần tuý của nó tách khỏi tất cả mọi tạp chất lạ từ bên ngoài, thì chúng ta buộc phải gạt sang một bên tất cả những biến cố khác nhau, xảy ra cùng một lúc hay kế tiếp nhau trong thời gian, coi đó là những cái không thuộc phạm vi thời gian,- nói một cách khác là hình dung ra một thời gian trong đó không có gì xảy ra cả. Như vậy, chúng ta đã không để cho khái niệm thời gian chìm ngập trong ý niệm chung về tồn tại, mà lần đầu tiên chúng ta đạt tới khái niệm thuần tuý về thời gian.

Nhưng so với sự lẫn lộn mà ông Đuy-rinh đã rơi vào cùng với cái quan niệm của ông ta về trạng thái ban đầu đồng nhất với bản thân của thế giới thì tất cả những mâu thuẫn và những điều không thể có trên đây chỉ là trò trẻ con thôi. Nếu thế giới đã có lần ở vào trạng thái tuyệt đối không xảy ra một biến đổi nào cả, thì làm thế nào mà nó lại có thể chuyển từ trạng thái đó sang những sự biến đổi được? Cái tuyệt đối không có sự biến đổi nào, hơn nữa, lại ở trong trạng thái ấy từ ngàn xưa, thì dù sao cũng không thể tự nó thoát ra khỏi trạng thái ấy được để chuyển sang trạng thái vận động và biến đổi. Như vậy là phải có một cái hích đầu tiên từ bên ngoài, từ ngoài thế giới vào, làm cho nó vận động. Nhưng ai cũng biết rằng "cái hích đầu tiên" chỉ là một cách nói khác để chỉ thượng đế mà thôi. Ông Đuy-rinh thuyết phục chúng ta là ông ta đã gạt bỏ sạch sành sanh thượng đế và thế giới bên kia ra khỏi đồ thức vũ trụ của ông ta rồi, nhưng ở đây chính ông ta lại đem cả hai thứ đó trở lại dưới một dạng tinh vi hơn và sâu sắc hơn vào trong triết học về tự nhiên.

Tiếp nữa, ông Đuy-rinh nói:

"Chỗ nào mà một đại lượng thuộc về một yếu tố bất biến của tồn tại thì ở đó đại lượng vẫn cứ bất biến trong tính quy định của nó. Điều đó là đúng...đối với vật chất và đối với lực cơ giới".

Tiện đây xin nói rằng câu thứ nhất là một kiểu mẫu quý giá về cái tài ba hoa trong việc nêu những định đề trùng lắp của ông Đuy-rinh: chỗ nào mà đại lượng không biến đổi thì nó vẫn y nguyên như cũ. Do đó, lực cơ giới, một khi đã tồn tại trên thế giới thì vĩnh viễn vẫn như thế. Chúng ta chưa nói rằng, trong chừng mực điều đó là đúng thì triết học Đê-các-tơ[5] cũng đã biết và đã nói đến cách đây gần ba trăm năm, rằng trong khoa học tự nhiên, thuyết bảo tồn năng lượng đã thịnh hành khắp nơi từ hai mươi năm nay, rằng khi hạn chế điều đó trong phạm vi lực cơ giới thì ông Đuy-rinh chẳng cải tiến nó thêm được chút nào cả. Nhưng như thế thì vào cái thời kỳ trạng thái của thế giới không có biến đổi, lực cơ giới nằm ở đâu? Ông Đuy-rinh vẫn một mực không chịu trả lời câu hỏi ấy.

Thưa ông Đuy-rinh, hồi đó cái lực cơ giới vĩnh viễn ngang bằng với bản thân nằm ở đâu, và nó đã đẩy cái gì vận động? Trả lời:

"Trạng thái ban đầu của vũ trụ, hay nói cho rõ hơn, của tồn tại của vật chất không có biến đổi, không có một sự tích luỹ nào về những sự biến đổi trong thời gian, - đó là một vấn đề mà chỉ có một trí tuệ nào cho rằng việc tự ý làm què quặt năng lực sáng tạo của mình là khôn ngoan rất mực, thì mới có thể gạt bỏ được".

Như vậy là: hoặc là các người hãy nhắm mắt thừa nhận cái trạng thái ban đầu không có biến đổi của tôi, hoặc là tôi đây, Oi-ghen Đuy-rinh, con người đầy năng lực sáng tạo, sẽ tuyên bố rằng tất cả các người đều là những hoạn quan về mặt tinh thần! Dĩ nhiên điều này có thể đe doạ được một số người nào đấy! Còn chúng ta là những người đã thấy được một vài ví dụ về năng lực sáng tạo của ông Đuy-rinh rồi, thì chúng ta có thể tự cho phép mình không trả lời câu chửi rủa tao nhã ấy của ông Đuy-rinh và hỏi lại một lần nữa rằng: nhưng, thưa ông Đuy-rinh, xin lỗi ông, thế cái lực cơ giới ấy nó ra thế nào?

Ông Đuy-rinh sẽ lúng túng ngay lập tức.

Thật thế, ông ta đã ấp úng: "Bản thân tính đồng nhất tuyệt đối của trạng thái có giới hạn ban đầu đó không đem lại  một nguyên lý nào về sự quá độ cả. Nhưng chúng ta hãy nhớ lại rằng về thực chất, mỗi một mắt xích mới nhỏ nhất trong sợi dây chuyền của tồn tại mà chúng ta rất quen thuộc, cũng đều gặp khó khăn như vậy cả. Cho nên kẻ nào muốn nêu ra những khó khăn trong trường hợp chủ yếu nói ở đây, thì cũng không được bỏ qua những khó khăn đó trong những trường hợp ít rõ rệt hơn. Hơn nữa, chúng ta vẫn có khả năng gộp những trạng thái trung gian tiến dần từng nấc vào, và như thế là cái cầu của sự liên tục vẫn được mở thông để đi ngược lên đến tận chỗ không còn có những biến đổi nữa. Thật ra, xét về mặt thuần tuý lô-gích thì tính liên tục này không giúp chúng ta khắc phục được khó khăn chủ yếu, nhưng đối với chúng ta, nó vẫn là hình thức cơ bản của mọi quy luật và của mọi sự quá độ khác mà ai nấy đều biết, thành thử chúng ta cũng có quyền dùng nó làm khâu trung gian giữa sự thăng bằng đầu tiên ấy và sự mất thăng bằng. Nhưng nếu ta quan niệm sự thăng bằng có thể nói là "(!)" bất động, thích hợp với những khái niệm đã được thừa nhận trong cơ học hiện nay mà không có sự nghi ngờ đặc biệt nào", (!) "thì sẽ hoàn toàn không thể giải thích được là làm thế nào mà vật chất đã có thể tiến tới trạng thái biến đổi được". Nhưng ngoài cơ học khối lượng ra thì theo ông Đuy-rinh, còn có sự chuyển hoá của vận động của các khối lượng thành vận động của các hạt nhỏ nhất; nhưng sự chuyển hoá đó diễn ra bằng cách nào thì "cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được một nguyên lý chung nào, và như vậy chúng ta đừng lấy làm lạ khi thấy rằng những quá trình đó còn hơi chìm trong bóng tối".

Đó là tất cả những điều mà ông Đuy-rinh có thể nói được. Và trên thực tế, nếu chúng ta muốn tự thoả mãn với những thủ đoạn đánh trống lảng và những câu nói thực sự thảm hại, trống rỗng ấy thì chúng ta ắt phải thấy rằng không những việc "tự ý làm què quặt năng lực sáng tạo của mình", mà cả niềm tin mù quáng mê muội nữa, đều là sự khôn ngoan rất mức. Như chính ông Đuy-rinh đã thú nhận tính đồng nhất tuyệt đối tự nó không thể nào đi tới sự biến đổi được. Không có một thủ đoạn nào mà nhờ nó sự thăng bằng tuyệt đối tự nó có thể chuyển sang vận động được. Thế thì còn lại cái gì? Còn lại ba cách nói lố lăng dối trá thảm hại.

Thứ nhất: theo lời của ông Đuy-rinh thì rất khó xác định được sự chuyển biến từ mắt xích thậm chí nhỏ nhất sang mắt xích tiếp liền đó trong sợi dây chuyền của tồn tại mà chúng ta đã biết rất rõ. - Hình như ông Đuy-rinh coi độc giả của mình là những trẻ em miệng còn hơi sữa cả. Việc xác định những bước chuyển biến và các mối liên hệ riêng của tất cả những mắt xích thậm chí nhỏ nhất trong sợi dây chuyền của tồn tại chính là nội dung của khoa học tự nhiên, và nếu việc ấy còn vấp váp ở một chỗ nào đó thì cũng không ai, kể cả bản thân ông Đuy-rinh, lại nghĩ đến chuyện giải thích sự vận động đã diễn ra từ "hư vô", mà ngược lại bao giờ cũng giả định rằng, sự vận động đó là kết quả của sự di chuyển, sự biến đổi hoặc sự tiếp tục của một vận động nào đó trước đấy. Nhưng ở đây, như chính ông ta đã thừa nhận, vấn đề lại là làm thế nào để có sự vận động nảy sinh từ bất động, tức là "từ hư vô".

Thứ hai: chúng ta có "cái cầu của tính liên tục". Xét thuần tuý về mặt lô-gích, như ông Đuy-rinh nói, thì cái cầu này quả thật không giúp ta vượt được khó khăn, nhưng chúng ta vẫn có quyền dùng nó làm môi giới giữa sự bất động và vận động. Khốn nỗi, tính liên tục của sự bất động lại là ở chỗ không vận động; như vậy thì làm thế nào để dùng nó đẻ ra sự vận động được, đó vẫn là một điều bí ẩn hơn bao giờ hết. Và dầu cho ông Đuy-rinh có phân chia bước chuyển biến từ chỗ hoàn toàn không có sự vận động đến sự vận động phổ biến thành bao nhiêu phần vô cùng nhỏ đi nữa và gán cho bước chuyển biến ấy một thời gian dài bao nhiêu chăng nữa thì cũng vẫn chẳng làm cho chúng ta tiến được một phần nghìn mi-li-mét nào cả. Nếu không có một hành vi sáng tạo thì dĩ nhiên ta không thể nào đi được từ chỗ hư vô đến một cái gì đó, dù cho cái gì đó chỉ nhỏ như một vi phân toán học. Như vậy là cái cầu của tính liên tục thậm chí cũng không phải là một cái cầu của những con lừa1* nữa; chỉ có ông Đuy-rinh mới có thể qua được cái cầu đó thôi.

Thứ ba: chừng nào cơ học hiện đại còn có giá trị - mà theo ông Đuy-rinh thì đó là một trong những công cụ hết sức quan trọng để phát triển tư duy - thì không thể giải thích được làm thế nào mà người ta có thể chuyển từ sự không vận động sang vận động được. Nhưng thuyết cơ học về nhiệt chỉ cho chúng ta thấy rằng trong những trường hợp nhất định, sự vận động của khối lượng biến thành sự vận động phân tử (mặc dù cả ở đây nữa sự vận động cũng nảy sinh ra từ một sự vận động khác, chứ không bao giờ từ sự không vận động), và điều đó ông Đuy-rinh nói một cách rụt rè, có lẽ có thể là một cái cầu giữa cái tĩnh triệt để (cái đang ở trạng thái thăng bằng) với cái động (cái đang vận động). Nhưng các quá trình này còn "hơi chìm trong bóng tối". Và ông Đuy-rinh đã để chúng ta ngồi ỳ trong bóng tối đó.

Nhờ tất cả việc đi sâu và làm cho rõ thêm, chúng ta đã ngày càng chìm sâu vào một sự vô lý ngày càng tinh vi hơn để cuối cùng đi đến cái bến mà chúng ta bắt buộc phải đến nơi: "bóng tối". Nhưng điều đó không làm cho ông Đuy-rinh bối rối một chút nào cả. Ngay trang sau, ông còn cả gan khẳng định rằng ông ta đã

"có thể đem lại một nội dung hiện thực cho khái niệm về sự bất biến đồng nhất với bản thân, xuất phát trực tiếp từ những hành động của bản thân vật chất và của các lực cơ giới".

Thế mà chính con người ấy lại gọi người khác là "bọn bịp bợm"!

May thay, giữa tình trạng lẫn lộn và lầm lạc đến tuyệt vọng ấy thì "trong bóng tối", chúng ta vẫn còn được một niềm an ủi, và đó quả thật là niềm an ủi nâng cao được tâm hồn con người lên.

"Toán học của những người dân ở các thiên thể khác không thể dựa vào những định đề nào khác ngoài những định đề của chúng ta!"

            

 



[1] Hê-ghen. "Bách khoa toàn thư các khoa học triết học", Đ94.

[2] I.Kant. "Critik der reinen Vernunft". Riga, 1781, S. 426-433.

[3] Đây muốn nói đến những lời Đuy-rinh phản đối ý kiến của nhà toán học Đức vĩ đại C. Ph. Gau-xơ về xây dựng hình học phi Ơ-clit, đặc biệt là phản đối ý kiến về xây dựng hình học không gian nhiều chiều.

a Mâu thuẫn trong định nghĩa, tức là một mâu thuẫn phi lý kiểu như “hình vuông tròn”, “thanh sắt bằng gỗ”, v.v..

[4] Xem Hê-ghen. "Khoa học lô-gích", q. II, mở đầu Thuyết về bản chất. Về phạm trù "tồn tại vĩnh cửu" của Sê-linh thời sau này, xem trước tác của Ăng-ghen "Sê-linh và điều phát hiện" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Tác phẩm đầu tay, tr. 424 và tiếp theo).

[5] Ý kiến về bảo tồn số lượng vận động đã được Đê-các-tơ nói trong "Luận về ánh sáng" (phần đầu của tác phẩm "Vũ trụ", viết vào 1630 - 1633, xuất bản năm 1664 sau khi tác giả qua đời) và trong bức thư của ông gửi Đơ Bô-nơ ngày 30 tháng Tư 1639. Quan điểm đó được phát triển đầy đủ nhất trong cuốn: R. Descartes. "Principia Philosophiae". Amstelodami, 1644, Pars secunda. XXXVI (R. Đê-các-tơ. "Nguyên lý triết học". Am-xtéc-đam, 1644, Phần hai, 36).

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt