BUỔI ÐẦU CỦA CƠN KHỦNG HOẢNG VỀ GIÁO LÝ THẾ KỶ IV ÐỨC TIN ÐƯỢC TRA VẤN LẠI BỞI ARIUS
J. LIÉBAERT
J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Phân III: "Bình minh của một giai đoạn mới - Các giáo phụ đầu tiên của thế kỷ IV". Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986.
CÂU TRẢ LỜI CỦA NICÉE Chúng ta không thể đọc và hiểu các Giáo Phụ thế kỷ IV nếu không biết về một trong những vấn đề trọng yếu đối với các ngài: đó là chủ thuyết Arius, tên một linh mục Alexandrie, với sự phổ biến tư tưởng của Arius, bắt đầu từ khoảng năm 320, Giáo Hội bước vào một cuộc tranh luận mấu chốt, và nó sẽ huy động năng lực của Giáo Hội trong một thời gian dài. Những vấn đề nêu ra chắc chắn không phải là mới nhưng chúng lại bùng lên với sức mạnh hồi sinh Thiên Chúa mà các Kitô hữu tin là Ðấng nào ? Ðức Giêsu Kitô là ai trong tương quan với Thiên Chúa và với con người ? Chúng ta đã biết ý tưởng về một hay nhiều trung gian giữa Thiên Chúa, mà tự thân là bất khả đạt thấu, và thế giới, là một ý tưởng có sức quyến rũ như thế nào, từ thánh Justin tới Origène rồi tới Lactance, cũng như từ Philon tới Plotin, nơi các nhà thần học Kitô giáo, khi trình bày Ngôi Lời và Thần Khí như là có mối liên hệ với thế giới, một mối liên hệ được coi là bất xứng với Chúa Cha, và khi gắn liền với chính hiện hữu của các vị với hiện hữu của thế giới thì dễ có nguy cơ xúc phạm đến thần tính trọn vẹn của Ngôi Lời và Thần Khí. Ðức tin sâu xa của các nhà hộ giáo và các Giáo Phụ thế kỷ III đã giúp họ tránh được những kết luận không thể chấp nhận, nhưng vẫn không loại bỏ được sự hàm hồ mà người ta còn thấy nơi một Eusèbe de Césarée, hoặc theo người ta nói, nơi một Lucien dAntioche, người mà Arius theo học một thời. Chúng ta không rõ thần học của Arius hình thành đích xác là như thế nào, nhưng chắc chắn nó theo lối suy tư gần với một trong những khuynh hướng triết học thời bấy giờ. Khốn thay, vì không có ý thức về đức tin của Giáo Hội mà những người đi trước ông đã chứng tỏ, Arius đẩy tư tưởng đi theo một thứ luận lý đến nỗi cuối cùng hoàn toàn xa rời đức tin truyền thống. "Tín biểu" của Công Ðồng Nicée (325), nguồn gốc của Kinh Tin Kính đọc trong phụng vụ, mãi mãi làm chứng về sự rung chuyển do cuộc tranh luận này gây ra và về phản ứng của dân Kitô giáo. Vì do tầm quan trọng của những vấn đề đặt ra, chủ thuyết Arius trước tiên là sự việc của Giáo Hội và của đức tin không chỉ đơn giản là cuộc tranh luận giữa các nhà thần học hoặc là cơ hội chính trị thuận lợi do một số hoàng đế thời đó khai thác.
THIÊN CHÚA CỦA ARIUS Mối bận tâm căn bản của Arius dường như là muốn gìn giữ một ý tưởng về Thiên Chúa : Ðấng siêu việt cách triệt để trên thế giới, độc nhất, hiện hữu phi-khởi-nguyên, khôn tả, bất khả đạt thấu, bất biến, "bất khả thụ" (theo nghĩa Người không thể chịu hay bị bất cứ điều gì), không lệ thuộc thời gian. Thuật ngữ là thuật triết học hơn là thuật Kinh Thánh ; mối quan tâm bảo vệ tính tuyệt đối của Thiên Chúa dầu vậy vẫn diễn tả phần chân lý chứa đựng trong thuyết Arius. Ðiểm yếu của thần học Arius nằm trong con đường suy tư của ông. Thay vì đặt định nghĩa đó dưới ánh sáng của đức tin mạc khải, thì ngược lại ông lấy đó làm tiêu chuẩn giải thích đức tin Thiên Chúa là khởi nguyên phi-khởi-nguyên, tách biệt khỏi mọi hữu thể khác bằng một hố thẳm không thể vượt qua. Trong khi đó Ngôi Lời không phải là không có khởi nguyên vì lẽ Ngài phát xuất từ Chúa Cha : Ngài có liên lạc với thế giới, và hơn thế nữa, khi nhập thể, Ngài cho thấy mình là "khả biến", "khả thụ", lệ thuộc thời gian. Như thế, Arius kết luận, Ngài không thuộc hàng Tuyệt Ðối Thần Linh, nhưng thuộc hàng hữu thể "phát xuất" (dérivés), cho dù chỉ có mình Ngài là phát xuất từ Chúa Cha và là tác giả của các hữu thể khác. Như vậy, chỉ mình Chúa Cha là "Thiên Chúa thật", còn Ngôi Lời, huống hồ là Thần Khí, chỉ có thể được gọi là Thiên Chúa cách hoàn toàn tương đối. Việc không chấp nhận đồng hóa Chúa Con và Chúa Thánh Thần với Ðấng độc nhất có vẻ như là sự quay về với chủ thuyết độc thần của Cựu Ước. Nhưng trước hết người ta phải hẳn liên tưởng tới bộ ba của thuyết Tân-Platon : Plotin đặt "Nhất thể" trên chóp đỉnh của mọi sự, tuyệt đối siêu việt, "bên kia hữu thể", từ Nhất Thể lưu xuất ra Trí Tuệ, rồi đến Hồn của thế giới, và từ Hồn phát xuất ra các tinh thần thấp hơn. Người ta ngờ rằng, ẩn sau chủ thuyết Arius là thứ thần học mang chiều kích vũ trụ luận và lược đồ phân cấp nói trên. Thế nhưng, các bản văn của chính Arius, không để lộ nền trời triết học đó, luận chứng của ông chủ yếu là luận chứng Thánh Kinh, lợi dụng các bản văn Cựu Ước, chẳng hạn Cách Ngôn 8, 22 ("Giavê đã dựng nên ta, tiên thường của công trình Người") trong đó Khôn Ngoan được các Giáo Phụ nhất trí đồng hóa với Ngôi Lời, và các bản văn khó hiểu liên quan đến Kitô học trong Tân Ước : Marcô 13, 22 ("Con không biết ngày phán xét") ; Gioan 14, 28 ("Cha cao trọng hơn Ta") ; Colosê 1, 15 (Ðức Kitô "Trưởng Tử" mọi thụ tạo) .v.v. Arius hiển nhiên đặt ra những câu hỏi cho đức tin : Nghĩ thế nào được việc Thiên Chúa lại đến trong thế giới, trong thời gian tuyệt đối lại dấn mình vào tương đối ? Celse đã từng nêu vấn nạn như thế. Làm sao giải thích sự "trung gian" của Ðức Kitô giữa Thiên Chúa và loài người (lòng đạo đức tự nhiên lại không có khuynh hướng nhìn Ðức Kitô như một vị trung gian, đứng giữa Thiên Chúa và chúng ta hay sao ?). Quan niệm và nói thế nào về Ðấng Ðộc Nhất đồng thời lại là Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần ? Nhưng đức tin cũng chất vấn Arius : nếu người ta đi theo ông thì mạc khải cụ thể của Vị Thiên Chúa của Thánh Kinh và của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng quả là Hoàn Toàn Khác nhưng cũng là Ðấng Hoàn Toàn Gần Gũi, sẽ nên như thế nào ? Phải chăng nhập thể và cứu độ chỉ cho chúng ta được tương giao với Thiên Chúa cách gián tiếp, có trung gian xen giữa, chứ không thực sự gặp gỡ Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô ? Ðức Giêsu Kitô của Arius không còn là Emmanuel : Thiên Chúa ở cùng chúng ta để cứu độ chúng ta, Ngài chỉ là Ngôi Lời "khả biến", tạm thời biến thành linh hồn nhân loại để chịu một cuộc thử thách nhờ đó mà Ngài đáng được những tước hiệu của Thiên Chúa : một lịch sử siêu việt của Logos chứ không còn là lịch sử của chúng ta nữa. Cách hiểu như thế làm cho mầu nhiệm bị huỷ hoại và người ta không còn nhận ra đâu là Ðức Kitô của các Giáo Phụ thời trước, đâu là "Trinitas" của Tertullien, hay Thiên Chúa của Origène nữa. Nội dung đức tin và giải thích Thánh Kinh phải khuôn theo một ý tưởng định sẵn về Thiên Chúa và theo lối luận lý diễn dịch cứng nhắc. Cuộc khủng hoảng do Arius, với những biến chuyển về tín lý của nó, cho thấy vị thế khó khăn của đức tin phản tỉnh, giữa một bên là phải tuân theo dữ kiện mạc khải, và bên kia là những đòi hỏi của lý trí và những quyến rũ của tinh thần.
THIÊN CHÚA CỦA CÁC GIÁO PHỤ: TÍN BIỂU NICÉE Tuy nhiên, từ năm 325, Công Ðồng "chung" đầu tiên (oecuménique) (từ Hylạp có nghĩa là "phổ quát" nhóm họp do sáng kiến của Constantin trả lời cho thần học của Arius qua việc đưa ra tín biểu nổi tiếng mà sau này trở thành "quy luật" đức tin đối với các Giáo Phụ thế kỷ IV. Tín biểu Nicée tương ứng với phần đầu của Kinh Tin Kính đọc trong phung vụ cho tới những chữ : "Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần". Tín biểu này dựa vào tín biểu của Césarée nhưng xác định rõ hơn, khẳng quyết Chúa Con sinh "từ bản thể Chúa Cha", Ngài là "Thiên Chúa sinh bởi Thiên Chúa" "đồng bản thể với Chúa Cha". Một đàng, Tín Biểu trở về với Thánh Kinh khi dựa vào ý niệm về tử hệ của Ngôi Lời ("được sinh ra chứ không phải được tạo thành") để khẳng định thần tính của Ngài, đàng khác nó không chỉ xử dụng ngôn ngữ của Thánh Kinh để trả lời cho các vấn nạn : từ ngữ then chốt "đồng bản thể" (consubstantiel), vay mượn ở ngôn ngữ triết học, nhằm loại bỏ mọi ý tưởng về một sự khác biệt về bản tính hoặc "bản thể" (Substance) giữa Chúa Cha và Chúa Con, ngang bằng nhau về thần tính, có "cùng một bản thể" và ngay cả có "một bản thể duy nhất" theo nghĩa được minh nhiên gán cho từ ngữ này sau Công Ðồng Nicée. Ðây chính là sự bác bỏ một Ðức Kitô trung gian thuộc về vũ trụ, được phú ban một thần tính thấp kém hơn. Nicée nói với chúng ta rằng nơi Ðức Giêsu Kitô chúng ta gặp được chính Ðấng Tuyệt Ðối là Thiên Chúa, một Thiên Chúa thật sự dấn thân vào trong thế giới chúng ta. Ðức tin hệ tại ở việc Ngài tự mạc khải thế nào thì ta đón nhận Ngài thể ấy. Tại Công Ðồng Nicée, chỉ có hai Giám Mục từ chối ký vào bản Tín Biểu, nhưng một số khác trong số các Giám Mục Hylạp thì chỉ chấp nhận với thái độ do dự, vì e ngại cách giải thích theo hình thái thuyết về từ ngữ "đồng bản thể". Từ ngữ này sẽ còn là trọng tâm của cuộc tranh luận trong nhiều thập kỷ. Bên Ðông phương, có ba khuôn mặt Giám Mục nổi bật, mỗi người một cách, minh họa cho chúng ta giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng trầm trọng về tín lý ở thế kỷ IV này : Eusèbe thành Césarée, Eustache thành Antioche và Athanase thành Alexandrie. Bên Tây phương, có thánh Hilaire, vị đại tiến sĩ đầu tiên của thế kỷ IV.
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM
I. ORTIZ DE URBINA. Nicée et Constantinople coll. "Histoire des Conciles oecuméniques" Paris. LOrante, 1963 (với các tài liệu được phiên dịch). E. BOULARAND. Lhérésie dArius et al "foi" de Nicée. Paris, Letouzey et Ané, 1972, 2 vol. B. DE MARGERIE. La Trinité chrétienne dans lhistoire coll. "Théologie histoirique" Paris. Beauchesne, 1975 Encyclopédie Catholicisme . "Nicée", t.IX, 1982 coll. 1196 - 1200
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC