CÁC GIÁO PHỤ Ở ALEXANDRIE ÐÀ TRI THỨC VƯƠN MẠNH
J. LIÉBAERT
J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986.
KHAI SINH VĂN HÓA KITÔ GIÁO Ở ALEXANDRIE
Là thủ phủ của Aicập, thành phố thứ hai của đế quốc, vào khoảng đầu Công Nguyên, Alexandrie đã là một trung tâm trí thức có uy tín, với những cơ quan, tổ chức lừng danh: Thư viện, Nuséon -một loại Hàn lâm viện trong đó có các văn sĩ, các bác học làm việc với chi phí của Nhà Nước. Chúng ta đã biết một nền văn hóa Dothái độc đáo phát triển tại đây từ thế kỷ III trước Công Nguyên đến thế kỷ I sau Công Nguyên. Alexandrie trở thành nôi của triết học Tân-Platon với Plotin, người có tư tưởng cao siêu và khuynh hướng thần bí tôn giáo sau này sẽ lôi cuốn nhiều Giáo Phụ. Môi trường Alexandrie, chắc chắn được truyền giáo rất sớm, hẳn phải là môi trường hết sức thuận lợi cho một nền văn hóa Kitô giáo xán lạn triển nở. Tuy nhiên, thế kỷ II chỉ để lại cho chúng ta ít dấu vết về sự hiện diện của Kitô giáo, "không kể thư được gọi là của Barnabé" và những vết tích của văn chương nguỵ thư hay của phái ngộ đạo (ngộ đạo của Vallentin). Khoảng cuối thế kỷ mới có dấu báo hiệu sự nẩy nở đầu tiên : chúng ta biết tên ít nhất là của người gợi hứng cho các bậc thầy Kitô giáo ở Alexandrie : đó là Platène, triết gia trở lại, người mà Clément dAlexandrie đã thụ huấn. Clément hoạt động trong phần tư đầu của thế kỷ III, đã được xem là "nhà nhân bản" Kitô giáo, thể hiện sự trung thành của các Giáo Phụ, trung thành vừa với truyền thống Kitô giáo, vừa với văn hóa đương thời, hai yếu tố hòa nhập với nhau chặc chẽ như chúng ta sẽ thấy nhiều ví dụ ở các thế kỷ IV và V. Ðàng khác, Clément là chứng nhân quan trọng ngay cả đối với lịch sử văn hóa Hylạp, do những chỉ dẫn ông cung cấp, chẳng hạn về các triết gia trước Socrate, hoặc về các tôn giáo huyền bí. Ông là người Hylạp và là Kitô hữu một cách thật tự nhiên dễ dàng, thật bình an thanh thản, không có gì phải đặt vấn đề, trong khi một Tertullien, lại sống cuộc gặp gỡ đó trong niềm băn khoăn khắc khoải. Tác phẩm của ông đa dạng, độc đáo, xuất sắc, với một lối văn thanh nhã, tinh tế. Tác giả gây được thiện cảm nhờ một tinh thần cởi mở, nhiệt tình và rất đạo đức. Nhưng ông khiến người ta ngạc nhiên về thiếu phương pháp, thiếu sáng sủa, và đôi khi ông cố ý làm như vậy. Vì thế ông không có được chỗ đứng mà lẽ ra có thể chiếm được trong số những tác giả cổ điển lớn của Kitô giáo. Người ta còn lưu giữ được ba tác phẩm chính của ông : cuốn Protrepticos ("Khuyến Dụ") là một lời mời gọi hoán cải tha thiết, và là một lời biện hộ cho sự gắn bó với Ðức Kitô, lồng trong một ngôn ngữ hoàn toàn là ngôn ngữ văn chương đương thời. Cuốn "Nhà sư phạm" , viết cho những người đã chịu Phép Rửa : Ðức Kitô là nhà sư phạm đào luyện người Kitô hữu trong đời sống luân lý. Clément trình bày một cách sống Phúc Âm giữa lòng xã hội, chứ không đoạn tuyệt thẳng thừng với xã hội như nơi Tertullien ; nếu tác giả này có vẻ là một ngôn sứ hơn thì Clément có vẻ là nhà giáo dục hơn. Cuối cùng là cuốn Stromates ("Những tấm thảm"), một sưu tập lớn những ghi chú về nhều đề tài rất khác nhau, không theo thứ tự nào cả : một kho ý tưởng vẫn còn được nghiên cứu quá ít. Tuy nhiên, tác phẩm và ảnh hưởng của Clément vẫn còn khi6m tốn so với tác phẩm và ảnh hưởng của Origène, một bậc thầy vĩ đại ở Alexandrie thế kỷ III, mà tinh thần của ông đã được các môn đệ tiếp tục gìn giữ. Ngay ở Alexandrie, người ta có thể nhận thấy sự liên tục của một ngành giáo dục Kitô giáo cao cấp theo truyền thống của Origène cho tới đầu thế kỷ IV, và còn tiếp tục trong hậu bán thế kỷ này với Didyme dAveugle (Didyme : người mù) người cuối cùng thuộc hàng ngũ các bậc thầy Kitô giáo này.
HÀNH TRÌNH TRI THỨC CỦA ORIGÈNE
Sinh khoảng năm 185 trong một gia đình thấm nhuần Kitô giáo sâu xa, ngay từ thiếu thời, Origène đã sống trong bầu khí bách hại Giáo Hội do chính quyền thời Septime-Sévère. Cha ông chịu tử đạo khoảng năm 220 và có lẽ việc cưỡng bách lưu đày của hàng giáo sĩ Alexandrie giải thích tại sao chỉ sau đó ít lâu, Origène đã được Giám Mục Démétrius giao nhiệm vụ huấn luyện các dự tòng ("Trường huấn giáo"), lúc ông mới khoảng 18 tuổi. Ông không những coi trọng nhiệm vụ mà còn coi là quá nghiêm trọng nữa, đến nỗi ông bán đi tất cả những sách vở thế tục của mình và tự đặt cho mình một cuộc sống khổ chế lạ thường, ngay cả tự hoạn nữa : một sự kiện lạ nhưng bị quá nhiều người biết và chỉ trích nên những người thán phục ông cuồng nhiệt nhất cũng không thể phủ nhận điều đó. Trong số thính giả của ông có những người có nhu cầu trí thức cao, và thậm chí có cả những người ngoại hay những người theo các giáo phái vốn đã bị tiếng tăm của ông lôi cuốn. Ðám công chúng mới mẻ này khiến ông cảm thấy cần thiết phải hướng đến việc nghiên cứu Thánh Kinh một cách chặc chẽ, có hệ thống và hướng đến việc đào sâu tư duy thần học. Từ đó ông dứt khoát chọn theo con đường nghiên cứu và giảng dạy một cách khoa học, dựa vào các môn học đời. Như thế, ông đã khai mào một nền giáo dục Kitô giáo cao đẳng ("Trường học đức tin đầu tiên", như người ta nói), các sinh viên phải qua chu trình các môn học cổ điển rồi mới học Thánh Kinh và giáo lý. Chính ông cũng bắt đầu học triết học. Có lẽ ông đã theo học Ammonius Saccas, người mà sau đó ít lâu là thầy dạy của Plotin và được coi như người khởi xướng chủ thuyết Tân-Platon. Ðiều này có tầm quan trọng hàng đầu đối với lịch sử tư tưởng Giáo Phụ : cùng với Origène, ảnh hưởng của truyền thống Platon, tuy không hoàn toàn độc chiếm, nhưng đã vượt trội so với các trào lưu triết học khác nơi một số lớn các Giáo Phụ. Trong lịch sử tổng quát của triết học, Origène là một nhân chứng của giai đoạn chuyển từ thuyết "Platon-trung bình" sang thuyết Tân-Platon. Tuy nhiên, ông đã không biết Plotin, trẻ hơn ông 20 tuổi.
Cũng có lẽ trong thời gian đó ông đã khám phá ra công trình của Philon dAlexandrie mà sau này sẽ trở thành một trong những dụng cụ làm việc của ông. Ðối với các Giáo Phụ ở Alexandrie thì công trình của Philon, một nhà chú giải thần học và là nhà thần bí Dothái dễ dàng được kể ngang hàng với những nguồn của khoa chú giải và của linh đạo Kitô giáo. Cũng thời gian này ở Alexandrie, các tác phẩm của Origène ra đời, giữa những năm 215 và 230. Một trong những tác phẩm được soạn thảo đầu tiên và quan trọng nhất là khảo luận vầ Các Nguyên Lý (Peri Archôn) : Ðây là một tựa đề cổ điển vào thời đó, nhưng ở đây Origène muốn trình bày các "nguyên lý" của đức tin Kitô giáo. Ðây là khảo luận đầu tiên trình bày có phương pháp một nhân quan về Thiên Chúa, về con người, về thế giới, khởi đi từ Thánh Kinh (tác phẩm kết thúc bằng một tiểu luận về khoa chú giải) và Truyền Thống Giáo Hội, sử dụng lối suy tư triết-thần học. Với tác phẩm này, Origène là người tiên phong của thời đại trong nỗ lực hiểu biết đức tin. Ðôi khi ông dấn mình vào những giả thiết phiêu lưu mà sau khi mất, ông còn phải chịu đựng những di họa. Tầm nhìn rộng lớn có thể nói là chưa từng thấy đối với sự phát triển tư tưởng Giáo Phụ ; các Giáo Phụ sau này khó có tác phẩm nào tương đương với cuốn sách trên. Cùng lúc đó, Origène khởi sự nghiên cứu bản văn Cựu Ước và thực hiện việc chú giải Thánh Kinh, đặc biệt là công trình chú giải Phúc Âm Gioan rất đồ sộ, để đáp lại tác phẩm tương tự của Héracléon, một người ngộ đạo. Nhờ một người bạn giàu có, ông có được những phương tiện quan trọng để làm việc, đặc biệt là những người tốc ký ("Tachygraphes") và những người sao chép. Chúng ta sẽ thấy công trình nghiên cứu của Origène về bản văn Thánh Kinh chỉ có thể thực hiện được trên thực tế là nhờ cả một nhóm làm việc. Ông đi đây đó : tới Rome, sang Palestine là nơi ông kết tình thân hữu với các Giám Mục như Alexandrie de Jérusalem và Théoctise de Césarée, và thực hiện một số khám phá : trong một chiếc vò gần Jéricho, ông khám phá thấy một bản dịch Thánh Vịnh bằng tiếng Hy lạp khác với các bản dịch đã biết thời ấy : mở đầu cho những khám phá ngày nay ở Palestine ! Các cận thần của hoàng đế Alexandre Sévère (222-235) rất quan tâm tới các vấn đề tôn giáo đã lưu ý tới ông, và hoàng thái hậu Julia Mamaea cho vời ông tới để tham khảo ý kiến. Trong một lần Origène du hành sang Palestine, Alexandre và Théoctise tưởng dành cho ông một vinh dự chính đáng bằng cách phong chức linh mục cho ông, và trước đó ông đã từng được mời giảng thuyết. Thế nhưng những sáng kiến đó bị Démétrius dAlexandrie công khai phản đối, lý do chính có thể là vì có những nghi ngờ đối với Origène, một nhà thần học táo bạo. Chúng ta biết rằng ông đã bị chỉ trích ở một số nơi và sau này ông sẽ phải bảo vệ sự chính thống của mình cũng như phải biện minh cho thái độ cởi mở của ông đối với triết học. Cuộc khủng hoảng này khiến Origène vĩnh viễn rời bỏ Alexandrie ; từ nay ông sẽ theo đuổi công trình của mình tại Césarée thuộc Palestine, chuyển thư viện và trường của ông về đó. Các sách chú giải thánh Kinh lần lượt ra đời, và cả những tập bài giảng về Cựu và Tân Ước trong đó nổi bật giáo lý về tu đức. Ngoài ra Origène còn đề cập đến nhiều đề tài khác, chẳng hạn khoảng năm 248, ông soạn một tác phẩm đồ sộ phản bác cuốn sách của Celse, cũng chính vì thế mà phần lớn bản văn của triết gia ngoại giáo này được cứu vãn là nhờ những trích dẫn của ông. Ông đào tạo các môn đệ, chẳng hạn Grégoire gọi là Thaumaturge (người làm phép lạ) mà sau này sẽ là người rao giảng Phúc Âm tại tỉnh Pont thuộc Tiểu Á. Nhờ Origène, Césarée thuộc Palestine sẽ còn là một trung tâm trí thức Kitô giáo rất hoạt động cho tới cuối thế kỷ thứ IV. Tại đây, người ta đặc biệt ra sức truyền đạt Thánh Kinh bằng tiếng Hylạp. Dù bận công việc, Origène vẫn đi đây đó, đối khi được các Giám Mục mời đến tham khảo ý kiến : nhờ một lô thủ bản tìm thấy ở Aicập năm 1941, trong đó chứa đựng các tác phẩm của Origène, chúng ta có được bản tường thuật về một trong những lần tham khảo này do một nhóm Giám Mục phía nam Palestine. Năm 250, cuộc bách hại đột ngột của Dèce làm nhiều người tử đạo trong tỉnh này ; Origène bị bắt, bị tra tấn nhưng sống sót ; vài năm sau ông mất, thọ 69 tuổi, vào năm 253 hoặc 254.
MỘT LỊCH SỬ ÐỂ LẠI SAU KHI MẤT
Sự tỏa sáng của Origène vượt xa ngoài biên giới Aicập và Palestine, cũng như vượt xa thời kỳ đó. Con người vĩ đại của Alexandrie đã tạo nên một sự kích thích trí thức trong Giáo Hội mà các thế kỷ sau sẽ thừa hưởng. Ông đã tạo ra các môn đệ và gợi hứng về sau cho các nhà thần học như các Giáo Phụ vùng Cappadocia, thánh Ambroise thành Milan hoặc một nhà chú giải như thánh Jérome. Tư tưởng của Origène đã có một vận mệnh khá đặc biệt nhưng cũng thật trái nghịch. Hẳn không một tác giả cổ thời nào lại được những người kế tục sử dụng và bị đạo văn nhiều như thế, và cũng không một tác giả nào bị người ta tranh cãi kịch liệt hơn, đôi khi do chính những người vay mượn ông nhiều nhất. Có thể nói rằng tất cả những nhà thần học lớn của thế kỷ IV đều nhờ vào Origène một điều gì đó, dù ở mức độ rất khác nhau, và dầu vậy, ba thế kỷ sau khi ông mất, ông bị coi là lạc đạo. Căn nguyên của những thăng trầm đó là do những luận đề hay giả thuyết có thể bị bác bỏ trong Peri Archôn : Sự "tiền hữu của các linh hồn" (trước tiên Thiên Chúa tạo dựng một thế giới tinh thần, trong đó các linh hồn đã phạm tội, và từ thế giới đó sa xuống nhập vào thân xác : thực tế đây là huyền thoại Platon), "apocatastasis" ("sự phục hồi" chung cuộc của mọi tinh thần trong sự thiện ; và như thế không có hỏa ngục đời đời). Những luận đề này đã bị một số nhà thần học đả kích mạnh mẽ khoảng thời gian trước sau năm 300. Cuộc tranh luận đầu tiên liên quan đến Origène này giúp các Giáo Phụ biết biện biệt khi xử dụng công trình của ông, và để Origène chịu trách nhiệm về những ý tưởng quá phiêu lưu của ông. Từ đó, chỉ họa hiếm người ta mới gặp được một chủ thuyết Origène nguyên vẹn : có thể nêu ra trường hợp đan sĩ Evagre người Pont thế kỷ IV, ông này đã không trình bày đúng tư tưởng của Origène khi hệ thống hóa nó. Những cuộc "tranh luận về Origène" khác tiếp tục xảy ra : trước sau năm 400, rồi ở thế kỷ IV, nhưng có tính cách giả tạo hơn, vì lấy lời tố cáo theo chủ thuyết Origène để khép tội những đối thủ mà mình đang chống lại vì những lý do khác. Trong bối cảnh đó, nói chung người ta muốn công đồng chung Constantinople II (553) chính thức lên án các luận đề bị bác bỏ, nhưng lối trình bày các luận đề lại không phải là lối trình bày của chính Origène : một giai đoạn tai hại cho ký ức về Origène và cho việc bảo tồn các trước tác của ông. Công trình nghiên cứu hiện nay đã phục hồi uy tín cho con người vĩ đại này của Alexandrie.
CÔNG TRÌNH CỦA ORIGÈNE VỀ THÁNH KINH, NGƯỜI KHỞI XƯỚNG KHOA PHÊ BÌNH VĂN BẢN
Origène tiên vàn là con người của Thánh Kinh, và ông đã nghiên cứu Thánh Kinh với một tinh thần vừa khoa học, vừa đạo đức sâu xa. Theo ông, nhiệm vụ của nhà nghiên cứu Thánh Kinh đòi phải có đặc sủng của Thiên chúa, và nhiệm vụ này hệ tại ở việc "bẻ" và chia sẻ cho các tín hữu tấm bánh Lời Chúa. Các Giáo Phụ ở Alexandrie đã du nhập việc nghiên cứu Thánh Kinh một cách có hệ thống. Họ làm nổi bật chính việc đọc Thánh Kinh, một cách đọc suy niệm để nội tâm hóa và đón lấy Lời Chúa làm của mình. Thế nhưng nghiên cứu Thánh Kinh trước hết đòi hỏi phải có một văn bản đúng. Origène là nhà bác học Kitô giáo đầu tiên đã hiểu được đòi hỏi này, đặc biệt là đối với Cựu Ước. Cuộc tranh luận với người Dothái đã để lộ cho thấy có những dị biệt giữa bản Hipri và bản Bảy Mươi mà các Kitô hữu tham chiếu. Hơn nữa, ngoài bản LXX, còn có những bản dịch Hylạp khác, cả những bản này cũng có nguồn gốc Dothái. Cuối cùng, ngay cả những cảo bản LXX cũng cho thấy có những chỗ dị biệt giữa chúng. Origène đã đề cập vấn đề lớn lao này với một tinh thần mới mẻ, không cắt nghĩa những dị biệt bằng cách cho rằng bản văn Hipri đã bị ngụy tạo, nhưng nhìn nhận giá trị của bản Hipri như là bản gốc, và công nhận nó có trước về phương diện lịch sử. Ông làm việc với các Kinh Sư, khởi sự học tiếng Hipri và bắt tay vào việc thu thập tài liệu hiện có để có thể xử dụng vào việc nghiên cứu bản văn Cựu Ước. Chính từ đó mà một tác phẩm đồ sộ đã ra đời, tác phẩm Hexaples, nghĩa là "Sáu cột",vì trong đó bản Thánh Kinh Dothái được trình bày theo cách nhất lãm trên sáu cột : bản Hipri, rồi bản chép sang tiếng Hylạp, bản dịch của Aquila (tiền bán thế kỷ II sau Công Nguyên - dịch rất sát), bản của Symmaque (hậu bán thế kỷ II), bản LXX và cuối cùng là bản của Théodotion (thế kỷ I sau Công Nguyên ?). đối với một số sách như sách Thánh Vịnh, những khám phá riêng của Origène cho phép ông xếp 7, 8 hoặc tới 9 cột. "Chưa từng có người nào có được một tư liệu đầy đủ về Thánh Kinh tiếng Hylạp như tư liệu mà Origène đã thu thập" (P. Barthélémy). Dụng cụ làm việc này, có lẽ chỉ có một bản duy nhất được lưu giữ tại Césarée. Người ta đã đến đó để tham khảo, nhưng rồi nó biến mất, gây thiệt hại lớn lao cho khoa Thánh Kinh. Từ công trình trên, Origène đã rút ra một cách trình bày bản LXX, trong đó những chỗ khác biệt nhau, những chỗ bản LXX thêm vào bản Hipri, hay những chỗ thiếu trong bản LXX được bổ khuyết nhờ vào những bản dịch Hylạp khác, tất cả được đánh dấu bằng những ký hiệu thuộc khoa phê bình lấy ở những ấn bản của các bản văn cổ. Như vậy, dù Origène không cho phép mình sửa chữa bản LXX, độc giả vẫn biết được những chỗ dị biệt. Chúng ta chỉ còn có được những dấu vết nhỏ của công trình này. Việc tôn trọng bản LXX một cách tỉ mỉ của Origène có thể hiểu được là vì đối với ông, nếu bản Thánh Kinh Hipri có trước về mặt lịch sử, thì bản LXX lại là Thánh Kinh của Kitô giáo do Giáo Hội truyền lại, chỉ mình nó mới có giá trị chuẩn mực cho đức tin. Chính thánh Jérome sẽ là người làm cho uy tín của bản LXX bị sứt mẻ khi ngài đưa ra một bản dịch Latinh được hiệu đính dựa trên bản Hipri. Origène đã không vượt qua bước này. Tuy nhiên, ông đã chứng tỏ một tinh thần phê bình khá táo bạo, chẳng hạn về Tân Ước, ông nói đến tính chất "lịch sử" đặc biệt của các sách Phúc Âm hoặc nói đến tác giả của thư Dothái : không phải chính Phaolô, nhưng là một môn đệ hay một người bạn quen thuộc với tư tưởng của ngài : khoa chú giải hiện nay cũng nói như vậy.
ORIGÈNE VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH
Giải thích thánh Kinh, đó là bận tâm chính của Oreigène. Vấn đề được đặt ra cho ông cách hết sức rõ ràng do việc đối chiếu cách đọc Kinh Thánh của Kitô giáo đã trở thành truyền thống với cách đọc của Dothái giáo, của Ngộ Ðạo hay của bè Marcion ; Origène nhận thấy rằng, chính dân Kitô giáo cần phải được soi sáng trong cách hiểu Thánh Kinh của mình, vì đôi khi họ đọc Thánh Kinh theo nghĩa văn tự một cách ngây ngô theo sát từng chữ, mà không hề biết lùi lại. Ông vạch rõ những nguyên tắc làm cơ sở cho tất cả cách đọc Kinh Thánh của Kitô giáo cổ thời : 1. Toàn bộ Thánh Kinh được Chúa Thánh Thần linh hứng. 2. Thánh Kinh có một nghĩa sâu xa ẩn dưới nghĩa trực tiếp : nguyên tắc về tính đa nghĩa của bản văn Kinh Thánh này là đặc điểm của tất cả khoa chú giải cổ thời ; thánh Phaolô đã phân biệt "văn tự" với "tinh thần" của Lề Luật (2Cr 3, 6). Origène cố gắng tìm ra mọi ý nghĩa của bản văn vì nghĩa ẩn giấu thì vô tận, và mọi chi tiết của bản văn đều như thế, vì Thiên Chúa không để cho điều gì là ngẫu nhiên cả. 3. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với chúng ta, những Kitô hữu hôm nay : Các Giáo Phụ không tiếp cận Thánh Kinh như một tài liệu lịch sử thuần túy, như luôn luôn như một cuốn sách của sự sống, nhằm "giáo huấn chúng ta" (x. thánh Phaolô, Rm 15,4). Vì thế, theo các ngài, chỉ có cách đọc của Kitô giáo trong ánh sáng mầu nhiệm Ðức Kitô, mới là cách đọc Cựu Ước đích thực. Lấy hứng từ Philon, Origène cố gắng xây dựng một lý thuyết về các "nghĩa" khác nhau của Kinh Thánh, dựa vào ba yếu tố cấu tạo con người : thể xác, linh hồn và tinh thần. Như vậy trên nguyên tắc, ông phân biệt ba nghĩa : nghĩa xác thịt hay văn tự, nghĩa "tâm linh" (psychique) hay luân lý, nghĩa thiêng liêng hay thần bí. Tuy nhiên, trên thực tế ông không tuân theo cách phân loại này và không thể tuân theo được vì trong kinh nghiệm Kitô giáo, việc gắn bó với huyền nhiệm Ðức Kitô điều khiển đời sống luân lý và thiêng liêng. Vì vậy, ông thường đi từ nghĩa văn tự sang nghĩa "thần bí" liên hệ tới lịch sử cứu độ, tới Ðức Kitô, Giáo Hội . và từ đó áp dụng vào đời sống luân lý. Một cách thường xuyên hơn, ông kết hợp nghĩa thần bí và nghĩa luân lý, và lúc đó chỉ nói đến nghĩa "thiêng liêng", vượt lên trên nghĩa "văn tự" hay "lịch sử". Do vậy, ý niệm về nghĩa thiêng liêng có một nội dung rất rộng.
Ðiều quan trọng đáng để ý là Origène và các Giáo Phụ không làm tiêu tan nghĩa lịch sử hay văn tự. Nó là nghĩa đầu tiên của bản văn và là cơ sở của mọi giải thích. Origène rất chú tâm tới việc xác định nghĩa văn tự và thường làm một cách tỉ mỉ : không hề có "chủ thuyết ảo thân" nào về Thánh Kinh trong khoa chú giải của ông. Tuy nhiên, nghĩa đầu tiên này không là tất cả ý nghĩa của Thánh Kinh, cũng như người ta không thể dừng lại ở "thân xác" của Ðức Kitô. Cần phải đi tới tầm mức thiêng liêng của bản văn, tầm mức mà, tong Cựu Ước, mạc khải những tiên trưng của mầu nhiệm Kitô giáo và trong Tân Ước, mạc khải lời loan báo về những thực tại hiện thời và chung cuộc. "Lịch sử" hay "văn tự" và "tinh thần" : đó là hai mức đọc Thánh Kinh, và ở đây, vị thầy mà Origène nại đến không phải là Philon cho bằng thánh Phaolô mà ông không ngừng nhắc lại những thí dụ tiêu biểu về giải thích Cựu Ước theo nghĩa "thiêng liêng" : Gal. 4, 22tt ; 1Cor 10, 1-11 ; x. Hr 10, 1. Về phương diện tín lý, cách đọc này đặt nền tảng trên tính liên tục của hai Giao Ước và trên tính duy nhất của chương trình Thiên Chúa. Khoa chú giải của các Giáo Phụ vẫn còn bổ ích cho chúng ta khi trình bày Thánh Kinh như một toàn thể gắn bó, sống động và luôn luôn hiện tại. Nhưng đặc biệt do ảnh hưởng của Philon, Origène không chỉ hài lòng với việc đào sâu việc đọc Thánh Kinh dưới sự soi sáng của đức tin và của kinh nghiệm Kitô giáo, ông còn dựa vào phép "ẩn dụ" một cách có phương pháp để tìm ra mọi loại ý nghĩa biểu trưng trong mọi chi tiết của bản văn. Tuy nhiên, phương pháp này nhanh chóng đưa đến chỗ tùy tiện, và biến Thánh Kinh thành một "rừng biểu tượng" mà không có những tiêu chuẩn có thể biện minh. Vì vậy, Origène có phần trách nhiệm của mình trong việc phát triển khía cạnh này của khoa chú giải thời các Giáo Phụ và thời Trung cổ, cho dù ông cố gắng xác định một số giới hạn, tỷ như đặt ra nguyên tắc theo đó, Thánh Kinh phải được cắt nghĩa bằng chính Thánh Kinh, Thánh Kinh phải luôn hợp lý chặc chẽ với chính nó, các biểu tượng được khai thác phải có chỗ dựa trong Thánh Kinh. Thực ra, phương pháp trên là một hiện tượng văn hóa. Phép ẩn dụ đã được các Kinh Sư dùng trong việc chú giải Lề Luật, cũng như các nhà luân lý ngoại giáo dùng trong việc cắt nghĩa Homère và thần thoại. Thêm vào đó, Origène theo thế giới quan của Platon, nhãn quan này đi tới chỗ cho rằng mọi thực tại đều có hai mặt : mặt "khả giác", hữu hình, bất tất, và mặt vô hình, thiêng liêng, vĩnh cửu.Philon đã viết : "giải thích theo văn tự (là) như biểu tượng của một vũ trụ ẩn giấu mà nghĩa ẩn dụ vén mở" (Về đời sống chiêm niệm 3, 28). Cách đọc thánh Kinh theo lối ẩn dụ này đã ghi dấu sâu xa trên khâu chú giải Kitô giáo cho tới hết thời Trung cổ. Tuy nhiên cần phải ghi nhận rằng, nơi các Giáo Phụ cũng đã có phản ứng chống lại lối giải thích ẩn dụ triệt để. Về điểm này, người ta phân biệt hai "trường phái" chú giải : Trường phái Alexandrie và trường phái Antioche. Ðặc điểm của trường phái sau không phải là lối chú giải thuần túy theo "văn tự" như người ta thường nói, nhưng là khước từ sự tùy tiện, và do đó trường phái này đi đến chỗ giới hạn phạm vi của các biểu tượng, các hình bóng, chú trọng tới sự chính xác khi giải thích và đặc biệt chú ý tới các văn mạch với một óc phê bình đôi khi đạt tới mức rất sắc bén. Theo một nghĩa nào đó, lối chú giải này hiện đại hơn, và theo kiểu nói của Théodore de Mopsueste, nó không cho phép "thấy Ðức Kitô ở mọi chỗ trong Kinh Thánh", đại diện cho lối chú giải này chỉ có một ít nhà chú giải thế kỷ IV và V, và trên thực tế họ thuộc vùng Antioche. Chúng ta sẽ nói sau. Về phần các Giáo Phụ Latinh, nói chung các ngài theo lối chú giải của Origène, tuy không đồng hóa với khoa chú giải của Giáo Phụ, dù sao cũng tiêu biểu cho khuynh hướng của khoa chú giải này, và điều người ta nói về lối chú giải của Origène thì cũng có giá trị rộng rãi cho toàn bộ khoa chú giải của các giáo Phụ.
Con người và tác phẩm của Origène còn nêu ra nhiều khía cạnh khác mà chúng ta không thể trình bày ở đây. Ông là một triết gia lớn và là một nhà thần học suy lý, "trí óc quảng bác nhất thời đại của mình cùng với Plotin" (H.I. Marrou). Ông cũng là một nhà tu đức lớn và ngay cả một nhà thần bí nữa. Các tác phẩm của ông vẫn là nguồn suối đầy sức sống, nơi mà các nhà thần bí hàng đầu của thế kỷ IV đến để kín múc. Một tinh thần mạnh mẽ và phong phú đến lạ lùng trong nột Giáo Hội hãy còn non trẻ, ông đã vượt trên thế kỷ của mình và mở ra những con đường phong phú mà người ta không ngừng khám phá. Erasme, một trong những nhà nhân bản lớn của thời Phục Hưng đã tỏ lòng kính phục không đến nỗi tầm thường đối với ông khi tuyên bố rằng mình học được nhiều triết học Kitô giáo trong một trang của Origène hơn là trong mười trang của thánh Augustin !
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM
H. CROUZEL, Origène, coll. "Le Sycomore". Paris, Lethielleux 1985. M. HARL, Origène et la fonction révélatrice du Verbe incarné, Paris, Le Seul, 1958. H. de LUBAC, Histoire et esprit, Lintelligence de lEcriture daprès Origène, coll. "Théologie", Paris, Aubier.
Về môi trường Alexandrie : Encyclopedia Universalis, "Alexandrie", t.I.1984, p. 699 - 703
Các bản dịch : La prière : coll. "Les Pères dans la foi" Traité des principes, coll. "Etudes augustiniennes" Paris 1976 Commentaire sur saint Jean, "Homélies" sur lEcriture Contre Celse . coll. "Sources Chrétiennes".
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC