CUỘC GẶP GỠ GIỮA KITÔ GIÁO VÀ VĂN HÓA HY LẠP ----------------
JUSTIN NHÀ THẦN HỌC GIÁO DÂN VÀ LÀ TRIẾT GIA KITÔ GIÁO
J. LIÉBAERT
J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986. CON NGƯỜI VÀ HÀNH TRÌNH TRI THỨC CỦA JUSTIN Với Justin, chúng ta đang ở giữa thế kỷ II. Xét về thời gian, Giáo Hội đang xa dần cội nguồn, đi vào một thời kỳ mới trong lịch sử của mình. Các Gíao Hội Kitô Giáo gốc Do Thái đã thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút trước sự bành trướng của Kitô giáo phát xuất từ Thánh Phaolô. Từ nay, phần đông các Kitô hữu đến từ ngoại giáo, nhiều người trở lại khi đã trưởng thành và đó là trường hợp của Justin. Những vần đề đức tin phải đương đầu đang chuyển sang những lãnh vực khác. Kitô giáo ngày càng gặp gỡ rộng rãi với thế giới Hy-La, một thế giới ý thức về các giá trị của mình, tự hào về một số thành quả chính trị ("Hòa bình Roma" - Pax romana) và nhất là về văn hóa. Người cổ thời ý thức mình thừa kế cả một di sản trí thức, nghệ thuật, tôn giáo (vì ngoại giáo cổ thời là một tôn giáo đa thần), tự hào về khôn ngoan và truyền thống trí thức của mình. Ðặc biệt, người thời đó đã thành công trong việc xây dựng nên một nền văn hóa có giá trị toàn cầu. Ðiều này có thể thấy rất rõ trong khoảng thời gian đầu Công Nguyên; được đánh dấu bằng việc thống nhất thực sự về văn hóa trong vùng Ðịa Trung hải: Tiếng Hy Lạp được dùng khắp nơi, đó là ngôn ngữ chung (koinè), ngôn ngữ của thương mại, của triết học, của khoa học. Cả các tôn giáo cũng hòa nhập với nhau, phổ cập hóa. Văn hóa La Tinh của Tây phương bị văn hóa Hy lạp thâm nhập (Marc-Aurèle, Hoàng đế Roma viết cuốn "tư tưởng" bằng tiếng Hy lạp). Văn hóa Hy Lạp đã phát triển một tinh thần phổ quát nào đó, dù thành quả của nó còn mang những nhược điểm, nhưng dù sao nó vẫn là "nền văn hóa" của thời bấy giờ. Như vậy, khi ra khỏi chiếc nôi ban đầu, Giáo Hội đã gặp gỡ thế giới văn hóa Hy lạp. Ðối chiếu là điều thiết yếu và không thể tránh khỏi. Hai con người, một Kitô hữu và một dân ngoại, sẽ đánh dấu một giai đoạn đầy ý nghĩa của việc đối chiếu này: Phía Kitô Giáo là Justin, một trong những "Giáo Phụ" đầu tiên tiếp xúc trực tiếp với tư tưởng Hi lạp, vị tiên phong mở đường, và là người gợi hứng cho các "Giáo Phụ hộ giáo"; phía ngoại giáo là triết gia Celce, người mà sau đó ít lâu (khoảng năm 178) đã viết cuốn phê bình duy lý đầu tiên về Kitô giáo (đồng thời phê bình cả Do Thái giáo). Về phần Justin, khoảng năm 150, Ngài xuất bản cuốn Hộ giáo thứ nhất gửi hoàng đế Antonin nhằm bảo vệ Kitô giáo và các Kitô Hữu. Tiếp đến là cuốn "Ðối thoại với Tryphon", người mà chắc hẳn Ngài đã gặp ở Ephèse vào lúc có cuộc nổi dậy thứ hai của người Do Thái. Cuộc tranh luận giữa Kitô hữu với người Do Thái là một cuộc tranh luận sẽ còn kéo dài rất lâu nơi các Giáo Phụ. Tác phẩm của Justin trước tiên nhằm đặt nền cho cách đọc Cựu Ước theo nhãn quan Kitô Giáo; Ngài sử dụng rất nhiều các luận chứng của khoa chú giải Do thái-Kitô giáo (Judéo-Chrétiennes). Sau đó, Justin xuất bản cuốn Hộ giáo II, bổ sung cho cuốn I, vào dịp 3 Kitô Hữu bị hành quyết tại Roma. Người ta không còn giữ được các tác phẩm thực sự là tác phẩm thần học của Ngài chống lại phái Ngộ đạo và thuyết của Marcion, vì thế chúng ta không được rõ mọi khía cạnh trong tư tưởng và tác phẩm của Ngài. JUSTIN LÀ AI? Ngài nguyên là người Palestin (Flavia Neapolis hay Naplouse). Ðược hấp thụ nền văn hóa Hy lạp, nhưng nguồn gốc Palestine của Ngài có lẽ phần nào đóng góp vào kiến thức về các truyền thống chú giải Do thái - Kitô giáo (Judéo-Chrétiennes) của Ngài. Vào khoảng năm 132, Ngài trở thành Kitô hữu, nhưng việc Ngài trở lại Kitô giáo là thành quả của cả một hành trình tri thức và thiêng liêng mà Ngài mô tả ở đầu cuốn Ðối Thoại. Tâm hồn của Justin là một tâm hồn tôn giáo, thao thức khám phá sự thật về Thiên Chúa và con đường dẫn tới Người. Ngài tìm kiếm, điều đó nơi các triết thuyết lớn, vì như Ngài nói, mục đích của triết học chính là tìm kiếm Thiên Chúa và kết hợp với Ngài. Về điểm này triết gia ngoại giáo Celse cũng diễn tả tương tự, vì xét chung, triết học thời bấy giờ thiên nhiều về những bận tâm tôn giáo. Trên đường tìm kiếm, Justin đã rong ruổi từ thành này đến thành khác, tìm kiếm các bậc thầy đại diện cho các truyền thống triết học chính. Cuối cùng, Ngài đã trở thành một môn đệ nhiệt thành của chủ thuyết Platon (II,6), bị chinh phục bởi ý tưởng rất cao siêu về Thiên Chúa, bởi chiêm niệm thần bí giải thoát tinh thần, đưa tinh thần đến chỗ nên giống Thiên Chúa và kết hiệp với Thiên Chúa. Nhưng rồi, một ngày kia, Ngài gặp một cụ già vừa là Kitô hữu, vừa là triết gia, cụ đã giúp Ngài nhận thức được rằng triết học tự nó không đủ để dẫn tới chỗ kết hiệp với Thiên Chúa trong một cuộc đối thoại điển hình kiểu "socrate". Cụ mặc khải cho Justin về các tiên tri và về Ðức Kitô: Chính việc đón nhận mạc khải này là con đường dẫn tới Thiên Chúa, vì đây là sự tự khải của Thiên Chúa. Justin khám phá ra rằng "không ai có thể thấy được hoặc hiểu biết nếu chính Thiên Chúa và Ðức Kitô của Ngài không cho người đó hiểu (VII,3). Khám phá này đối với Justin là một sự giác ngộ: Từ nay Ngài nhiệt thành gắn bó với đức tin Kitô giáo, là "triết học" chân thật duy nhất. Ngài đặt mục đích cho đời mình là đưa những người đương thời, Do Thái hay dân ngoại, đến chỗ chia sẻ, khám phá và xác tín của Ngài. Ngài thâu tóm khám phá này trong công thức: đức tin Kitô giáo là "triết học duy nhất chắc chắn và bổ ích", tất nhiên công thức này cần được giải thích. Người ta luôn tranh cãi về lập trường của Justin đối với tương quan giữa Kitô giáo và triết học Hy lạp, giữa đức tin và lý trí. Ðôi lúc, người ta coi Ngài là một triết gia chỉ có một chút màu sắc Kitô giáo, và xét cho cùng là con người của thuyết Platon hơn là của Kitô giáo - hoặc ngược lại, người ta xem Ngài như một triết gia đã từ bỏ triết học khi chấp nhận đức tin Kitô giáo, coi đó là "triết học" duy nhất có giá trị đối với Ngài. Tất nhiên, thực tế không hẳn rõ ràng như thế. Là triết gia trở lại, Justin vẫn là triết gia. Ngài vẫn tiếp tục làm một triết gia, nghĩa là, theo tinh thần thời đó, làm thầy dạy sự khôn ngoan, vận áo choàng ngắn, có các môn đệ vây quanh và mở rộng cửa trường. Ngài tạo nên một kiểu mẫu Kitô hữu chưa từng được biết đến, qua việc mở đầu một cách làm tông đồ mới. Ngài định vị mình như một nhà thần học giáo dân, xét là một thành viên trong Giáo Hội và như một triết gia Kitô giáo trong thế giới đương thời. Justin, cuối cùng, đã đến ở hẳn tại Roma. Trong môi trường sôi động của các bậc thầy về triết học và của các nhà thuyết giảng sự khôn ngoan, Justin phải đương đầu với sự thù nghịch của một ông thầy ngoại giáo bên cạnh (x. Hộ Giáo II). Sự thù nghịch này phải chăng phần nào dẫn đến cái chết của Ngài? Khoảng 165, Ngài bị bắt cùng với 6 môn sinh và bị xử tử như một Kitô hữu: Về cuộc tử đạo của Ngài, người ta còn giữ biên bản phiên tòa xử án ngài.
THÁCH ÐỐ CỦA TRIẾT HỌC Tư tưởng của Justin triết gia, tất nhiên vận hành trong bầu khí triết học đương thời, nhất là trong hai truyền thống ngự trị thời đó: Truyền thống Platon và truyền thống Khắc Kỷ. Hai truyền thống này giữ một vị trí lớn trong tư tưởng các Giáo Phụ. Truyền thống Platon phân biệt triệt để giữa thế giới thần linh, thế giới của tinh thần, vĩnh cửu, bất biến và chỉ có thế giới đó mới thực hữu, với thế giới "khả giác", trần tục, vật chất, thế giới của các hiện tượng, và ý nghĩa cao nhất của nó là phản ánh thế giới bên trên; thế giới của thân xác, và tinh thần có tham dự vào thân xác cũng chỉ vì bị sa xuống vật chất: thân xác là "mồ chôn", là "tù ngục" của linh hồn; linh hồn được mời gọi thoát ra khỏi thân xác để kết hợp với thần linh, tìm lại bản tính đích thực của mình. Ðể giải thích sự hiện hữu của hạ giới, truyền thống Platon nại tới các trung gian vũ trụ (intermédiaires cosmiques) ("Hóa công" của Platon, "Thiên Chúa đệ II" của Numénius, Trí năng và Linh Hồn thế giới của Plotin.). Dưới mắt các trí giả Kitô giáo, chủ thuyết Platon được ưa chuộng bởi ý tưởng cao siêu về thần linh, hoặc về "Thiên Chúa" như các triết gia thế kỷ II thích nói đến, bởi các khát vọng duy linh và ngay cả thần bí của nó, bởi lý tưởng tôn giáo hết sức thuần khiết. Ngược lại, nhãn quan về thế giới và về con người, việc đánh giá thấp vật chất và thân xác của chủ thuyết Platon lại là những nét, trong số những nét khác, mâu thuẫn với các dữ kiện Thánh Kinh. Vì thế một vấn đề thường xuyên đặt ra nơi các Giáo Phụ là cân nhắc mức độ thiện cảm hay xa tránh một triết thuyết vừa có những mặt lôi cuốn, vừa có những khía cạnh hàm hồ như thế.
Khi phái Khắc Kỷ đưa ra một thế giới quan một cách nào đó hoàn toàn đối ngược lại, theo nghĩa đây là một nhãn quan hết sức thống nhất. Ở nguyên lý cũng như ở trong tâm vạn vật, có khí thần (pneuma divin), cũng là Lý Tính (Logos) thần linh, khơi động, thấm nhập linh hoạt mọi vật thể cả thiêng liêng (vì theo phái Khắc Kỷ, cả tinh thần, linh hồn đều có một nền thể, dù là một cái nền rất tế vi) lẫn vật chất. Sự thống nhất của vũ trụ tương tự như một vật thể vĩ đại, được Khí Thần làm cho chuyển động, sự thống nhất đó cũng gặp thấy nơi con người, "công dân của vũ trụ", tham dự vào vũ trụ bằng linh hồn cá thể của mình - linh hồn thì tương tự và bằng nhau nơi mỗi cá vị - và bằng thể xác của mình. Vì có nguyên lý là lý tính thần linh nên sự phát triển của vũ trụ chỉ có thể là một sự phát triển hợp lý, tốt đẹp (quan niệm lạc quan của phái Khắc Kỷ trước sự dữ), bất biến (các chu kỳ vũ trụ đồng nhất trở đi trở lại vô hạn định). Tuy nhiên, do sự thiếu nhất quán phản ánh các nguồn gốc khác nhau của triết thuyết này, phái Khắc kỷ lại đề cao không kém niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng như vai trò của ý chí và tự do con người. Lý tưởng đạo đức của con người là làm cho ý chí của mình phù hợp với lý trí hoặc với thiên nhiên; chính nhờ khai triển suy tư về khía cạnh này mà các người khắc kỷ đã trở thành những nhà luân lý lớn cổ thời. Về khía cạnh này, các nhà tư tưởng Kitô giáo cũng tìm thấy những âm hưởng rất tích cực: trong quan niệm về sự "tốt đẹp" tự căn bản của tạo dựng, trong quan niệm nhất nguyên về con người, về sự duy nhất và bình đẳng của nhân loại. Tất nhiên, các ngài không thể chấp nhận quan điểm phiếm thần (Thiên Chúa bị đồng hóa với linh hồn vũ trụ) và tất định của triết học Khắc kỷ, cũng không theo quan niệm quá duy lý của phái này.
"Logos", phải là thước đo vạn vật, đó là xác tín mà các nhà triết học, khoa học thời đó không ngừng lập đi lập lại. Chính từ đó đã nẩy sinh một trong những bác bẻ nền tảng nhất mà các nhà trí thức thường xuyên đặt ra đối với thái độ "tin" mà Do Thái Giáo và Kitô giáo đòi hỏi: Theo họ, đức tin là cái đi ngược với lý lẽ, là sự phủ nhận lý trí. Chúng ta thấy bác bẻ này đã được đưa ra vào thế kỷ II, dưới ngòi bút của một triết gia chiết trung như Celse, và do cả những bậc thầy của phái Khắc Kỷ như Épithète, Marc-Aurèle, hay do một y sĩ như Galien, tất cả đều cho rằng chỉ duy có "lý lẽ" và sự "chứng minh" mới là những tiêu chuẩn của chân lý. Chắc chắn rằng, lời bác bẻ đó thường phát xuất từ một tinh thần thực sự là duy lý, tiên thiên gạt bỏ tất cả những gì không thể chứng minh được theo lý trí. Thế nhưng, trong mức độ đòi hỏi những quyền chính đáng của lý trí, nó hiển nhiên đặt ra một vấn đề mà người Kitô hữu không thể tránh né. Quyền chính đáng của lý trí, đó là điều mà các nhà trí thức Kitô giáo như Justin vẫn thao thức. Họ thuộc về một thế giới đang đặt ra những đòi hỏi mới của lý tính so với bối cảnh sơ khai, và họ cảm thấy việc nhìn thẳng vào những đòi hỏi này là một nhu cầu sinh tử đối với đức tin. Về điểm này, có lẽ không một Giáo phụ nào đã có những lời lẽ mạnh như Clément d'Alexandrie ở đầu thế kỷ thứ III: "Nhiều Kitô hữu sợ triết học Hylạp như trẻ con sợ ngáo ộp, sợ bị triết học này chinh phục. Nếu đức tin của chúng ta là như thế. nếu nó sụp đổ trước sự thuyết phục của lý luận, thì hãy để cho nó sụp đổ, bởi lẽ qua đó chúng ta chứng tỏ rằng chúng ta đã không có chân lý" (Stromate VI, 10.80.5). Nói khác đi, nếu đức tin không muốn phủ nhận chính mình, thì phải chấp nhận nhìn thẳng và trả lẽ về mình cho thế giới trong đó mình sống. Ðây cũng chính là xác tín của Justin, nhà trí thức Kitô giáo đầu tiên có một lập trường triệt để trước triết học Hy Lạp và nỗ lực của lý trí con người.
ÐỨC TIN VÀ TRIẾT HỌC HY LẠP, ÐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ THEO JUSTIN Ở đây, cần nhắc lại rằng, mối liên hệ so sánh, đối chiếu giữa mạc khải Thánh Kinh và tư tưởng Hy Lạp đã khởi sự từ trước Công Nguyên, bên trong Do Thái giáo - Hy hóa, và cách riêng là ở Alexandrie. Chính ở đây, Thánh Kinh Do Thái đã được dịch sang tiếng Hy Lạp (bản "Bảy mươi" LXX) bắt đầu từ thế kỷ III trước Công Nguyên và một nền văn học Do Thái hình thành, mang dấu ấn đặc biệt của sự tiếp xúc với văn hóa và tư tưởng Hy Lạp; ngay cả một cuốn sách thuộc Thánh Kinh như sách Khôn Ngoan cũng chứng tỏ điều đó. Ðại biểu chính của Do Thái Giáo - Hy hóa là Philon thành Alexandrie, nhà chú giải, nhà triết học, thần học, nhà hộ giáo và thần bí, đồng thời với Ðức Kitô. Ông tìm cách đem lại cho nội dung đặc thù của Thánh kinh một ý nghĩa phổ quát bằng phương pháp giải thích theo nghĩa ẩn dụ, mà sau này các Giáo Phụ sẽ theo ông, khai triển một thần học mang tính ngôi vị về Lời của Thiên Chúa, so sánh Lời này với Logos Hy Lạp. Người ta vẫn chưa phát hiện thấy ảnh hưởng trực tiếp của Philon trên các nhà Hộ giáo Kitô giáo thế kỷ II, nhưng hẳn các Ngài không thể không biết và không dựa vào khoa hộ giáo Do Thái trước đây. Bận tâm của các ngài là muốn trình bày khuôn mặt thật của Kitô giáo hầu đánh tan những thành kiến và sự thiếu hiểu biết của dân ngoại, trình bày đức tin sao cho người đương thời đón nhận được, và chứng minh rằng việc tin theo mạc khải Kitô giáo không phải là sự từ bỏ lý trí. Một số vị còn triển khai phê bình đa thần thuyết và các tôn giáo dân ngoại cũng như chỉ trích pháp chế bách hại đạo. Về phần Justin, Ngài làm cho độc giả ngạc nhiên về tinh thần lạc quan và tinh thần rộng mở của Ngài trong việc đối chiếu đức tin với lý trí và với triết học Hy Lạp. Nhiệt tình hộ giáo của Justin dựa trên niềm xác tín rằng đức tin và lý trí không thể mâu thuẫn nhau, vì chân lý là một, chân lý chỉ có một nguồn suối độc nhất nơi Thiên Chúa và nơi Logos, Lời (Verbe) của Người, Lời mà Người đã thông ban cho nhân loại ngay từ ban đầu. Tương tự như Philon, khi ông đặt ở trọng tâm thần học của mình Logos (Lời) của Thánh Kinh như mối liên kết giữa Thiên Chúa và thế giới, và tương tự như Gioan, khi Ngài trình bày Ðức Kitô như là Lời (Logos), Ðấng đã "có từ khởi thủy" và "đã mặc lấy xác phàm", Justin giữ lại từ ngữ này, một từ ngữ mang bao âm hưởng trong tư tưởng Hy Lạp: vừa là lời vừa là lý tính, nhất là một lý tính thần linh thấm nhập và điều khiển thế giới. Justin mang lại cho tư tưởng của Gioan, theo đó Ngôi Lời "soi sáng mọi người", một ngữ điệu triết lý hơn và hoàn toàn phổ quát: suốt dòng lịch sử và ngay cả trước khi Nhập thể, Logos đang và đã luôn hiện diện nơi mọi người, vì do lý trí của mình, mọi người đều tham dự vào Logos thần linh, và đều có khả năng "sống theo Logos". Justin không ngại quả quyết rằng, những ai sống trước Ðức Kitô, Do Thái hay dân ngoại, và đã trung thành với ánh sáng của Logos có nơi họ, thì theo một nghĩa nào đó, họ là những "Kitô hữu", nghĩa là đã mở lòng đón nhận những giá trị tôn giáo và đạo đức, những giá trị tuy xa nhưng đã là một tiếp cận thực sự với Tin Mừng. Chẳng hạn Socrate, người mà Justin hết lòng ca ngợi và nhấn mạnh rằng: ông đã bị coi là "vô thần" và bị bách hại như các Kitô hữu. Người ta thấy đây là khởi điểm của ý tưởng về một sự "chuẩn bị cho Tin Mừng" (kiểu nói này là tựa đề một tác phẩm của Eusèbe de Césarée) trong thế giới ngoại giáo, ý tưởng này được lấy lại và nới rộng thêm trong rất nhiều bản văn của Công Ðồng Vatican II, với những tham chiếu các Giáo Phụ thế kỷ II.
Tuy nhiên, phải nhận rằng, nơi các Giáo Phụ và trước hết nơi thánh Justin, việc tìm kiếm những điểm hội tụ với triết học Hy Lạp đôi khi dẫn đến một chủ trương tương hợp (concordisme) dễ dãi và thực tế là sai lạc. Chẳng hạn khi các ngài quan niệm về Ba Ngôi trong Kitô giáo tương tự như Tam vị tối cao mà truyền thống Platon và sau này thuyết Tân Platon nói tới, hay nơi một số khía cạnh trong thần học của các ngài về Ðức Kitô Logos, Ðức Kitô phần nào bị đồng hóa với một hữu thể nằm giữa Thiên Chúa và thế giới. Tuy nhiên, Justin, triết gia Kitô giáo, cũng đã biết giữ những khoảng cách đối với một số khía cạnh của triết học Hy Lạp. Chẳng hạn, dù đánh giá cao luân lý của phái Khắc Kỷ: chủ trương tất định phổ quát, phiếm thần, không có vận mệnh cá nhân sau khi chết. (Hộ giáo 11, 7). Khi đưa ra những đối lập căn bản như thế, Justin đã khai mào cuộc tranh luận, và đây cũng là một trong những khía cạnh của cuộc gặp gỡ giữa đức tin của các Giáo phụ và tư tưởng cổ thời. Dù sống giữa lòng văn hóa Hy Lạp, các Giáo Phụ vẫn tỏ ra hết sức tự do, đôi khi còn đến chỗ đưa ra một bản tổng kết rất tiêu cực về nền văn hóa đó, như đã xảy ra trong trường hợp của Tatien. Tuy là môn đệ trực tiếp của Justin ở Roma, nhưng Tatien lại đi theo một lối hộ giáo với những nguyên tắc ít cởi mở hơn nhiều. Cuối cùng, Justin hết sức nhấn mạnh đến tính siêu việt của mạc khải Kitô giáo. Ngoài Ðức Kitô, nhân loại chỉ có được những "hạt giống", những "mầm mống" của Logos: những chân lý rời rạc và dò dẫm, mâu thuẫn giữa các triết gia chứng minh điều đó. Chỉ duy Phúc âm mới mạc khải "tất cả Logos", nguồn suối của chân lý toàn vẹn. Cuốn Hộ giáo II, chương 10, phác họa một sự đối lập giữa Socrate và Ðức Giêsu: người ta không hiến mình vì Socrate, bởi vì sự khôn ngoan của ông chỉ là sản phẩm của lý trí con người; nhưng người ta có thể hiến mình vì Ðức Kitô, bởi lẽ chính Ngài là sự hiện diện của Thiên Chúa và của chân lý tuyệt đối, vả lại chân lý này được trao hiến cho hết mọi người chứ không phải cho một thành phần tinh hoa của các triết gia. Là con người của thời đại và đã hấp thụ cho mình nền văn hóa của thời đại, Justin tìm kiếm một sự quân bình giữa đức tin và những gì đã hấp thụ được trên bình diện tri thức mà ông không chối bỏ. Sự đối chiếu mà Ngài khởi sự sẽ tác động sâu xa lên chính Kitô giáo, vì nó vén mở những vấn đề mới, đòi hỏi một nỗ lực lớn lao trong việc đưa ra định thức đức tin, nó còn đòi hỏi một nỗ lực rất lớn trong việc vượt thắng những khía cạnh hàm hồ của mọi nền văn hóa, mọi triết thuyết đứng trước mặc khải. Ðó sẽ là công trình chung của các Giáo Phụ, trong đó Justin đóng vai người khai sáng, với những hạn chế hiển nhiên, nhưng cũng phải kể đến cái nhìn lạc quan của Ngài, một cái nhìn được nhiều người theo sau này.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC