Triết học tôn giáo

Kitô giáo và Do Thái giáo: thánh Ignace d'Antioche

GIÁO PHỤ - Mục lục

 

KITÔ GIÁO VÀ DO THÁI GIÁO

THÁNH IGNACE D'ANTIOCHE

 

J. LIÉBAERT

 


J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986.


 

MỘT GIÁM MỤC TỬ ÐẠO ÐẦU THẾ KỶ II

Là vị Giám Mục thứ hai của Tổng giáo khu Antioche, sau các Tông Ðồ, Ignace đã bị bắt và giải sang Roma để chịu tử hình; việc này xảy ra dưới triều hoàng đế Trajan. Trên đường giải đi, Ngài đã viết thư cho các Giáo Hội tỏ tình huynh đệ với Ngài khi ngài ghé qua, cho một số giám mục như Polycarpe thành Smyrne, và cho Giáo Hội Roma nơi ngài đang đi đến.

Người ta còn lưu giữ được một bộ 7 lá thư được coi là của Ignace. Về Polycarpe, chúng ta còn một lá thư của ngài gửi người Philippe. Những lá thư này, dù đôi khi còn bị tranh cãi về tính chính thực của chúng, chắc chắn đã được viết trong khoảng tiền bán thế kỷ thứ II, dựa theo những bận tâm căn bản chứa đựng trong đó.

Các thư của Ignace không phải là những khảo luận thần học, nhưng là chứng từ của một người đang đi đến cái chết và chỉ còn quan tâm đến những gì ngài cho là chính yếu. Qua các lá thư đó, chúng ta thấy được tâm trạng của một vị tử đạo, những xác tín của một tín hữu và một số bận tâm lớn của mục tử. Ðó là những bản văn đơn sơ, thường viết theo những ám chỉ sống động và rất cô đọng.

Các thư của Ignace có những nét giống với Phúc Âm thứ bốn, và với thư thứ nhất của Gioan. Người ta cũng đã chứng minh rằng các thư đó chịu ảnh hưởng các thư Phaolô, nhất là I Corinthô, thư Êphêsô, và các thư Mục Vụ. Cũng như nơi Phaolô tử đạo được trình bày như là sự bắt chước cuộc khổ nạn của Ðức Kitô, tất cả đời sống Kitô hữu đều qui hướng về việc kết hiệp với Ðức Kitô.

Tuy nhiên xét về ngôn ngữ thì đã có sự khác biệt với các tác phẩm Tân Ước. Chẳng hạn, Ðức Kitô được gọi rất tự nhiên là Thiên Chúa ("Hãy để tôi bắt chước cuộc khổ nạn của Thiên Chúa tôi": Thư gửi người Rôma 6,3). Kiểu nói "Con người" không còn hàm nghĩa đặc biệt mà chỉ có nghĩa là Ðức Kitô, thuộc về dòng giống con người do việc ngài sinh ra. Cặp "Xác thịt - Thần Khí" có một chiều kích độc đáo sẽ được nhấn mạnh dưới đây. Nhất là, người ta nhận thấy có những dấu nhấn đặc biệt trong các bận tâm của Ignace.

 

TRÊN ÐƯỜNG TỬ ÐẠO

Ignace d'Antioche, dưới ngòi bút của Eusèbe de Césarée (thế kỷ thứ IV) sử gia đầu tiên của Giáo Hội.

 

Bấy giờ (dưới thời Trajan) Polycarpe, một người bạn của các Tông Ðồ, đã nổi danh ở Asie (Á đông), được đặt làm Giám Mục Giáo Hội Smyrne bởi các chứng nhân và tôi tớ của Chúa. Ðồng thời với ngài, người ta còn biết đến Papias, cũng là Giám Mục Giáo Hội ở Hierapolis và Ignace, mà ngày nay còn được nhiều người tán tụng, lãnh chức Giám Mục thứ hai, kế tục Phêrô ở Antioche. Người ta kể rằng, ngài bị giải từ Syrie đến thành của người Roma nên mồi ăn cho thú dữ hầu làm chứng cho Ðức Kitô. Và trong hành trình xuyên qua Ðông Phương, dưới sự chặt chẽ của lính gác, ngài đã củng cố các cộng đoàn nơi mọi thành phố đi qua, bằng những lời trao đổi và khích lệ. Trước hết, ngài cảnh giác họ trước những lạc giáo lúc bấy giờ bắt đầu nổi lên khắp nơi: Ngài khuyên họ hãy nắm giữ chắc chắn truyền thống các Tông Ðồ, và để bảo đảm, ngài cho rằng cần phải cố định truyền thống đó thành văn, và như thế đã là một việc làm chứng.

Vậy, khi ở Smyrne, nơi có Polycarpe, ngài đã viết một lá thư cho Giáo Hội ở Ephêsô. một lá thư cho Giáo Hội Magnésie ở Méandre. một bức khác cho Giáo Hội Tralles. Ngoài các thư này, ngài còn viết cho Giáo Hội Roma. và khi đã rời xa Smyrne, kể từ Troas, ngài lại viết thư trao đổi với tín hữu Philadelphia, Giáo Hội Smyrne và thư riêng cho vị lãnh đạo giáo đoàn là Polycarpe, người mà ngài nhận thấy thực sự là một Tông Ðồ đúng nghĩa, và đã ủy thác đoàn chiên ở Antioche cho Polycarpe, yêu cầu ông, với tư cách là một mục tử tốt và đích thực, hãy mau chăm sóc, lo lắng cho đoàn chiên đừng chậm trễ.

Ðó là những gì liên quan đến Ignecie sau ngài, Heros kế tục chức Giám Mục ở Antioche.

(Lịch sử Giáo Hội)

Histoire Ecclesiastique, III.36

 

CHỨNG TỪ CỦA MỘT VỊ TỬ ÐẠO

Ignace, thư gửi tín hữu Roma 4, 6-7

"Tôi là hạt lúa miến của Thiên Chúa và được nghiền nát bởi răng thú dữ, để rồi nên tấm bánh tinh tuyền của Ðức Kitô. Ðối với tôi, chết để được xum họp với Ðức Kitô thì phúc hơn là được thống trị trên mút cùng cõi đất. Chính Ngài là Ðấng tôi tìm kiếm, Ðấng đã chết vì chúng tôi; chính Ngài là Ðấng tôi ước mong, Ðấng đã phục sinh vì chúng ta. Giờ tôi sinh ra đang đến gần. Hãy để tôi được bắt chước cuộc khổ nạn của Thiên Chúa tôi. khát vọng trần thế của tôi đã bị đóng đinh thập giá, lòng tôi đã tắt lửa yêu thích vật chất, mà chỉ còn thứ nước tươi trong, đang thì thầm trong tôi, và nói với tôi: Hãy đến với Cha."

 

 

NHỮNG BẬN TÂM VÀ XÁC TÍN CỦA MỘT MỤC TỬ

Ba mối bận tâm của Ignace:

a) Sự hiệp nhất Kitô hữu:

Ðây là chủ đề nổi bật trong các bức thư, được ngài nhấn mạnh bằng những từ "một", "độc nhất". "kết hợp". Theo Ignace Giáo Hội là sự kết hợp, hiệp nhất, đồng tâm, một Agapé (Ðức Ái). Ðó là điều Thiên Chúa và Ðức Kitô muốn, và tất cả đều đặt nền tảng trên Thiên Chúa và Ðức Kitô. Giáo Hội là "công giáo", nghĩa là phổ quát, do sự hiệp thông giữa các Giáo Hội với nhau, một sự kết hợp vừa thần bí vừa luân lý, được ban trong Ðức Kitô và trong Thần Khí, đồng thời là đối tượng của một nỗ lực không ngừng.

Giáo Hội vừa thiêng liêng, vừa hữu hình. Ly giáo, "lạc giáo" là tội lớn, là đại họa.

Mối ám ảnh về hiệp nhất này, có thể nói như thế, hẳn nhiên cho thấy đã có những vấn đề nghiêm trọng xảy ra ở Syrie và Tiểu Á. Các thư của Ignace cho thấy hiệp nhất là vấn đề đặt ra trong Giáo Hội từ bao giờ, và về điểm này, không nên lý tưởng hóa Giáo Hội tiên khởi.

Vậy đó là những vấn đề nào? Ngoài những vấn đề địa phương, có hai mối bận tâm mà Ignace đã nói đến với tất cả niềm say mê. Tha thiết, và dường như ngài nối kết hai điều đó với nhau: một cách nhìn Ðức Kitô và một quan niệm về các tương quan giữa Kitô Giáo và Do Thái Giáo.

b) Tầm quan trọng của Nhập thể:

 Ðối với Ignace, Ðức Kitô tiên vàn là Ðấng mà ngài sống với, và là Ðấng Ngài đi xuyên qua cái chết. Các bức thư không khai triển một Kitô học trừu tượng, nhưng là một xác tín: Không có Kitô Giáo nếu không có Ðức Kitô, Tôn sư duy nhất của ta, Ðấng Cứu Thế duy nhất của ta, sự sống của ta, khuôn mẫu của ta, niềm hi vọng, niềm vui của ta. "Làm sao chúng ta có thể sống mà không có Ngài?" (Thư gửi người Magnésie 9,3). Ignace đặt ra các từ: Kitô hữu là những "Christophores" (Người mang Ðức Kitô), giáo lý của họ là "Christomathie" (giáo huấn của Ðức Kitô) cuộc đời họ là "Christianisme" (Kitô giáo) (không nhất thiết là Ignace đã tạo ra từ này, nhưng nó xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm của ngài). Niềm tin, niềm hi vọng, đời sống Kitô hữu, tất cả đều dựa trên màu nhiệm Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Thiên Chúa làm người, đã chết và đã sống lại.

Ðó là những gì Ignace tha thiết lập đi lập lại cho các Kitô hữu đặt vấn đề về thực tại cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Kitô theo một não trạng chịu ảnh hưởng của Do Thái Giáo, xem đó là những gì bất xứng với Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta đụng đến một trong những lệch lạc cổ xưa nhất về Ðức tin và về linh đạo Kitô giáo: khuynh hướng giảm nhẹ thực tại, Nhập thể, xác phàm của Ðức Kitô, những đau khổ và cái chết của Ngài, tin rằng có như thế thần tính của Ngài mới được bảo toàn hơn. Thư I Gioan và tự ngôn của Phúc Âm IV (Lời đã thành xác phàm) đã từng công khai phản ứng chống lại cám dỗ này. Khuynh hướng giản lược mầu nhiệm Nhập thể tiếp tục phát triển trong thế kỷ II, dưới những hình thức bình dân hơn (trong một số Phúc Âm ngụy thư chẳng hạn) hoặc hệ thống hơn (như trong phái Ngộ đạo), và đến độ, Nhập Thể chì còn là một thứ "giả vờ": Chính vì vậy người ta gọi khuynh hướng này là ảo thân thuyết (docétisme, do động từ Hy Lạp dokein: dường như, tựa như). Nhập thể chỉ còn là sự xuất hiện của Thiên Chúa dưới hình dáng con người.

Ðể chống lại quan niệm như thế, các Thư đã đưa ra một quan niệm rất xác thực về Nhập thể, xác nhận tầm quan trọng của cả thần tính lẫn nhân tính Ðức Kitô, của tính siêu việt lẫn tính lịch sử của Ngài, như là nền tảng của tất cả mầu nhiệm Kitô Giáo, bằng những công thức báo trước các công thức của những bản tuyên tín sau này.

Vì Ðức Kitô là "thần khí và xác phàm" không thể phân ly, mọi sự trong Kitô giáo cùng mang hai khía cạnh "thần thiêng và xác thịt" thần linh và nhân linh, vô hình và hữu hình. Ignace đã sử dụng cặp từ ngữ "thần khí-xác thịt" theo một nghĩa đặc biệt và rất chính thực là Kitô giáo: Giáo Hội vừa là "thần thiêng" vừa là "xác thịt", agapé cũng thế. Vừa là hoạt động mục vụ của Giám Mục, vừa là sự kết hợp của ta với Ðức Kitô. Ignace là một trong những chứng nhân đầu tiên về sự trung thành của Giáo Hội cổ thời đối với mầu nhiệm Ðức Kitô trong toàn thể cũng như trong nghịch lý của nó, sự trung thành mà Giáo Hội sẽ tiếp tuc chứng tỏ, trong suốt những cuộc tranh luận về Ba Ngôi, về Kitô học của những thế kỷ đầu, dù không phải là không có những vấn đề, những khủng hoảng. Không có thời nào cho chúng ta thấy mầu nhiệm Ðức Kitô thực sự là trọng tâm của Kitô Giáo bằng thời các Giáo Phụ.

 

BỔN PHẬN HIỆP NHẤT

Sự hiệp nhất các Kitô hữu: Ignace d'Antioche, thư gửi tín hữu Ephêse.

"Anh em, mỗi người và từng người, hãy làm nên một ban hợp xướng, để trong sự hòa điệu các thanh âm của anh em, khi bắt theo cung giọng của Thiên Chúa trong hiệp nhất, nhờ Ðức Giêsu Kitô, anh em cất lên, bằng cùng một tiếng hát, một thánh thi dâng lên Chúa, ngõ hầu Người lắng nghe anh em và nhìn nhận anh em, nhờ những việc lành anh em làm, như là chi thể Con của Người. Vì thế, thật ích lợi cho anh em, nếu anh em ở trong sự hiệp nhất vô phương trách cứ, hầu mãi mãi được thông dự vào Thiên Chúa.

Thư gửi tín hữu Magnésie 1.6-7

"Ignace, cũng là Théophore (kẻ mang Thiên Chúa) gửi Giáo Hội được chúc lành trong ân sủng Thiên Chúa Cha trong Ðức Giêsu Kitô Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, trong Ngài tôi xin chào Giáo Hội Magnésie ở Méandre, và cầu chúc cho Giáo Hội đó tất cả niềm vui trong Thiên Chúa Cha và trong Ðức Giêsu Kitô.

Khi biết đức ái của anh em, theo như Thiên Chúa muốn, hòa hợp với nhau cách hoàn hảo, tôi thật vui mừng và tôi quyết định gửi lời đến anh em trong niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô. Ðược vinh hạnh về một danh hiệu xứng với Thiên Chúa, và trong những (xiềng xích) mà tôi mang đi khắp nơi, tôi ca ngợi các Giáo Hội; tôi cầu chúc cho các Giáo Hội đó được sự kết hợp giữa xác thịt và thần khí của Ðức Giêsu Kitô, sự sống muôn đời của chúng ta, sự kết hợp giữa đức tin và đức ái, là điều không gì đáng mong ước hơn và điều còn quan trọng hơn nữa: sự kết hợp giữa Ðức Giêsu và Chúa Cha, trong Ngài chúng ta sẽ chống đỡ được mọi đe dọa của đầu mục thế gian này: chúng ta sẽ thoát khỏi và sẽ đạt tới Thiên Chúa.

Nơi các ngôi vị mà tôi nêu trên, tôi đã nhìn thấy tất cả cộng đoàn của anh em trong đức tin và tôi đã yêu thương cộng đoàn đó: tôi van nài anh em, mọi sự anh em làm, hãy cố gắng làm trong sự hòa hợp của Thiên Chúa.

Chớ gì giữa anh em, không một điều gì có thể phân rẽ anh em. cũng không có Cha, vì Ngài hằng hiệp nhất với Cha, cũng vậy cả anh em nữa anh em đừng là bất cứ điều gì mà lại không có Giám Mục và các trưởng lão (prebytres): Ðiều gì anh em làm theo riêng mình thì đừng cố coi đó là hợp lý, mà phải là những gì anh em làm chung với nhau: một kinh nghiệm duy nhất, một lời khẩn cầu duy nhất, một thần khí duy nhất, một niềm hi vọng duy nhất trong đức ái, trong niềm vui vô phương trách cứ: Ðó chính là Giêsu Kitô, Ðấng đáng yêu mến hơn tất cả. Tất cả anh em hãy nhanh chân chạy như thể về một Ðền thờ duy nhất của Thiên Chúa, như thể quanh một bàn thờ duy nhất, về Ðức Giêsu Kitô duy nhất, Ðấng đã xuất tự Cha duy nhất, Ðấng đã ở trong duy nhất (l'Unique) và đã trở về với Người.

Sources Chrétiennes, No. 10bis p.61.81-87

 

ÐỨC GIÊSU KITÔ, CON THIÊN CHÚA, THỰC SỰ ÐÃ LÀM NGƯỜI

Thư gửi Giáo Hội ở Tralles 9-10:

"Anh em đừng nghe gì khi người ta nói với anh em ngoài Ðức Giêsu Kitô, thuộc dòng dõi Ðavid, sinh bởi Ðức Maria, đã thực sự được sinh ra, đã ăn và đã uống, đã thực sự chịu khổ hình dưới thời Ponce Pilate, đã thực sự bị đóng đinh và đã chết trước mắt mọi loài trên trời, dưới đất; trong âm phủ, Ngài cũng đã sống lại từ trong kẻ chết. Chúa Cha, Ðấng đã cho Người sống lại, thì cũng chính Người sẽ cho chúng ta sống lại trong Ðức Giêsu Kitô, giống như Ngài, chúng ta, những kẻ tin vào Ngài và ngoài Ngài ra chúng ta không có sự sống đích thực. 

Bởi chưng, nếu như một số người vô thần, nghĩa là những kẻ vô tín nói, Người chỉ đau khổ bề ngoài- chính họ nữa cũng chỉ hiện hữu bề ngoài- thì tôi, tại sao tôi lại bị xiềng xích? Tại sao tôi lại mong chiến đấu chống lại thú dữ? Vậy tôi chết cách luống công vô ích sao? Và như thế tôi nói dối chống lại Chúa sao!"

Thư gửi Giáo Hội ở Smyrne 1,3

"Tôi chúc tụng Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, Ðấng đã làm cho anh em nên khôn ngoan đến thế. Quả tôi nhận thấy rằng anh em đã thành toàn trong một đức tin không lay chuyển, như thể xác thịt và thần trí anh em đã được đóng đinh vào Thập giá của Chúa Giêsu Kitô, được thiết lập vững chãi trong đức ái nhờ máu Ðức Kitô, được xác tín vững vàng về Chúa chúng ta, Ðấng thực sự thuộc dòng dõi Ðavit theo xác thịt, là Con Thiên Chúa theo thánh ý và quyền năng của Thiên Chúa, đã sinh ra thực sự từ một Trinh Nữ, đã chịu phép rửa bởi Gioan ngõ hầu, nhờ Người, tất cả công lý được hoàn tất, đã thực sự bị đóng đinh trong thân xác của Người vì chúng ta, dưới thời Ponce Pilate và quận vương Hérodé. Chính nhờ hoa trái và cuộc khổ nạn vinh phúc thần linh của Người mà chúng ta sống- hầu giương cao ngọn cờ của Người qua muôn đời muôn thuở, nhờ cuộc phục sinh của Người, cho các thánh, các tín hữu đến hoặc từ dân Do Thái hoặc từ các dân nước, trong thân mình duy nhất của Hội Thánh Người.

Phần tôi, tôi biết và tôi tin rằng cả sau khi phục sinh, Người đã ở trong thể xác. Và khi Người đến với những kẻ tụ họp chung quanh Phêrô, Người đã nói với họ: Hãy cầm lấy, hãy sờ chạm đến Ta, và anh em thấy rằng Ta không phải là một tinh thần không thân xác. Và ngay lúc ấy, họ sờ chạm đến Người và họ đã tin, kết hợp mật thiết với thể xác và tinh thần của Người. Chính vì thế mà họ đã khinh thường cả cái chết và thấy mình vượt trên sự chết. Và sau khi phục sinh, Người đã ăn uống với họ như một người bằng xương bằng thịt, mặc dầu Người vẫn kết hợp với Cha theo thần khí.

Sources Chrétiennes, no.10, bis p. 101-103; 133-135

 

c) Kitô giáo và Do thái giáo:

Một ý tưởng chủ lực khác của Ignace đó là sự mới mẻ của "Kitô Giáo", tính độc đáo và sự độc lập của nó đối với "Do Thái Giáo" (từ ngữ sau cùng này đã từng được sử dụng trước công nguyên).

Do Thái giáo là chiếc nôi ban đầu của Kitô giáo, vậy những mối liên hệ của Kitô giáo với Do Thái Giáo có cần phải giữ lại hay không, đó là vấn đề gây ra cuộc tranh luận lớn đầu tiên trong Giáo Hội, và như Công Vụ Tông Ðồ và các thư Phaolô cho thấy, và dẫn đến việc lần đầu tiên Giáo hội phải thực hiện một lực chọn mang tính cách quyết định. Ignace phản đối mạnh mẽ các Kitô hữu nghiêng theo Do Thái giáo, ngài đặc biệt tố cáo họ về việc xóa đi thực tại của Nhập thể, của cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô, và rộng hơn nữa, họ đã đặt Kitô giáo lệ thuộc Do Thái giáo, những lời phản đối đó cho thấy tính hiện đại của cuộc tranh luận vào thế kỷ II, cũng như những hệ quả của nó. Những văn thư như thế chắc hẳn được soạn thảo không bao lâu sau thời các Tông Ðồ. Tuy nhiên, người ta thấy các văn bản đó rất ít nhắc tới việc phải giữ theo luật (cắt bì, hưu lễ, những cấm kỵ về ăn uống.), là những điều thường được nói đến trong Phaolô và sách Công Vụ. Cái nhìn của Ignace bao quát hơn, nhắm đến nguy cơ về một sự chi phối dai dẳng của Do Thái Giáo, đe dọa chân tính của Kitô giáo và có thể đưa tời chỗ làm biến tính đức tin.

Ban đầu, ảnh hưởng của bối cảnh Do Thái Giáo là điều tự nhiên, nhưng theo mức độ phát triển của Kitô Giáo trên khắp vùng Ðịa Trung Hải thì dần dần nó phải trở thành vấn đề phải giải quyết. Các thư của Ignace hé cho thấy trong Giáo Hội sơ khai có một thực tại lịch sử mà người ta thường gọi là "Do Thái-Kitô giáo" (Judéo-Christianisme) và là một hiện tượng cực kỳ phức tạp, ảnh hưởng của Do Thái giáo trên một số môi trường Kitô giáo, cũng như những tính chất tích cực hay tiêu cực, thoáng qua hay kéo dài của nó có thể mang rất nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ thay đổi khác nhau. Một đàng "Do Thái-Kitô giáo" là một giai đoạn cần thiết của tiến trình phát triển Kitô giáo và tất cả thần học Kitô giáo đều có gốc rễ Do Thái, đàng khác di sản "Do Thái" hay "Sêmit" không thể cứ mãi là hình thái độc nhất của Kitô giáo được, và vì thế tiến trình giải phóng là điều không thể tránh khỏi. Những gì xảy ra ở thế kỷ I và II phát xuất từ đó.

Trong sự phát triển nhiều thứ thần học ở thời kỳ này, người ta nêu ra những nét được gọi là có tính chất "Do Thái-Kitô giáo". Chẳng hạn, người ta thấy có một sự quan tâm mạnh mẽ, tiếp nối các truyền thống khải huyền Do Thái, đối với tất cả những gì liên hệ tới thời tận cùng, và thế giới bên kia: trời, các thiên thần, âm phủ (Sách Khải Huyền của Phêrô); hay tàn tích của một quan niệm Cứu Thế trần tục dưới hình thức "chủ thuyết thiên niên" (millénarisme, tin vào một vương quốc trần gian của Ðức Kitô, kéo dài 1000 năm trước tận thế). Cũng vậy, Ðức Kitô được bàn đến theo một cách thức riêng, khởi đi từ một chủ đề thần học tìm thấy trong Do Thái giáo (Thần học về Ðức Kitô như là Tiên tri, Lề luật, Danh hiệu thần linh, Thiên sứ- các thần học này không nhất thiết là phi chính thống), hoặc từ những bận tâm từ Do Thái giáo: Bảo vệ sự cao cả của Thiên Chúa trong Nhập Thể, và điều này có thể dẫn tới chỗ, một cách nào đó xóa bỏ Nhập thể, như Ignace từng tố cáo hoặc lo lắng cho phần rỗi những người công chính chết trước Ðức Kitô, giáo lý về việc Ðức Kitô xuống "âm phủ", tức là nơi an nghỉ của kẻ chết (Thi khúc Salomon) chính là để trả lời cho vấn đề này. Còn một nét nữa: Thái độ thù nghịch dữ dội đối với đạo Do Thái và một cuộc bút chiến bài Do Thái mạnh mẽ, càng cảm thấy và muốn được liên kết bằng cả một di sản chung (Thư Barnabe) thì lại càng muốn mình tách biệt ra. Nhưng đôi khi sự thù nghịch lại chĩa vào Thánh Phaolô, người bị coi là chống lại Lề luật.

Các cộng đồng Kitô hữu gốc Do Thái địa phương quá cục bộ (particularistis) đã sống bên lề suốt thế kỷ II và các thế kỷ kế tiếp, để rồi cuối cùng biến mất. Văn chương mang màu sắc Do Thái-Kitô giáo còn tồn tại: Ngoài những tác phẩm đã kể, đăc biệt còn có các ngụy thư Kitô Giáo về Cựu và Tân Ước: Ðáng kể là các phúc âm thư, các sách khải huyền. Truyền thống lớn của Giáo Hội cũng đã tiếp nhận một di sản nào đó: Chẳng hạn chủ đề Ðức Kitô xuống âm phủ xuất hiện lại trong Kinh Tin kính các Tông đồ hay việc cử hành lễ Vượt qua hàng năm trong Phụng vụ.

Các thư Ignace, tuy không thoát khỏi ảnh hưởng "DoThái-Kitô Giáo", vẫn làm chứng về một cuộc tranh luận cơ bản giữa Kitô giáo và truyền thống Do Thái giáo; chúng nêu vấn đề trong những hạn từ rộng nhất: "Do Thái giáo" và "Kitô giáo", hai cách thức tin và sống.

Ðối với Ignace, vấn đề đặt ra cho cuộc tranh luận trước tiên là nét mới mẻ, nét độc đáo của Kitô giáo, là chân tính của nó so với Do Thái giáo. Kitô giáo không phải là một con đường của Do Thái giáo, nhưng là đường mà Do Thái giáo phải dẫn vào, Do Thái giáo phải "tin vào Kitô giáo".

Ðiều mà Ignace, sau thánh Phaolô và Gioan đã nhận thức được cách nhậy bén lạ thường đó là: Với Ðức Kitô, có một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ đã xuất hiện trong kinh nguyện tôn giáo của nhân loại. Ðức Kitô là nơi gặp gỡ với Thiên Chúa và là chính mạc khải của Thiên Chúa ("Tri thức về Thiên Chúa là Ðức Giêsu Kitô". Magnésie 9). Tiêu chuẩn của việc thuộc về Giáo Hội, đó là niềm tin vào Ðức Kitô đã chết và đã sống lại. Không còn phải là Israel qui tụ muôn người nữa mà là Ðức Kitô. Cả Lề luật cũng không còn là qui tắc giải thích Phúc Âm, nhưng là Ðức Kitô, Ðấng trở nên qui tắc giải thích lề luật: "Sách(Cựu Ước) của tôi chính là Ðức Giêsu Kitô" (Philadelphie 8).

Như thế, đối với Ignace, điều quan trọng hàng đầu trong Kitô giáo chính là việc loan báo mầu nhiệm Ðức Kitô, mầu nhiệm mang tính lịch sử và là biến cố và lòng tin vào mầu nhiệm này. Ðời sống người Kitô hữu phải đi từ đó: Ðời sống noi theo Ðức Kitô, đời sống trong Ðức Kitô và qua đó, sống trước nhan Thiên Chúa. Trong khi đó việc nhấn mạnh đến Lề Luật đã khiến Do Thái giáo trở thành một tôn giáo chủ yếu mang tính chất luân lý, một đường lối sống thực tiễn trước nhan Thiên Chúa còn huyền nhiệm thì rút lại thành một lời tuyên tín thật đơn giản. Về điểm này, "các Thi Khúc của Salomon" còn giữ được viễn tượng mà Ignace đã mạnh mẽ kêu lên. Ngược lại tác phẩm "Pasteur d'Hermes" rõ ràng là thiên hẳn về bệnh tâm luân lý còn mầu nhiệm thì mờ nhạt đến lạ lùng, nhường chỗ cho giảng thuyết về hoán cải và những bài học luân lý thực tiễn. Mặc dù luân lý của "Pasteur" được nội tâm hóa hết sức đi nữa, người ta vẫn thấy nó khó có thể vượt qua một thái độ duy luân lý nào đó hoặc vượt qua cám dỗ trở về với thái độ này: Một cám dỗ vốn rình rập Kitô hữu bất cứ thời nào theo Ignace, Kitô giáo không còn là mình nữa nếu nó lui về với lề luật thay vì là Lời loan báo và là kinh nghiệm về ân sủng (ở đây Ngài lấy lại ngôn ngữ của Phaolô và Gioan).

 

MỘT THÁNH THI DO THÁI-KITÔ GIÁO

Thi khúc 42 của Salomon (tiền bán thế kỷ II). "Ðức Kitô xuống âm phủ và sự Phục sinh"

 

(Ðức Kitô): Ta chẳng lợi lộc gì với những kẻ không nhận biết Ta
Ta ẩn khuất khỏi những kẻ không chiếm hữu Ta
Những người yêu mến Ta, Ta ở bên cạnh
Những kẻ bách hại Ta, chúng chết cả
Những người biết Ta hằng sống, họ tìm kiếm Ta
Ta đã phục sinh, Ta đang ở với họ và Ta nói bằng miệng lưỡi họ
Họ xa những tên bách hại và trên họ, Ta đặt ách yêu thương
Như cánh tay hôn phu trên vai người hôn thê
Ách Ta trên vai những kẻ nhận biết Ta cũng thế
Như lều đính ước nơi nhà vị hôn phu
Tình yêu Ta che chở người tin vào Ta
Ta như bị ruồng bỏ, nhưng không phải thế
Ta đã không chết, dù chúng tưởng như vậy
Âm phủ nhìn thấy Ta và đã cúi đầu khuất phục
Tử thần để Ta ra đi cùng với bao người
Với Thần chết Ta là dấm chua mật đắng
Cùng với nó, Ta đi xuống tận cùng hố thẳm
Trước nhan Ta, Tử thần phải cúi đầu rã rượi
Rồi những kẻ chết dưới tay Tử thần, Ta tập họp người sống
Ta nói với họ bằng môi miện đầy sinh khí, đến nỗi lời ta không vô ích hoài công
Họ chạy đến với ta, những kẻ đã chết
Họ kêu lên và nói: Xin thương xót chúng tôi, Lạy Con Thiên Chúa
Xin làm cho chúng tôi theo như ân sủng Ngài, cho chúng tôi thoát khỏi thừng chão tăm tối
Xin hãy mở cửa để chúng tôi đến vơi Ngài
Chúng tôi thấy sự chết đã không tiến gần Ngài
Xin cho chúng tôi cùng được giải thoát với Ngài, vì Ngài là Cứu Chúa của chúng tôi
Phần Ta, Ta đã nghe tiếng họ, lòng tin của họ, Ta đem vào Trái Tim Ta
Trên trán họ Ta viết Danh Ta: chúng được tự do và thuộc về Ta
Alleluia.

A. Hamman - Les Odes de Salomon Paris, Desclée de Prouwer p.67-68

 

KINH NGUYỆN TẠ ƠN CỔ XƯA NHẤT

Giáo huấn các Tông Ðồ. Kinh Nguyện Tạ Ơn Kitô Giáo đọc trong bữa ăn cộng đồng gợi hứng từ phụng vụ Do Thái về các bữa ăn.

 

"Khi cử hành nghi lễ Tạ Ơn (Eucharistie: Tạ Ơn) hãy cảm tạ thế này:

Trước hết hãy dâng lời cảm tạ trên chén:

- Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha, vì vườn nho thánh thiện của Ðavit tôi tớ Cha mà Cha đã cho chúng con biết nhờ Ðức Giêsu Tôi Tớ Cha.

- Chúc tụng Cha đến muôn đời.

Sau đó hãy dâng lời cảm tạ trên bánh đã bẻ ra:

- Chúng con dâng lời cảm tạ Cha, vì sự sống và tri thức mà Cha đã cho chúng con nhờ Ðức Giêsu Tôi Tớ Cha.

- Chúc tụng Cha đến muôn đời.

Như chiếc bánh đã bẻ ra, được làm bằng những hạt lúa miến từ các núi đồi và được kết hợp lại để trở nên một. Cũng thế, xin

Cha hãy qui tụ Giáo Hội từ các miền xa xăm trên địa cầu, vào trong Vương quốc của Cha.

Vinh hiển và uy quyền thuộc về Cha mãi mãi đến muôn đời nhờ Ðức Giêsu Kitô. Khi đã dùng xong, hãy tạ ơn như sau:

- Lạy Cha chí thánh, chúng con cảm tạ Cha, vì Danh chí thánh của Cha mà Cha đã đăt để trong tâm hồn chúng con và vì sự hiểu biết, đức tin và sự bất tử mà Cha đã ban cho chúng con nhờ Ðức Giêsu Tôi Tớ của Cha.

- Chúc tụng Cha đến muôn đời.

Chính Cha là Chúa Toàn Năng, đã tạo dựng vũ trụ vì vinh quang của Danh Cha. 

Cha đã ban cho loài người hưởng dùng của ăn và thức uống để họ cảm tạ Cha. 

Còn chúng con, Cha đã ban của ăn thức uống thiêng liêng và sự sống đời đời, nhờ Ðức Giêsu Tôi Tớ của Cha.

Chúng con cảm tạ Cha trên hết mọi sự, vì Cha là Ðấng quyền năng.

Lạy Chúa, xin hãy nhớ đến Giáo Hội Chúa, hãy giải thoát Giáo Hội khỏi mọi sự dữ và hãy kiện toàn Giáo Hội trong tình yêu Ngài.

Xin hãy qui tụ Giáo Hội từ bốn phương vào vương quốc Ngài đã dọn sẵn vì Quyền năng và Vinh quang thuộc về Chúa muôn đời."

 

SỰ MỚI MẺ CỦA KITÔ GIÁO

Thư gửi tín hữu Magnésie

".Anh em đừng để cho những giáo thuyết sai lạc hay những chuyện bịa đặt cổ lỗ vô ích làm cho lầm lạc. Bởi chưng, nếu giờ đây chúng ta còn sống theo Lề Luật thì chúng ta thừa nhận mình chưa lãnh nhận ân sủng. Vì các tiên tri của Thiên Chúa đã sống theo Ðức Giêsu Kitô, nên họ đã bị bách hại. Họ đã được ân sủng của Người linh hứng, ngõ hầu những kẻ vô tín hoàn toàn xác tín rằng chỉ có một Thiên Chúa, Ðấng đã tỏ mình qua Ðức Giêsu Kitô Con của Người, Ngài là Lời thốt ra từ im lặng và trong mọi sự đều đã làm đẹp lòng Ðấng đã sai Ngài. Vậy nếu những người đã sống trong trật tự cũ đã đến với niềm hi vọng mới, không còn giữ ngày Hưu lễ, nhưng là sống theo ngày của Chúa (: Chúa Nhật), ngày mà sự sống của chúng ta đã trỗi dậy nhờ Ngài và nhờ cái chết của Ngài - một số kẻ phủ nhận điều đó, thế nhưng chính nhờ mầu nhiệm này mà chúng ta đã lãnh lấy đức tin và giữ vững lòng tin đó, để được làm môn đệ Ðức Giêsu Kitô, vị Tôn Sư duy nhất của chúng ta- Làm sao chúng ta lại có thể sống mà không có Ngài, vì chưng các tiên tri cũng đã là môn đệ của Ngài trong tinh thần và đã ngóng chờ Ngài là Tôn sư của họ? Chính vì thế Ðấng mà họ chờ đợi trong công chính đã đến và cho họ sống lại từ cõi chết. Vì vậy, một khi trở nên môn đệ của Ngài, chúng ta hãy học sống theo Kitô giáo. Bởi lẽ ai mang một danh hiệu khác với danh hiệu đó thì kẻ ấy không thuộc về Thiên Chúa. Vậy anh em hãy quẳng đi thứ men xấu, cũ và đã trở chua, hãy biến đổi mình thành thứ men mới là Ðức Giêsu Kitô. Thật là vô lý khi nói đến Ðức Giêsu Kitô rồi lại nói đến Do Thái hóa. Bởi lẽ, không phải Kitô giáo tin vào Do Thái giáo, nhưng là Do Thái giáo tin vào Kitô giáo, nơi đó mọi tiếng nói tin vào Thiên Chúa đều được thu hẹp lại.

Thư gửi tín hữu Philadelphie 8

"Tôi khuyên anh em hãy làm theo giáo huấn của Ðức Kitô chứ đừng làm bất cứ điều gì theo óc tranh giành cãi cọ. Tôi đã nghe có những người nói: Nếu tôi không tìm thấy điều đó trong sách (Cựu Ước) thì tôi cũng chẳng tin điều đó trong Phúc Âm. Và khi tôi nói với họ: Ðiều đó đã được viết, thì họ đáp: Ðây mới là vấn nạn. Ðối với tôi, Sách của tôi chính là Ðức Giêsu Kitô; sách của tôi là bất khả xâm phạm, đó là thập giá của Ngài cái chết và sự phục sinh của Ngài, là đức tin đến từ Ngài; chính trong điều đó mà tôi khao khát được công chính hóa, nhờ lời cầu nguyện của anh em."

(Sources Chrétiennes, No. 10 bis, p. 87-91; 127-129)

 

Một điểm khác đặt ra từ cuộc tranh luận giữa người Do Thái và tất cả các Kitô Hữu (kể cả những Kitô hữu gốc Do Thái) đó là việc đọc và giải thích Cựu Ước của Giáo Hội.

Ðối với các Kitô hữu thuộc những thế hệ đầu tiên, Cựu Ước vẫn đương nhiên là Lời Thiên Chúa, là Thánh Kinh. Cho tới khoảng năm 150, khi viện dẫn "Thánh Kinh" thì hầu như luôn luôn hiểu là Cựu Ước. Ý niệm về một Thánh Kinh Kitô giáo sẽ lan rộng trong ngôn ngữ ít lâu sau đó. Như vậy, trong ý thức Kitô giáo ban đầu, việc cắt đứt với Do Thái giáo không hề kéo theo việc loại bỏ Cựu Ước. Ðức Giêsu và "Thánh Kinh" được coi như gắn liền với nhau, không thể tách rời.

Từ đó, người ta bắt đầu quan tâm đến việc phải hiểu mối liên hệ giữa toàn thể Cựu Ước với mầu nhiệm Ðức Kitô và lý giải mối quan hệ đó như thế nào. Về điểm này, cần phải trở về với các thư Phaolô để tìm ra những nền tảng thần học về các mối tương quan giữa hai viễn tượng: 

- Thứ nhất là tính duy nhất của mạc khải. Phúc âm vượt trên Lề luật, nhưng cả hai đều phát xuất từ Thiên Chúa và đều đáp ứng cho cùng một ý định cứu độ, nhằm đưa đến sự "hiệp nhất (của con người) với Thiên Chúa". "Mọi sự đều tốt đẹp" trong công trình của Thiên Chúa. Dường như Ignace chống lại việc loại bỏ Cựu Ước của một số giáo phái. Ðiều này khiến ngài nói về một mạc khải hay một sự hiện diện của Ðức Kitô ngay trong dân thời Cựu Ước: Các tiên tri đã được Ngài linh hứng, đã là môn đệ của Ngài từ trước, đã ở trong sự hiệp nhất của Ðức Giêsu Kitô.

- Thứ hai là giải nghĩa Cựu Ước theo chiều hướng tiên tri, tất cả Cựu Ước qui về Ðức Kitô, loan báo và chuẩn bị cho Ðức Kitô. Ignace nhấn mạnh điều này, nhất là trong những gì liên hệ đến các "tiên tri", trong đó bao gồm cả Mosê.

Khoa chú giải của các Giáo Phụ về Cựu Ước được khai triển khởi đi từ những viễn tượng này. Người ta thấy ngay rằng đó sẽ là một cách đọc Cựu Ước theo "nhãn quan Kitô Giáo", một cách đọc theo nhãn quan thần học, hay nói đúng hơn theo nhãn quan Kitô học, trong viễn tượng của sự liên tục trong chương trình của Thiên Chúa. Cũng từ khởi điểm đó, suy tư Kitô giáo bắt đầu hình thành nhãn quan về một lịch sử cứu độ, với những giai đoạn và những thời điểm có tính chất quyết định. Như vậy, ngay khi sống một kinh nghiệm mới, Kitô giáo cổ thời vẫn không loại bỏ quá khứ, ý thức mình là một cái gì mới mẻ tận căn nhưng không phải là một khởi đầu tuyệt đối. Người ta tìm ra một sự quân bình giữa những quan điểm cực đoan: hoặc loại bỏ một phần hay toàn bộ Cựu Ước như chủ trương của Ngộ đạo thuyết hay thuyết của Marcion, hoặc lối giải thích Cựu Ước triệt để theo nghĩa "ẩn dụ" hay "biểu tượng", giản lược Cựu Ước thành cuốn sách gồm những hình ảnh của các thực tại Kitô giáo như thể Cựu Ước không gì khác hơn là hình thức đầu tiên, bằng biểu tượng, của mạc khải Kitô giáo: Luận đề này được khai thác trong thư Barnabé, các giáo phụ sau này có theo nhưng không chấp nhận hoàn toàn quan điểm đó, nếu như phần lớn các Giáo phụ thiên về lối chú giải theo nghĩa ẩn dụ, thì các ngài vẫn không đi đến chõ đánh mất chiều kích và ý nghĩa lịch sử của Cựu Ước; bởi như thế sẽ là cắt đứt Kitô giáo khỏi gốc rễ của nó.

Vấn đề thứ ba đặt ra cho cuộc tranh luận đó là vấn đề truyền giáo. Ðiều này thánh Phaolô nhận thức rất rõ, còn Ignace lại không đề cập gì đến. Thánh Phaolô là người đầu tiên hiểu vấn đề này: đối với Kitô giáo, việc tách ra khỏi bối cảnh Do Thái Giáo ban đầu là điều kiện thiết yếu để thực hiện ơn gọi phổ quát của mình hay ít ra là để tồn tại trong thế giới cổ thời. Tuy nhiên, không phải mọi Kitô hữu thời đó tự nhiên có thể nhận thức được điều đó, vì vậy mà bước đường đi tới gặp phải những quanh co, trở ngại. Giáo Hội thế kỷ II đã nhất quyết, như ta sẽ thấy, đi theo lựa chọn mà Phaolô cổ võ, không chấp nhận co lại trong chiếc nôi ban đầu nhưng là hướng đến sự khai mở với các nền văn hóa. Vào giữa thế kỷ II, Justin sẽ cho chúng ta thấy con đường trải qua như thế nào.

 

PHÚC ÂM VÀ CỰU ƯỚC

Các tiên tri ngày xưa đã loan báo Ðức Kitô, lời của họ vẫn là Tin Mừng cho các Kitô hữu. Nhưng chỉ có Phúc Âm mới đem đến sự hoàn tất lời hứa nhờ việc Ðấng Cứu Thế đến.

 

Ignace d'Antioche, Thư gửi tín hữu Philadelphie 5 và 9

"... Hỡi anh em, lòng tôi những ngập tràn tình mến đối với anh em, và trong niềm hân hoan vui sướng, tôi muốn làm cho anh em nên kiên vững, nhưng không phải tôi mà là Ðức Giêsu Kitô: là kẻ mang xiềng xích vì Người, tôi nghĩ mà còn sợ mình bất toàn; nhưng lời cầu nguyện của anh em sẽ làm tôi nên hoàn hảo cho Thiên Chúa, ngõ hầu, một khi tôi náu mình trong Phúc Âm như thể trong thân xác Ðức Kitô, trong các Tông Ðồ cũng như trong hàng Trưởng Lão (linh mục) của Giáo Hội, tôi được lãnh lấy di sản do lòng Người đoái thương. Và chúng ta cũng hãy yêu mến các tiên tri, vì cả họ cũng đã loan báo cho Phúc Âm; họ đã hi vọng vào Người và đã mong đợi Người: Họ đã được cứu rỗi bởi đã tin vào Người; các vị thánh đáng mến và đáng khâm phục đó đã được lãnh nhận chứng từ của Ðức Giêsu Kitô và được đón nhận vào trong Tin Mừng về niềm hi vọng chung của chúng ta, bởi họ đã được ở trong sự duy nhất của Ðức Kitô.

Các tư tế (của Cựu Ước) cũng là những vị đáng tôn kính, nhưng vị Thượng tế, Người mà Ðấng Chí Tôn Chí Thánh được ủy thác cho, và duy mình Người được giao phó các bí ẩn của Thiên Chúa, mới thật tuyệt vời, Người là cửa của Cha, qua cửa đó Abraham, Isaac, Jacob, các tiên tri, các Tông Ðồ và Giáo Hội đã đi vào. Tất cả những điều đó đều vì sự duy nhất của Thiên Chúa. Thế nhưng, Tin Mừng có một điều gì đó đặc biệt: Ðó là việc Ðấng Cứu Thế, Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đến, cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Vì chưng các tiên tri đáng kính đã loan báo cho Người, nhưng Phúc Âm mới là sự hoàn tất của bất tử. Mọi sự đều tốt đẹp, nếu anh em tin trong lòng mến."

Sources Chrétiennes, No. 10 bis, P. 123-125; 129-131

 

GIẢI THÍCH NGÀY HƯU LỄ THEO NGHĨA BIỂU TRƯNG

THƯ CỦA PSE DO-BARNABÉ: Chú giải ngày Hưu lễ theo nghĩa thiêng liêng

Tác giả cho rằng, giải thích luật giữ ngày Hưu Lễ theo sát mặt chữ là sai. Ngày Hưu Lễ duy nhất mà Thiên Chúa muốn hệ tại ở phụng tự thiêng liêng và chỉ xảy đến trong thời cùng tận. Cac tín hữu cử hành "Ngày thứ Tám", ngày Phục sinh và Thăng Thiên của Ðức Kitô và là hình bóng của thế giới mới.

 

"Về ngày Hưu lễ, trong Thập giới mà Thiên Chúa trao cho chính Môse trên núi Sinai có viết: Các ngươi hãy thánh hóa ngày Hưu Lễ của Chúa với đôi tay thanh sạch và tấm lòng thanh khiết. Và nơi khác Ngài phán: Nếu con cái Ta tuân giữ ngày Hưu lễ, bây giờ Ta sẽ trải lòng thương xót của Ta trên chúng. Ngài nói về ngày Hưu Lễ lúc khởi đầu tạo dựng: Và Thiên Chúa đã thực hiện công trình Ngài trong sáu ngày và hoàn tất vào ngày thứ Bảy: Trong ngày đó Ngài nghỉ ngơi và thánh hóa ngày đó (Khởi Nguyên 2,2-3). Anh em hãy nghĩ xem câu nói: Ngài hoàn tất chúng trong sáu ngày có nghĩa gì. Ý nghĩa của nó là: Chúa sẽ hoàn tất vũ trụ trong 6000 năm: Một ngày với Ngài là cả ngàn năm. Và Ngài nghỉ ngơi ngày thứ bảy: điều đó có nghĩa là khi Con của Ngài sẽ đến phá hủy thời Bất Công, phán xét kẻ vô đạo, chuyển dời mặt trời, mặt trăng và các tinh sao, bấy giờ Ngài sẽ nghỉ ngơi hoàn toàn vào ngày thứ bảy.

Cuối cùng Ngài phán: Ngươi sẽ thánh hóa ngày đó với đôi tay thanh sạch và tấm lòng thanh khiết. Thiên Chúa đã thánh hóa ngày Hưu lễ nhưng nếu có ai đó lại có thể thánh hóa ngày này, bằng tấm lòng thanh khiết ngay hôm nay, thì chúng ta quả là hoàn toàn lầm lạc. Nhưng nếu không phải là ngày hôm nay, thì bây giờ trong sự nghỉ ngơi hoàn toàn người đó sẽ thánh hóa ngày Hưu Lễ, lúc mà chúng ta sẽ có thể làm điều đó, khi chính chúng ta được công chính hóa, khi chúng ta sẽ lãnh lấy lời hứa, lúc không còn bất công và mọi sự được Chúa đổi mới. Bấy giờ, chúng ta sẽ có thể thánh hóa ngày Hưu Lễ, và tiên vàn chính chúng ta được thánh hóa trước đã.

Cuối cùng Ngài phán với họ: "Ta không chịu nổi những tuần trăng mới và những ngày Hưu lễ của các ngươi" (Is 1,13). Anh em hãy xem Ngài nói thế nào: Ta hài lòng, không phải với ngày Hưu Lễ hôm nay, nhưng là ngày mà Ta làm nên , trong ngày đó, khi mọi sự được yên nghỉ, Ta sẽ khởi sự ngày thứ tám, nghĩa là khởi sự một thế giới khác. Chính vì thế mà chúng ta (người Kitô hữu) cử hành ngày thứ tám trong niềm vui, ngày mà Ðức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết và sau khi tỏ mình ra, đã lên trời cao thẳm.

(Chương 15, 1-9)

 

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt