LIÊN QUAN GIỮA CÁI CHẾT VÀ VẤN ĐỀ THIÊN CHÚA
THEO QUAN NIỆM CỦA FEUERBACH(*)
[Phần 1]
TRẦN VĂN TOÀN
Cái mộ chôn con người ta
chính là nơi sinh ra các thần linh
So ist das Grab der Menschen
die Geburtstaette der Goetter
(Feuerbach, Saemtliche Werke, I, tr 369)
0- Đi vào vấn đề
Khi bàn về các thần linh thì các triết gia vô thần ở Âu châu thời thượng cổ thường đưa ra nhiều lập luận. Có người cho rằng vì sợ hãi khi đứng trước vũ trụ (timor fecit deos), hay là vì không biết giải thích nguồn gốc vũ trụ ra sao, cho nên người ta mới bày đặt ra thần linh. Vấn đề là người ta thấy mình hữu hạn, có nhiều cái mình không làm được, không biết được, đồng thời lại thấy rằng cái ý thức và cái mơ ước của mình lại có một tầm thước vượt hẳn ra bên ngoài giới hạn của cá nhân mình. Ý thức được giới hạn của mình như thế cũng tức là nhận ra rằng bên kia cái giới hạn đó còn có cái gì khác, và chưa chừng còn có ai khác nữa.
Tôn giáo cổ sơ thì lo lắng cho vận mệnh con người nhỏ bé, thiếu thốn, thường tin rằng có rất nhiều thần linh có quyền lực hơn mình, cho nên khi cần thì xin, khi sợ thì kính, mà kính thì chưa chắc đã thân, cho nên « kính nhi viễn chi » như thầy Khổng đã dậy ; tóm lại là hễ thấy đâu thiêng thì thờ tất cả. Người Hi-lạp và Rô-ma thời cổ cho rằng thần linh đều có các tật xấu như người ta, có quyền lực, nhưng lại hay đùa bỡn với vận mệnh con người, gây ra nhiều thảm kịch. Trong truyền thống văn minh Ấn Độ thì niềm tin căn bản là : chỉ có một thực thể thần thiêng duy nhất, còn các cá nhân, tuy có ý thức rằng mình là thực thể biệt lập, nhưng ý thức ấy là sai lầm, là ảo ảnh, cần phải tiêu diệt đi thì mới trở về thực thể duy nhất đích thực. Đó cũng là một cách tự tôn, cho rằng tuy mình nhỏ bé, nhưng thực ra là đồng nhất với thực thể vô biên, mà không biết. Vì thế chủ trương vô ngã của đức Phật cũng là nằm trong niềm tin chung của văn hóa Ấn Độ.
Trong các tôn giáo nhất thần hay là độc thần, thì vị Thiên Chúa không phải là một vị thần như vô số các thần khác, không phải là một thành phần vô ý thức của vũ trụ, không phải là linh hồn điều động vũ trụ, cũng không phải là toàn thể vũ trụ, nhưng được quan niệm là siêu việt, khác hẳn vũ trụ, và hơn nữa còn quan niệm thêm là vị Thiên Chúa đó không đùa bỡn với vận mệnh con người, nhưng lưu tâm đến con người.
Riêng Feuerbach, thì ông không tin có Thiên Chúa hay thần linh nào cả. Quan niệm vô thần lối mới đã được ông trình bày trong ba cuốn sách theo ba giai đoạn. Cuốn thứ nhất là Bản chất đạo Thiên Chúa (Das Wesen des Christentums, 1841), có chủ trương rằng bàn luận về Thiên Chúa cũng là bàn luận về con người mà thôi, vì lẽ rằng các đặc tính mà người ta gán cho Thiên Chúa, như trí khôn (lý trí), như tình yêu, v.v. thực ra cũng chính là những đặc tính của con người. Cuốn thứ hai là Những khóa trình về bản chất của tôn giáo (Vorlesungen ueber das Wesen der Religion, xuất bản năm 1851), nghĩa là của tôn giáo nói chung. Trong giai đoạn thứ hai này, ông đưa thêm ra một ý kiến mới, là : bàn luận về Thiên Chúa cũng là bàn luận về thiên nhiên, vì rằng có ít là hai đăc tính mà người ta gán cho Thiên Chúa thì cũng chính là những đặc tính của thiên nhiên : đó là tính vạn năng (có năng lực vô cùng) và tính hằng hữu (vô thủy vô chung). Trong giai đoạn thứ ba thì ông viết sách Nguồn gốc các thần linh (Theogonie, 1857), có chủ trương tổng quát rằng thần linh được người ta tạo ra là để đáp ứng lại những điều sở ước của mình : mỗi ông thần đáp ứng lại một ước vọng của con người.
Về giới hạn của con người thì Feuerbach đặc biệt suy tư về hai cái giới hạn đã đưa đến niềm tin Thiên Chúa : một là cái chết, hai là tình yêu. Cái chết thì ai cũng biết nó là giới hạn của cá nhân ta. Còn tình yêu thì nó cho ta thấy rằng mình không tự túc được, mà phải tìm đến người khác, nghĩa là nhận ra mình là hữu hạn. Về hai giới hạn đó thì phần cốt yếu đã được Feuerbach trình bày trong luận văn tiến sĩ triết học[1] và trong cuốn sách ông cho in nặc danh về cái chết và niềm tin con người là bất tử[2]. Hai tác phẩm này đã được soạn ra hơn mười năm trước khi ông cho xuất bản cuốn sách thời danh Bản chất đạo Thiên Chúa (1841).
Liên quan giữa tình yêu và vấn đề Thiên Chúa sẽ được trình bày trong một thiên khảo luận khác. Còn bây giờ thì xin trình bày quan niệm của Feuerbach về cái chết, để xem nó có liên quan thế nào tới vấn đề tôn giáo, tới vấn đề Thiên Chúa.
Như đã trưng dẫn ở đầu bài này, quan niệm Feuerbach đã được tóm tắt thật là gọn gàng : Cái mộ chôn con người ta chính là nơi sinh ra các thần linh, nghĩa là : chính vì con người ta biết mình phải chết cho nên mới bày đặt ra là có các thần linh.
0.1.- Mấy nét đại cương về hành trình triết học của Feuerbach
Có thể nói triết học của Feuerbach đã bắt nguồn từ triết học của Hegel, vì hai lý do. Một là vì cũng như Hegel, ông quan niệm rằng ý thức con người ta về thân phận mình đã phát triển theo hai giai đoạn : giai đoạn thứ nhất là tôn giáo và giai đoạn thứ hai là triết lý[3]. Hai là vì ông cũng theo lối minh chứng của Hegel mà quan niệm rằng các tôn giáo của nhân loại đã tiến triển biến hóa từ hình thức thô sơ cho đến hình thức tối cao là đạo Thiên Chúa. Vì thế khi muốn phê bình tôn giáo, ông thấy là trong lúc đầu – tức là trong cuốn Bản chất đạo Thiên Chúa – chỉ cần phê bình và đánh đổ đạo Thiên Chúa là đủ, chứ không cần đả động đến các tôn giáo khác làm gì.
Sách Bản chất đạo Thiên Chúa đã « vang bóng một thời », và còn hơn thế nữa, lập luận của ông đã thành ra quá quen thuộc, cho nên bây giờ có nhiều người phê bình tôn giáo thường đã lấy lại mà không biết. Tuy vậy, sách này vẫn chưa phải là lời nói cuối cùng, dứt khoát, của Feuerbach về tôn giáo. Có điều đáng chú ý : Feuerbach là triết gia đầu tiên, và có lẽ ông là người độc nhất đã để cả đời ông vào việc phê bình và phi bác tôn giáo, mà không xét đến hơn thiệt, không xét đến tiếng tăm, đến bước đường sự nghiệp. Ông cho rằng ông có quyền phê bình tôn giáo, là vì ông có kinh nghiệm tôn giáo và đã học thần học. Kinh nghiệm tôn giáo của ông, thì không biết là thế nào, nhưng xem chừng có tính cách sách vở hơn là sống động. Còn việc ghi tên học một năm thần học ở đại học như Feuerbach, thì thực ra cũng không là bao nhiêu, nhưng cũng vẫn còn là hơn nhiều người bạo ăn bạo nói, lên tiếng phê bình những điều mình không am tường, nhưng chỉ nghe hơi mà thôi. Ngoài ba cuốn sách cho in lại những bài khóa trình của ông về lịch sử triết học thời Cận đại[4] [5], thì các tác phẩm khác đều qui cả về việc phê bình tôn giáo. Cũng nên nói thêm cho rõ là trong bài Tựa của tập I bộ Tác phẩm toàn tập (SW-I, trang IX-X), Feuerbach cho biết rằng khi giảng về lịch sử triết học như thế, thì ông thường mượn tên các triết gia thời ấy để nói lên lập trường riêng của mình.
Khởi điểm của ông là sư phụ Hegel (1770-1831). Sau khi bỏ thần học để theo triết học, ông rời Heidelberg năm 1824, đi Berlin theo học với Hegel. Trong luận văn tiến sĩ Luận về lý trí duy nhất, phổ thông, vô biên (1828), Feuerbach vẫn còn giữ lập trường duy tâm của sư phụ, coi lý trí cũng là thần trí, và vì là thần trí cho nên nó là duy nhất, phổ thông và vô biên. Cũng dễ hiểu : những cái thuộc về phạm vi của cảm giác, thì ai cũng thấy là chúng có tính cách đặc thù, riêng cho từng cá nhân, và vì thế không thể thông cho người khác được. Thực vậy, ta có thể thông cho người khác biết những điều ta tư tưởng, nhưng ta không thể thông cho người khác cái cảm giác của ta. Vì thế, lý trí có tính cách phổ thông, và con người ta chỉ thực hiện được bản chất của mình, nếu tham gia được vào cái lý trí duy nhất, phổ thông và vô biên đó.
Trình xong luận văn đó, Feuerbach chưa chống lại Hegel ngay, nhưng ông đã xác nhận ra rằng lý trí của con người ta không thoát ly ra ngoài thể xác, nhưng có liên quan thật là mật thiết với thể xác. Tiến theo đà như thế, vào khoảng năm 1834, ông đặt trọng tâm của triết học vào thiên nhiên và vào thể xác của cá nhân, chứ không hạn hẹp vào lý trí nữa.
Riêng về vấn đề tôn giáo thì, ngoài Hegel ra, ông còn rất hứng thú đi nghe Schleiermacher (1768-1834) giảng thuyết, ông này vừa là mục sư giải nghĩa Thánh Kinh ở giáo đường, vừa là giáo sư giảng bài triết học ở đại học Berlin. Schleiermacher chủ trương rằng tôn giáo bắt nguồn ở chỗ con người cảm thấy mình ở trong tình trạng tùy thuộc (Abhaengigkeitsgefuehl), tùy thuộc vào ngoại giả, ngoại vật, ngoại giới. Nhờ có Schleiermacher mà Feuerbach nhận định ra tầm quan trọng của cảm giác và cảm tình. Từ đây cái địa vị độc tôn mà Hegel dành cho lý trí đã bắt đầu bị lung lay.
Nếu Hegel chủ trương rằng tôn giáo và triết học chỉ là hai giai đoạn tiến trình kế tiếp nhau của lý trí, thì từ nay Feuerbach đoạn tuyệt với tư tưởng Hegel, và chủ trương rằng tôn giáo và triết học không có cách nào dung hòa với nhau được. Cái có thực, cái thực thể, không còn phải là lý trí trừu tượng, nhưng là con người khả giác và năng giác. Vì thế, khi nói về lý trí, thì phải hiểu là lý trí của con người. Năm 1843 ông viết : « Triết học lối mới thì lấy con người hợp lại với thiên nhiên (vì thiên nhiên là nền tảng của con người) làm đối tượng duy nhất, phổ thông và tối cao của triết học, nghĩa là coi môn học về con người (Anthropologie) hợp lại với môn học về thiên nhiên (Physiologie) là khoa học tổng quát (phổ thông) »[5]. Chính Karl Marx – lúc đó mới đậu tiến sĩ triết học được hai năm – cũng đã nhận ngay ra tầm quan trọng của triết lý mới của Feuerbach, và đã viết thư ngày 11/08/1844 để ca tụng tác giả. Quan niệm đó của Feuerbach chính là nguồn gốc của cái phương trình thức mà Marx đặt ra giữa lập trường duy nhân bản và lập trường duy thiên nhiên (Humanismus = Naturalismus) khi ông viết ở Paris Bản thảo về kinh tế và triết học (1844).
Ngoài ra thì Schelling (1775-1854) là triết gia đương thời với Hegel cũng chủ trương rằng thiên nhiên và vật chất cũng chỉ là một thành phần của Thiên Chúa, nhưng là thành phần còn vô thức[6]. Từ đây quan niệm của Feuerbach về tôn giáo đã được thành hình. Ông đảo lộn hẳn lập trường của Hegel. Thực vậy, nếu hệ thống Hegel bắt đầu trình bày từ tôn giáo tôn thờ thiên nhiên, rồi đi qua các tôn giáo đã xuất hiện trong lịch sử, cho đến đỉnh cao nhất là đạo Thiên Chúa, thì Feuerbach bắt đầu từ chỗ phê bình đạo Thiên Chúa, rồi trở ngược lại cho đến chỗ đặt con người và thiên nhiên làm thực thể căn bản.
Chính vì ngay từ trước năm 1839 Feuerbach đã đặt trọng tâm vào thiên nhiên, cho nên ta biết rằng sách Bản chất đạo Thiên Chúa (1841) chưa phải là câu phán đoán dứt khoát của ông về tôn giáo. Vì ở đây ông chỉ mới chủ trương rằng : nói về Thiên Chúa trong thần học cũng là nói về con người mà thôi (Theologie = Anthropologie). Sau đó mấy năm, trong bài Bản chất của tôn giáo (1845), ông đã tung ra quan niệm giông giống như Schelling và Spinoza rằng Thiên Chúa cũng chính là thiên nhiên[7], nghĩa là có những đặc tính mà người ta gán cho thiên nhiên. Quan niệm này đã được quảng diễn ra trong 30 bài ông diễn thuyết từ tháng 12 năm 1848 cho đến tháng 3 năm 1849 trong đại học Heidelberg, do sinh viên đứng ra tổ chức và đặc biệt mời tác giả sách Bản chất đạo Thiên Chúa đến phát biểu ý kiến. Đặc biệt mời, là vì ngay từ năm 1830, vì lý do chính trị lẫn với tôn giáo ông đã bị tẩy chay, bị dìm xuống, không được chính thức làm giáo sư ở đại học. Những bài đó đã được xuất bản năm 1851, trong tập VIII của bộ Tác phẩm toàn tập, dưới nhan đề là Những khóa trình về bản chất của tôn giáo[8] [9]. Sau này, trong sách Nguồn gốc các thần linh (1857), Feuerbach còn thêm vào đó một yếu tố mới : ông giải thích rằng thần linh được tạo ra để đáp ứng lại các cái mơ ước của con người.
0.2.- Những văn kiện của Feuerbach về cái chết và niềm tin con người bất tử
Năm 1830, tức là hai năm sau khi đậu tiến sĩ, Feuerbach cho xuất bản một cuốn sách, nói là của một nhà tư tưởng muốn giấu tên, nhan đề là Những cảm nghĩ về cái chết và về tính bất tử, trích ra từ giấy tờ của một nhà tư tưởng, có kèm theo một ít câu suy nghĩ vừa có tính cách thần học vừa có tính cách châm biếm, do một người bạn của tác giả cho xuất bản[9]. Tuy là nặc danh, nhưng thiên hạ đoán ngay ra ai là tác giả. Vì thế tác giả bị nhà nước để ý, cấm hẳn không cho làm giáo sư đại học, cho nên chỉ sống thanh bạch bằng nghề viết sách, và nhờ vào cái xưởng làm đồ sứ của bà vợ mà thôi.
Đến năm 1834 thì cho in ra một số cảm nghĩ triết lý có tính cách hài hước, lấy tên là Người cầm bút và con người[10], trong đó chỉ nhắc qua đến vấn đề cái chết.
Năm 1847, trong tập III của bộ Tác phẩm toàn tập, ông cho tái bản tác phẩm trước đây đã cho in nặc danh năm 1830, nhưng rút vắn đi chừng một phần ba, và xếp lại theo một lối dàn bài mới. Cũng trong tập III đó, ông cho in thêm ba bài mới cũng về đề tài đó : 1) Vấn đề tính bất tử xét theo quan điểm môn học về con người (Unsterblichkeitsfrage vom Standpunkt der Anthropologie, 1846), 2) Về ‘Những cảm nghĩ về cái chết và tính bất tử’ mà tôi đã viết, và 3) Nhận xét thêm (Nachtraegliche Bemerkungen). Trong ba bài này thì bài thứ nhất quan hệ hơn cả.
Năm 1851, trong bài khóa trình thứ II về bản chất của tôn giáo[11] [12], Feuerbach nhắc lại và tóm tắt tất cả các bài vở đã viết về cái chết và niềm tin con người bất tử. Rồi trong bài thứ XXIX và thứ XXX, ông liên kết niềm tin đó với chứng lý biện bác rằng có Thiên Chúa.
Sau cùng thì năm 1866, trong tập X, tập cuối cùng của bộ Tác phẩm toàn tập, Feuerbach viết thêm bài Về bài ‘Vấn đề tính bất tử xét theo quan điểm môn học về con người’ hay là Phê bình những lối giải thích về những biểu tượng về tính bất tử, thông dụng trong dân gian và trong thời Thượng cổ. Tuy không đưa ra được ý kiến nào mới, nhưng ông cũng liệt kê ra được nhiều sự kiện trong các nền văn minh Hi-lạp, La-tinh và Do-thái trong thời Thượng cổ.
Không cần phải đi vào các chi tiết ta cũng nhận ngay ra rằng cái chết và vận mệnh của con ngưòi cá nhân là một vấn đề đã được Feuerbach rất chú ý khi ông suy nghĩ về tôn giáo. Và đây là điểm làm cho Feuerbach khác hẳn Hegel và Marx. Hai triết gia này chú trọng vào những hình thức vĩ đại của xã hội và lịch sử, chứ không lưu tâm gì đến vận mệnh của con người cá nhân nhỏ bé[12]. Thiết tưởng trong tư tưởng Ấn Độ cũng thế, vì nếu con người cá nhân chỉ là ảo ảnh, hay là vô ngã, thì có vận mệnh nào là đáng kể.
Trong thiên khảo luận này, ta sẽ căn cứ vào hai tác phẩm chính, là Những cảm nghĩ về cái chết và tính bất tử (1830) và Vấn đề tính bất tử xét theo quan điểm môn học về con người (1846). Hai bài này cách nhau 16 năm. Trong thời gian đó thì vấn đề cũng được bàn luận sôi nổi trong học phái Hegel.
Feuerbach không bao giờ chối bỏ hay là sửa sai cho tác phẩm Những cảm nghĩ …, viết lúc ông còn trẻ. Ông thường nhắc đến nó, coi nó như là một tác phẩm rất thần tình (genial), nói lên được thật đúng tư tưởng đặc biệt của mình, cho đến nỗi khi bộ quốc gia giáo dục cho biết là ông chỉ cần tuyên bố ông không phải là tác giả cuốn sách nặc danh đó thì sẽ được bổ nhiệm ở đại học, ông đành chịu mất hẳn con đường sự nghiệp ở cấp đại học, chứ không chịu tuyên bố như thế. Tác phẩm này có một bản dài, in năm 1930, và một bản vắn, in năm 1846. Về nội dung thì tôi dùng bản dài, trong bộ SW(B) tập XI, do Hans Martin Sass cho in ra ; còn khi trình bày cho có mạch lạc thì tôi theo cách dàn bài trong bản vắn, trong bộ SW(B) tập III.
Tác phẩm Vấn đề tính bất tử… là tác phẩm viết ra lúc ông đã trưởng thành, chín chắn. Ông cho biết là khi suy luận, ông đã bỏ hẳn quan điểm của nhà tư tưởng trừu tượng như trong cuốn Những cảm nghĩ … , cũng không theo cái nhìn hài hước như trong năm 1834, nhưng lấy quan điểm của con người cụ thể. Tác phẩm này được viết vào năm 1846, nhưng xuất bản năm 1847. Hai tác phẩm này bổ túc cho nhau.
Sau đây là các phần sẽ được trình bày : 1) Cá nhân và cái chết ; 2) Niềm tin con người là bất tử ; 3) Cái chết, tính bất tử và ý niệm về Thiên Chúa ; 4) Feuerbach và quan niệm về thế mạt, cũng gọi là cánh chung luận (Eschatologie) của Hegel.
1- Cá nhân và cái chết
Vấn đề cá nhân và cái chết được trình bày trong Những cảm nghĩ … , nhưng trước đó Feuerbach đã để ý đến nó. Trong luận văn tiến sĩ viết bằng tiếng La-tinh năm 1828, Về lý trí duy nhất, phổ thông, vô biên (De ratione una, universali, infinita), ông nhận xét rằng có một số nhà thần học chủ trương rằng con người cá nhân là bất tử. Ông cho rằng chủ trương ấy vừa nghịch lý, lại vừa không hợp với Thánh-Kinh của đạo Thiên Chúa[13]. Trong luận văn này, Feuerbach vẫn còn đi theo lập trường của Hegel : ông cho rằng thực thể phổ thông mới là vĩnh viễn, còn cá nhân thì không, cho nên cái chết của cá nhân chỉ là một hiện tượng tự nhiên, thông thường, không có gì đáng quan tâm. Ông còn nhắc lại rằng nhiều triết gia thời Thượng cổ đã có chủ trương rằng cái chết không làm tổn hại gì đến con người, vì lẽ rằng « các vật sống động hay là giác quan thì chỉ có thể nhận thức được cái gì có thực, nghĩa là những sự kiện tích cực, chứ không cảm nghiệm được cái đang tiêu diệt chính mình ; thế nghĩa là không có ai cảm nghiệm được cái chết của mình »[14].
Hai năm sau thì vấn đề được đem ra bàn luận một cách có hệ thống trong Những cảm nghĩ … : Feuerbach muốn tìm hiểu cho rõ bản chất và ý nghĩa của cái chết.
Về bản chất của cái chết thì, như vừa nói trước đây, lúc đó Feuerbach chưa đặt vấn đề theo quan điểm của con người cụ thể, khả giác và năng giác, nhưng vẫn còn theo quan niệm của Hegel, cho nên ông chỉ xét đến những cái tổng quát, chứ chưa để ý đến con người cá nhân, cụ thể.
Còn về ý nghĩa theo quan điểm lúc bấy giờ, thì đó không phải là ý nghĩa của cái chết đối với cá nhân đang băn khoăn về vận mệnh riêng của mình, nhưng là ý nghĩa của cái chết đối với thực thể toàn diện. Ở đây không phải là cá nhân suy nghĩ về cái chết của mình, nhưng là cái lý trí duy nhất, phổ thông, vô biên, suy luận về cái chết của cá nhân theo quan điểm của Hegel, rồi kết luận rằng cả cái chết lẫn cái tính bất tử đều không là gì hết. Không lạ gì, vì theo quan điểm đó, cái chết chỉ được xét như là một hiện tượng vật lý học hay sinh lý học, chứ không liên quan gì đến vận mệnh con người cá nhân. Theo cái nhìn như thế thì cái chết của cá nhân không có gì là bi thảm cả, vì lớp cá nhân này mất đi thì sẽ có lớp cá nhân khác thay chân ngay.
Chỉ khi nào người ta đặt trọng tâm vào cá nhân đang lo lắng cho thân phận mình thì mới có vấn đề mà thôi. Cho nên trong những nền văn hóa không quan tâm đến cá nhân thì sống chết không thành vấn đề.
Trong phần dẫn nhập vào sách Những cảm nghĩ …, Feuerbach trình bày vắn tắt lịch sử niềm tin con người bất tử, trong khu vực văn hóa Âu châu, và chia ra làm ba giai đoạn. Thứ nhất là thời Thượng cổ Hi-lạp và Rô-ma : ở đây người ta quan niệm rằng cá nhân tự nó không là gì đáng kể, có sống thì phải sống trong thế giới này và sống trong tập đoàn của mình mới là sống thiết thực. Thứ hai là thời Trung cổ : tông phái Công-giáo của đạo Thiên Chúa quan niệm rằng có một thế giới bên kia cái thế giới hình sắc này, và con người cá nhân cụ thể sẽ được đoàn tụ trong cộng đồng những người tín hữu ; quan niệm này có liên quan đến học thuyết Platôn, chủ trương chỉ có linh hồn mới là bất tử. Giai đoạn thứ ba là thời Cận đại : tông phái Tin-lành của đạo Thiên Chúa đưa ra chủ trương duy lý rằng có cá nhân là nhân vị, thần thiêng, vô biên, cho nên là bất tử ; nhân vị đó là Chúa Cứu thế Giêsu. Nhưng đối với người theo khuynh hướng sùng tín (piétiste) trong phái Tin-lành, nhân vị đó là Chúa Cứu thế khi đã được tiếp nhận trong thâm tâm người tín hữu, nghĩa là khi đã trở thành cái bản ngã của người tín hữu[15]. Các sử gia chưa chắc đã đồng ý về lối phân chia các giai đoạn, và quan niệm nổi bật của mỗi giai đoạn như thế.
Nghiên cứu về lịch sử niềm tin con người bất tử, tuy chưa phải là cách phi bác niềm tin đó, nhưng dù sao cũng là cách tương đối hóa nó, nghĩa là cho rằng nó không phải là chân lý tuyệt đối.
Bây giờ ta đi vào lập luận của Feuerbach.
1.1- Ý nghĩa của cái chết xét theo quan điểm đạo đức học
Trong đoạn này Feuerbach muốn tìm cho ra ý nghĩa của tình yêu, vì nó đòi người ta phải vượt ra bên ngoài giới hạn của cá nhân mình, để hướng về người khác. Ông viết : « Không có lẽ gì con người có mặt trên đời chỉ là vì mình mà thôi (…) . Nếu có vật nào chỉ là một hiện hữu vị kỷ (fuer-sich-sein, être-pour-soi), thì ta không thể phân biệt nó với cái hư không. Vì hễ hiện hữu thì tức là có đầy đủ các liên quan (…) ; như thế tất nhiên là hiện hữu với người khác, trong người khác và vì người khác ; hiện hữu tức là chung sống ; ngược lại, hiện hữu vị kỷ tức là cô độc, là không có sống chung ; còn cái hư không – ấy là nếu cái hư không lại là có thật, như tôm cá, như cây cối – thì trong thế giới này nó là cái cô độc nhất, vô xã hội nhất. Con người ta biết yêu và phải yêu »[16].
Như thế hiện hữu tức là sống trong cộng đồng, tức là yêu. Và yêu tức là bỏ mình, là từ bỏ quan điểm cá nhân của mình. Feuerbach giải thích : « Anh càng từ bỏ cái bản ngã của anh thì tình yêu của anh càng lớn và càng chân thực. Vì nếu không bỏ mình thì không có thể yêu ai được ; yêu tức là sống trong người khác, tức là không tự đặt mình lên, không đặt cái thực chất (Wesen) của mình ở nơi mình, nhưng là đặt nó trong đối vật của tình yêu (…) . Như thế là mình không còn cái hiện hữu vị kỷ riêng của mình nữa, thực thể của người khác cũng chính là thực thể của mình (…) ; tất cả mọi thứ tình yêu đều có một đặc điểm chung, là xả thân, là xả kỷ »[17].
Đi xa thêm một bước nữa, Feuerbach đặt vấn đề cái chết. Ông quả quyết : « Tình yêu chưa đi tới chỗ hoàn hảo, nếu không có cái chết »[18]. Vì lẽ rằng : « Khi yêu thì ta nhận định và tuyên bố rằng cái hiện hữu hoàn toàn vị kỷ của mình, cái tự ngã của mình, thì không là gì cả ; ta nhận định rằng cái thực chất của mình, cái mạng sống của mình, thì không phải là cái tự ngã của mình, nhưng cái đối vật của tình yêu mới là cái tự ngã đích thực của mình (…), vì cái chết mới thực là cái vén màn cho ta thấy rằng cái hiện hữu vị kỷ của mình thì thực là cô đơn hiu quạnh (…). Chỉ có một lúc mà ta là cái tự ngã thuần túy đơn giản, chỉ có một lúc mà ta là vị kỷ, vì một mình ta, đó là lúc ta chết, lúc ta không còn là gì nữa. Như thế, chính vì cái chết vén màn cho ta thấy cái hiện hữu vị kỷ của ta, mà nó cũng vén màn cho ta thấy tình yêu là gì »[19]. Nói thế khác, yêu là chết đi một phần nào, yêu là ý thức được rằng mình phải vượt ra ngoài cái giới hạn của cá nhân mình, và chính cái bước vượt ra như thế mới đưa người ta đến niềm tin con người là bất tử, và đến niềm tin có vị Thiên Chúa.
Đến đây ta nhận ra trong luận điệu của Feuerbach bài học mà trước đó mấy năm ông đã lĩnh hội được của Hegel : chỉ có cái phổ thông, cái toàn thể mới là chân thực, vì thế cái cá nhân đã thành hình bằng cách biệt lập và chống đối với mọi người khác, thì nó phải vượt lên trên tính cách cô đơn và trừu tượng của nó để trở thành phổ thông[20]. Như thế có nghĩa là : cộng đoàn hay là xã hội có giá trị cao hơn là cá nhân.
Bài học đó, Feuerbach, và Marx về sau này, cả hai người cùng học thuộc cả, tuy mỗi người hiểu theo một lối. Marx đi xa hơn, xã hội của ông thì rất rộng, vì ông cho rằng con người là toàn thể các liên quan xã hội cụ thể, nghĩa là các liên quan kinh tế và chính trị. Còn Feuerbach thì vẫn đứng lại trong lập trường lý thuyết, chống lại tất cả những ai chủ trương con người cá nhân là tuyệt đối. Về mặt lý thuyết thì Feuerbach nới rộng mệnh đề căn bản của triết học Descartes (1596-1650) : « Tôi tư tưởng, như vậy là có tôi (Cogito, ergo sum) », thành ra là : « Khi tôi tư tưởng, thì chính tôi là nhân loại (Cogitans ipse sum genus humanum) »[21]. Nhưng khi nói đến xã hội, đến nhân loại, thì, như ta vừa thấy trước đây, ông vẫn cứ hạn hẹp vào liên quan ái tình giữa hai người mà thôi. Sau này, trong sách Bản chất đạo Thiên Chúa ông viết : « Ta có thể tư tưởng một mình được, nhưng muốn yêu thì phải có đôi »[22].
1.2- Nền tảng của cái chết xét theo quan điểm siêu hình học
Như vừa trình bày trước đây, tình yêu làm cho con người ta quên bản thân, vượt ra ngoài bản thân và tất cả những gì có tính cách cá nhân, hạn hẹp của mình. Vậy nếu, theo như chủ trương của đạo Thiên Chúa, Thiên Chúa là tình yêu thuần túy, thì trong Thiên Chúa tất cả những ai, những gì, có tính cách đặc thù, hạn hẹp, đều phải tan biến đi hết, nghĩa là : Thiên Chúa là nền tảng của các vật hữu hạn, nay còn mai mất. Vì thế « chứng lý duy nhất minh chứng được rằng có Thiên Chúa, đó là thời gian »[23]. Vì có thời gian thì mới có những sự vật nay còn mai mất. Còn Thiên Chúa thì muôn đời ở ngoài thời gian. Feuerbach lý luận thêm : « Hễ có cái chết trong thời gian, có cái chết ở bình diện vật chất khả giác, thì tất nhiên phải có cái chết ở ngoài thời gian, phải có cái chết ở ngoài vật chất khả giác, cái chết đó là chính Thiên Chúa »[24].
Cũng nên giải thích vì sao Feuerbach lại chủ trương rằng cá vị (personne) và tình yêu hai bên lại trái nghịch nhau. Chủ trương này là vào năm 1830, khi mà Feuerbach vẫn còn theo tư tưởng Hegel. Một đàng thì cá vị là cái có tự kỷ ý thức, và vì thế nó là chủ thể, biệt lập hẳn ra ngoài khách thể, tức là các sự vật trong thiên nhiên. Vậy nếu Thiên Chúa là một cá vị, thì tất nhiên phải biệt lập ra ngoài thiên nhiên. Theo như Hegel thì tinh thần (Geist / esprit) không phải là cá vị có tự kỷ ý thức, lại càng không phải là thiên nhiên, nhưng là cái tổng hợp được cả hai cái mâu thuẫn nhau đó. Nếu Thiên Chúa chỉ là cá vị có tự kỷ ý thức mà thôi, thì vẫn chưa phải là tinh thần[25].
Đàng khác, « tình yêu không phải là hiện hữu tại kỷ (an sich sein / être en soi), cũng không phải là hiện hữu vị kỷ (fuer sich sein / être pour soi), nhưng là hiện hữu trong cộng đồng, hiện hữu qui nhất (être un) (…) . Tình yêu đòi vừa phải có dị biệt, vừa phải có thống nhất (… ), có thống nhất được hai yếu tố mới có tình yêu »[26]. Nếu bảo rằng Thiên Chúa là tình yêu, thì theo phép biện chứng, Thiên Chúa không phải chỉ là chủ thể ở giai đoạn thứ nhất, mà còn phải là khách thể ở giai đoạn thứ hai, và là hiện hữu tuyệt đối ở giai đoạn thứ ba (là tổng hợp)[27]. Thế nghĩa là nếu Thiên Chúa chỉ là cá vị (có ý thức), là chủ thể mà thôi, thì không thể coi Thiên Chúa là tình yêu, vì đã là cá vị thì bao giờ cũng là hạn hẹp và đối nghịch với các cá vị khác.
Lập luận có vẻ vừa dài dòng vừa quanh co khó hiểu ? Nhưng đại ý là : Thiên Chúa là nền tảng siêu hình học của cái chết của con người, không phải vì Thiên Chúa là một cá vị, nhưng vì là tình yêu. Cái chết của cá nhân là một việc rất tự nhiên, vì bản tính nó là hạn hẹp như thế. Cá nhân chết đi là hết hẳn. Feuerbach viết : « Cái chết chỉ là cái hậu quả, nó làm cho ta thấy rõ cái bản ngã của anh là có giới hạn ( … ) Anh phải chấp nhận chân lý này : anh là cái không có thực tại, mà Thiên Chúa cho nó có thực tại, có hiện hữu, cho nên nền tảng tối hậu của cái chết của anh là chính Thiên Chúa vậy »[28].
1.3 – Nền tảng của cái chết xét theo quan điểm thiên nhiên học[29]
Đoạn này nhan đề là « Thời gian, Không gian, Sự sống », đó là phần thứ II của cuốn sách viết năm 1830. Cách chia đề tài làm ba khúc như thế, là lấy lại của Hegel, để nói về giai đoạn khách-thể-hóa của ý thức. Mục đích là minh chứng rằng nền tảng của cái chết của cá nhân là chính ở trong bản tính tự nhiên của cá nhân.
Cá nhân nằm ở trong phạm vi những vật khả giác, cho nên nó có giới hạn trong thời gian và trong không gian. Nếu không ở trong thời gian và không gian, và nếu không xác định được các giới hạn như thế, thì không thể có cái gì là cá vật, là cá nhân cả[30]. Vì thế nếu cho rằng có cá nhân nào đó là bất tử và vẫn còn tồn tại sau khi chết, thì bó buộc phải nhận rằng cá nhân đó vẫn có một vị trí trong thời gian và trong không gian, cũng như trước khi chết vậy. Cho nên ta hiểu vì sao những người tin rằng cá nhân bất tử, thì cũng tin rằng những người chết đi đều ở một nơi xa xăm, mà những người còn sống không tới được, nhưng vẫn là ở trong không gian và thời gian[31]. Cho nên giới hạn của cá nhân trong không gian và trong thời gian (giới hạn vật lý học) cũng chính là giới hạn tự nhiên của cá nhân vậy.
Feuerbach tiếp tục lý luận : « Khi ở bên ngoài tôi có cá nhân nào, thì tôi thấy ở trong tôi như có một lỗ hổng, một quãng trống, như thiếu sót một cái gì ; tôi là một vật thể (Wesen) có nhiều lỗ hổng, thực tại (Sein) của tôi thì hoàn toàn là rỗng ; mỗi khi có vật thể nào giống như tôi, nhưng lại hiện hữu biệt lập với tôi, thì tôi thấy như là một vết thương ; trông thấy người khác, tôi nhận ra cái mà tôi không có ; các người khác đối với tôi chỉ là những cái lỗ hổng của bản thân tôi (…) »[32]. Như thế đã rõ là nếu có cá nhân nào thì cá nhân ấy tất nhiên phải là hữu hạn.
Về tính cách hữu hạn, cũng như về cái chết, thì giới hạn của nó là ở trong thiên nhiên, chứ không phải là ở trong một vị Thiên Chúa mà người ta quan niệm như là một cá vị chống đối hẳn lại với thiên nhiên[33]. Đứng vào quan điểm của toàn thể thực tại mà nói, thì tính cách hữu hạn và cái chết của các cá nhân không thành vấn đề gì cả : có cái này chết đi thì mới có cái kia sinh ra, cái này mất thì cái kia thay, và như thế là rất tự nhiên.
Thường thường thì Feuerbach biện luận như thế. Tuy vậy ít ra là có một lần ông nhận định ra tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Sau đây là một đoạn văn vừa quan trọng vừa hiếm có : « Cái vết nứt rạn lớn trong tạo vật, đó là cái chết : nó là giới hạn làm tiêu tan sự sống, vì chết là hết sống : đối với sự sống thì nó là cái sa mạc thuần túy nhất, cái trống rỗng ghê gớm nhất. Vẫn biết rằng cái mới sinh ra đã thay cho cái đã chết đi, nhưng cái chết đi ấy một khi đã ra đi thì đi biệt tăm, mà không bao giờ trở lại nữa, và chỗ nó ở trước đây thì vẫn trống ; sự vật chỉ là sự vật này có một lần mà thôi, con người chỉ là con người hoàn toàn định hình như thế này có một lần bây giờ mà thôi ; còn vật kia là vật mới thay chỗ cho vật cũ, thì vì nó là vật khác, cho nên nó không thay chỗ hẳn cho vật cũ được. Muốn thay được, thì tuyệt đối nó với vật cũ đã qua đi phải cũng là một. Tất cả cái thế giới này nó xốp như cái bọt biển, quả đất này thì đầy những lỗ hổng như cái sàng ; đâu đâu cũng đầy những chỗ nứt rạn ; có bao nhiêu người đã chết đi thì là có bấy nhiêu chỗ trống mà không ai chiếm, mỗi một người đã chết đi thì là một chỗ nứt rạn, một lỗ hổng lớn trong thế giới các sinh vật »[34]. Đáng lẽ ý kiến như thế có thể đưa tới nhiều câu hỏi mới, nhưng tiếc rằng Feuerbach không đặt lại vấn đề. Lập trường của ông vẫn là : phải đứng vào quan điểm của tinh thần hay là vào quan điểm của nhân loại, để vượt lên trên cái giới hạn của cá nhân.
Lấy quan điểm của tinh thần để vượt lên trên cái giới hạn của cá nhân, đó là giải pháp mà Feuerbach lấy lại của Hegel : ông nhắc lại rằng cái mục đích mà toàn thể thực tại nhằm tới, đó là chuyển từ những cái hình sắc khả giác tới Tinh thần. Theo quan niệm Hegel thì tinh thần không phải là cái vô hình vô sắc, nhưng là cái tổng hợp được tất cả ý niệm và các hiện tượng cụ thể hữu hình hữu sắc, cho nên ông viết : « Mục đích là tinh thần, mà tinh thần chính là cái chết làm tiêu tan cái hình sắc »[35]. Nói thực ra thì giải pháp này không dễ hiểu gì.
Giải pháp thứ hai dễ hiểu hơn : là lấy quan điểm nhân loại mà vượt lên trên giới hạn của cá nhân. Nói « nhân loại » thì ai nấy dễ hiểu hơn là nói « Tinh thần » theo kiểu Hegel. Đại khái như sau : cá nhân là hữu hạn thực, nhưng nó nằm ở trong nhân loại cho nên có thể nói là nó vô biên.
Những triết gia thừa tự tư tưởng của Hegel đều coi nhẹ nhân vị của cá nhân. Karl Marx cũng hiểu như thế , và trong Bản thảo về kinh tế và triết lý (1844), ông đã dùng từ ngữ của Feuerbach mà định nghĩa con người là vật có loại tính (Gattungswesen)[36]. Nhưng sau này Marx không dùng từ ngữ đó nữa, vì hai người không có một quan niệm về nhân loại như nhau. Thực vậy, quan niệm của Marx có tính cách xã hội và lịch sử, ông cho rằng con người là tất cả các liên quan xã hội, kinh tế và chính trị, còn quan niệm về nhân loại của Feuerbach thì nhẹ về yếu tố lịch sử, mà nặng về yếu tố tự nhiên, vì nó hạn hẹp vào liên quan nam nữ. Vì thế ta hiểu vì sao vào năm 1844 Feuerbach không nhận cộng tác với Marx trong hoạt động chính trị chọc trời quấy nước của ông : Marx chủ trương rằng sau khi phê bình trên trời (Feuerbach phê bình tôn giáo năm 1841) xong, thì đến lúc phải phê bình dưới đất, còn Feuerbach lại nghĩ rằng phê bình tôn giáo vẫn chưa xong, cho nên ông tiếp tục làm việc đó cho đến cùng.
Quan niệm của Feuerbach về nhân loại quả thực là hạn hẹp. Ông viết trong luận văn tiến sĩ (1828) : « Nam và nữ làm thành nhân loại »[37]. Như thế thiết tưởng một phần cũng là vì ông chú tâm đến từ nguyên tiếng Đức của chữ Gattung là loại, cùng một nguồn gốc như : Gatte là chồng, Gattin là vợ, Begattung là tính giao. Ông viết : « Cha và mẹ sinh ra anh, với tư cách là nhân loại (Gattung), và thực hiện trong cuộc tính giao (Begattung). (...) Khởi thủy đích thực của anh không phải là cha mẹ anh với tư cách là những cá nhân đã được sinh ra, nhưng với tư cách là con người, là nhân loại trong những cá nhân đó»[38].
Như thế là nhân loại ở trên cá nhân một cách tuyệt đối, nhưng nhân loại của Feuerbach xuất hiện như là thực tại tự nhiên, chứ không phải là thực tại tinh thần, vì nó không có tính cách xã hội và lịch sử. Kết quả là nhân loại đè bẹp cá nhân : cái đau khổ và cái chết làm cho ta thấy rõ như thế. Cá nhân chỉ có một thái độ là nhẫn nại chịu đựng. Feuerbach viết : « Những lúc anh đau khổ là những lúc cái loại (nhân loại), là thực thể tuyệt đối, ăn mừng cuộc toàn thắng. Những người ốm đau rên rỉ, những người sắp chết thở vắn thở dài, đó là những bài hát mừng thắng trận của loại (…)», và vì Feuerbach chủ trương rằng Thiên Chúa rốt cục cũng chỉ là nhân loại, cho nên ông viết tiếp : « Anh rên rỉ đau khổ, đó chính là chứng lý vật thể học chứng minh là có Thiên Chúa vậy »[39]. Để nói tổng quát về ba nền tảng trên đây của cái chết, Feuerbach kết luận : « Cái nền tảng vô hạn và vô định (der unbestimmt unendliche Grund) của cái chết của anh, đó là Thiên Chúa, tức là cái vô biên, vô hạn. Nền tảng hữu hạn và hữu định (bestimmten endlichen) thì là thời gian, không gian và sự sống, đó là những nền tảng mà ta cảm thấy được … Còn nền tảng vô hạn, nhưng hữu định của cái chết, đó là lý trí, tinh thần và ý thức»[40].
1.4 – Nền tảng của cái chết theo quan điểm tinh thần hay là tâm lý học
Đây là giai đoạn mà Feuerbach đứng vào quan điểm tinh thần để vượt lên trên giới hạn tự nhiên (thời gian, không gian và sự sống) của cá nhân.
Như đã nói trên đây, con người là một sinh vật cụ thể, sống trong thời gian và không gian, cho nên cá nhân có giới hạn cụ thể trong thời gian và không gian, cho nên có chết cũng là rất tự nhiên. Tuy vậy Feuerbach nhận thấy rằng có những người duy tâm vẫn tin là con người bất tử, vì họ cho những giới hạn cụ thể đó không phải là giới hạn thực. Hơn nữa, vì lẽ lý trí, tinh thần và ý thức là ba yếu tố làm nên con người. Cho nên nếu con người có bị giới hạn về ba yếu tố mà ta không cảm thấy được đó, thì mới thực là có giới hạn, mới chết thực sự vậy. Nói thế khác, cũng như đã nói trước đây về Thiên Chúa (hay là nhân loại), thì lý trí, tinh thần và ý thức cũng vừa là những cái làm nên cá nhân, vừa là những cái làm tiêu tan cá nhân.
Về ý thức, nhờ có ý thức mà con người vượt lên trên giới hạn tự nhiên của mình, và như thế là đạt tới ý niệm loại (Gattung), nhân loại, là có loại tính (Gattungswesen). Đó là ý kiến mà Feuerbach trình bày trong chương I của sách Bản chất đạo Thiên Chúa (1841). Marx đã tạm thời lấy lại quan niệm đó trong Bản thảo về kinh tế và triết lý (1844), đồng thời lại đã thêm vào cho nó tính cách thực hành, xã hội, kinh tế và chính trị.
Nhưng khi nói về ý thức thì Feuerbach vẫn giữ quan niệm đã trình bày trong luận văn tiến sĩ Luận về lý trí duy nhất, phổ thông, vô biên (1828) : « Ý thức thì lúc nào cũng vẫn thế, vẫn là một, vẫn duy nhất ; chỉ có những yếu tố hữu thức, đối tượng, nghĩa là những con người cụ thể nhận thức được về mình trong ý thức là có khác nhau mà thôi. Về tri thức thì mọi người đều là một như nhau, nhưng về đối tượng của tri thức thì người ta khác nhau và không thông đồng với nhau ; vì cái mà họ biết trong ý thức là chính họ, là những cá nhân đặc thù khác nhau »[41]. Như thế đã rõ là hễ có nhiều cá nhân thì ai nấy đều là giới hạn của người khác.
Vậy theo quan điểm tinh thần thì cái chết của cá nhân là thế nào ? Theo quan điểm này thì như Feuerbach nghĩ, cái chết của cá nhân « đó là cái hành động làm cho chủ thể đi ra khỏi cái căn bản, cái chủ thể tính của mình, để rồi chỉ còn là khách thể mà thôi ». Ông giải thích tiếp : « Cái bản ngã là chủ thể đang coi anh như là một khách thể, thì nó không phải là chính anh, như tôi đã nói trên đây, nhưng nó là cái bản ngã phổ thông, nó vẫn là một ở trong mọi người, nó là cái bản ngã thuần túy của chính cái tinh thần ; với tư cách là một người, là một khách thể thì anh không phải là nó, và cái điểm dị biệt này thì ta thấy rất rõ khi ta trông vào cái chết : vì ở trong trường hợp này, anh chỉ còn là khách thể mà thôi. Chết là lúc anh chỉ còn là khách thể như đồ vật (Gegenstaendlichkeit), không còn là cái chủ thể luôn luôn hoạt động, vĩnh viễn và bất tử »[42].
Xem như thế thì về mặt tinh thần, con người ta cũng có giới hạn và cũng chết như về mặt vật chất tự nhiên. Thực vậy, về mặt tinh thần thì trước khi hiện hữu thành một cá nhân, con người không là gì hết (…). Trước khi thành nên một cá nhân tự lập, thì cái mà người ta biết được đều là ở trong người khác và nhờ vào người khác cả. Feuerbach giải thích : « Cái ý thức của anh về chính mình anh, thì lúc đầu nó ở bên ngoài anh, chính những người khác mới là ý thức và tri thức của anh về chính mình anh : người khác biết về anh và đón tiếp anh ; mãi về sau này, khi anh thành ra tự lập về thân xác bên ngoài, thì anh cũng tự lập về bên trong ; những cái mà người khác biết về anh, thì bây giờ thành những cái anh biết về anh …Có thể nói như sau : anh nhận được từ tay người khác cái ý thức của anh như là một cái quà đã để sẵn. Nếu cái thân xác anh đã được ấp ủ trong lòng mẹ, thì cũng thế, cái bản ngã của anh cũng đã ở trong lòng mẹ, tức là trong ý thức của người khác vậy »[43].
Từ đó Feuerbach chủ trương rằng về mặt tinh thần cái chết chẳng qua chỉ là việc cá nhân trả lại cho người khác cái ý thức mà mình đã nhận được. Như vậy cái ý thức cũng giống như một nhiệm vụ mà cá nhân đảm nhận, rồi khi chết thì trả lại cho người khác. Sau đó thì cá nhân tồn tại trong ý thức và trong kỷ niệm của người khác : thể thức tồn tại không còn là ở vật chất bên ngoài, nhưng là ở tinh thần bên trong[44]. Vì thế nếu có đối thoại giữa cá nhân và nhân loại, thì nhân loại bao giờ cũng giữ phần thắng.
Tóm lại, cho dù cá nhân có ý thức đi nữa thì nó cũng phải chết. Mà hơn nữa, có chết đi như thế cá nhân mới đi cho đến cùng cái hành trình tinh thần hóa. Cho nên cái chết của cá nhân là lẽ đương nhiên, chứ không phải là một thảm kịch.
1.5 – Cái chết không là gì cả, bất tử cũng không là gì hết
Cuốn sách Những cảm nghĩ … đưa tới kết luận rằng cái chết không là gì cả và bất tử cũng không là gì hết. Nói thế khác, cái chết chỉ là một vấn đề giả tạo, vì nhiều lý do.
Theo như Feuerbach thì, trước hết, « trong liên quan hạn hẹp với chính mình, cũng như trong liên quan hạn hẹp với chúng ta, thì các cá nhân đã chết đi không còn là gì hết, nhưng họ vẫn tồn tại trong thực tại vô biên. Vì họ là những cá nhân có hạn định cho nên họ chỉ có chết đi đối với chính mình họ và đối với chúng ta, nhưng đối với bản tính con người và đối với thực tại vô biên thì không »[45].
Riêng đối với cá nhân thì cái chết cũng không là gì cả, vì nó không động gì đến cá nhân. Về điểm này thì Feuerbach lấy lại lập luận của Epikouros[46] (triết gia Hi lạp duy vật, 341-270 trước CN), ông giải thích : « Cái chết chỉ là cái chết và chỉ gây ra đau khổ trước khi người ta chết ; như vậy nó chỉ là một cái ảo ảnh : nó chỉ có vào lúc không có nó, và nó lại không có vào lúc có nó … Cái chết chỉ là cái chết đối với người sống, chứ không đối với người đang chết ; đối với loại người này thì nó chỉ có và chỉ ghê gớm bao lâu chưa có nó »[47]. Vậy cái chết là cái gì ? Thưa rằng nó chỉ là một cái ảo ảnh, một biểu tượng, chứ không phải là một thực tại. Ta tưởng tượng cái chết là giới hạn của sự sống. Nhưng nói đến cái chết tức là quả quyết rằng có thực tại là sự sống, mà sự sống cụ thể, tức là mạng sống, thì tất nhiên là bao giờ cũng có giới hạn. Có thế thôi. Cái chết chỉ là một kiểu nói.
Bất tử là gì ? Là phủ định cái chết, là không chết, là không có giới hạn, mà giới hạn thì lại không phải là một thực tại. Cho nên có phủ định nó thì cũng chẳng đi đến đâu, vì đó chỉ là phủ định giả tạo. Vậy khi ta nói cái nọ cái kia là bất tử thì ta chỉ có ý nói là nó vững chãi, nó có giá trị mà thôi.
Cái chết đã không là gì, bất tử cũng không là gì nốt, thì chỉ còn thực tại, thực tại hữu hạn trong thế giới này mà thôi. Ngoài ra không có vấn đề gì cả.
(còn tiếp)
Nguồn: dunglac.org
(*)Thiên khảo luận này đã xuất bản bằng Pháp văn : « La mort et le problème de Dieu dans la pensée de Ludwig Feuerbach », trong tạp chí Revue philosophique de Louvain, t. 73 (1975), tr 304-561. Nay tu bổ thêm và viết lại bằng Việt văn.
Xin chú ý : khi trưng dẫn tác phẩm của Feuerbach, tôi dùng các lối viết tắt sau đây : 1) SW là Saemtliche Werke (Tác phẩm toàn tập), do chính Feuerbach cho in thành 10 tập, tại nhà xuất bản Otto Wigand, tại Leipzig, từ năm 1846 đến năm 1866. – 2) SW(B) cũng là Tác phẩm toàn tập, nhưng do W. Bolin và F. Jodl cho in lại sau này, cũng thành 10 tập (1903-1911), và in lại lần thứ hai trong những năm 1959-1960, tại nhà xuất bản Frommann tại Bad Cannstadt gần Stuttgart. Tiếp theo bộ đó thì năm 1962, Hans Martin Sass cho in thêm phần phụ lục là 3 tập nữa, cho nên bộ SW(B) gồm tât cả là 13 tập. – 3) GW là Gesammelte Werke (tác phẩm sưu tầm được) , được ấn hành tại Berlin (Đông Đức) từ năm 1967 trở đi, do Werner Schuffenhauer đảm nhiệm, và đã trù tính tất cả là 16 tập.
[1] Luận văn này viết bằng tiếng La-tinh : De ratione una universali infinita, 1828 (Luận về lý trí duy nhất, phổ thông, vô biên).
[2] Gedanken ueber Tod und Unsterblichkeit, aus den Papieren eines Denkers, nebst Anhang theologisch-satyrischer Xenien, 1830 (Những cảm nghĩ về cái chết và tính bất tử, trích ra từ giấy tờ của một nhà tư tưởng, có kèm theo một ít câu suy nghĩ vừa có tính cách thần học, lại vừa có tính cách châm biếm).
[3] Thực ra thì Hegel chủ trương rằng Tinh thần tuyệt đối được phát triển theo ba giai đoạn, là nghệ thuật, tôn giáo và triết lý. Như ta thấy, Feuerbach đã bỏ mất giai đoạn nghệ thuật.
[4] Một cuốn in năm 1833, về thời gian từ Francis Bacon (1561-1626) là triết gia người Anh, cho đến Baruch Spinoza (1632-1677) là triết gia Hòa-lan ; cuốn thứ hai (1837), về triết gia người Đức, là Georg Wilhelm Leibniz (1646-1716) ; cuốn thứ ba (1838), về nhà tư tưởng người Pháp, là Pierre Bayle (1647-1706). Ba cuốn đó nằm trong SW-tập IV-VI, trong SW(B)-tập III-V, hay là trong GW-tập 2-4.
[5] Grundsaetze der Philosophie der Zukunft (1843), SW-II, tr 343.
[6] Xem : Gotthold Mueller, « Die Welt als ‘Sohn Gottes’ – Grundstrukturen der Christologie des deutschen Idealismus », Neue Zeitschrift fuer Systematische Theologie und Religionsphilosophie, 1968/1, tr 94-95.
[7] Das Wesen der Religion, SW-I, tr 410.
[8] SW-VIII ; SW(B)-WIII ; GW-6.
[9] SW(B)-XI, tr 69-323.
[10] SW-III, tr 149-259.
[11] SW-VIII, tr 17-18.
[12] Xem : Trần Văn Toàn, « Marx et le problème de la mort », trong tập kỷ yếu UNIVERSITAS, Numéro du Centenaire des Facultés Catholiques de Lille, tạp chí Mélanges de Science Religieuse, Lille, t. 34 (1977), tr 187-196.
[13] SW(B)-XI, tr 58, chú giải số 33.
[14] SW(B)-XI, tr 45 : « (…) quod vita sive sensus, qui non nisi, quod revera sit, (positivum) perciperet, non sui ipsius negationem, neque quisquam igitur mortem suam posse sentire ». Cũng nên nhắc lại lập luận của triết gia Epikuros như sau : bao lâu ta còn sống, thì không có cái chết, và khi có cái chết, thì không còn ta nữa, cho nên không có gì mà phải sợ cả, không còn ai sợ nữa.
[15] SW(B)-XI, tr 83. Trong cuốn sách nghiên cứu rất tỉ mỉ quan niệm của các nhà tư tưởng thời Khai-minh, (Aufklaerung / Lumières) thế kỷ XVIII, về giai đoạn cuối cùng của thế giới này (thế mạt, tận thế), tác giả Peter Cornehl cũng nhận định như Feuerbach trên đây : cá nhân là bất tử (Die Zukunft der Versoehnung – Eschatologie und Emanzipation in der Aufklaerung, bei Hegel und in der hegelschen Schule, Goettingen, Vandenhoek-Ruprecht, 1971, tr 29.
[16] SW(B)-XI, tr 209-210.
[17] SW(B)-XI, tr 210.
[18] SW(B)-XI, tr 212.
[19] SW(B)-XI, tr 213-214.
[20] Hegel, Vorlesungen ueber die Philosophie der Religion (Những bài học về Triết lý về Tôn giáo), trong bộ Tác phẩm (Werke), Frankfurt/Main, Suhrkamp, 1969, tập 17, tr 233.
[21] SW(B)-XI, tr 21.
[22] SW-VII, tr 107. – GW-5, tr 135.
[23] SW(B)-XI, tr 93.
[24] SW(B)-XI, tr 94.
[25] Khi dùng từ ngữ « tinh thần », Hegel không có ý nói đó là cái đối nghịch với « vật chất », nhưng là cái tổng hợp được « chủ thể » và « khách thể ».
[26] SW(B)-XI, tr 104. Hiện hữu vị kỷ ở đây phải hiểu là chủ thể, là hiện hữu có ý thức, vì đối vật là khách thể đối diện với chủ thể, là khách thể đối với chủ thể.
[27] SW(B)-XI, tr 105.
[28] SW(B)-XI, tr 106-107.
[29] Chữ Hi-lạp « Physis » có nghĩa là « thiên nhiên », nhưng người Au châu ngày nay lại dùng trệch nghĩa đi. Ví dụ Aristôtêlês gọi môn học về thiên nhiên là « Physikê », thì người Au châu lại dùng chữ « Physik » hay « physique » để gọi môn « vật lý học ». Ví dụ khác : Feuerbach dùng chữ « Physiologie » để chỉ môn « thiên nhiên học », thì người Âu châu ngày nay lại dùng chữ đó để chỉ môn « sinh lý học » !
[30] SW(B)-XI, tr 133.
[31] SW(B)-XI, tr 134-135 và 170.
[32] SW(B)-XI, tr 134-135 và 170.
[33] Xem SW(B)-XI, tr 165-166.
[34] SW(B)-XI, tr 162-163.
[35] SW(B)-XI, tr 143.
[36] Xem : Trần Văn Toàn, « Notes sur le concept de Gattungswesen dans la pensée de Karl Marx », Revue Philosophique de Louvain t. 69 (1971), tr 525-536.
[37] « Mari ac femina genus constituitur et continetur » (SW(B)-XI, tr 53, cước chú số 11). Cũng xem Bản chất đạo Thiên Chúa, SW-VII, tr 217-218.
[38] SW(B)-XI, tr 168.
[39] SW(B)-XI, tr 179-180.
[40] SW(B)-XI, tr 123.
[41] SW(B)-XI, tr 195.
[42] SW(B)-XI, tr 197-198.
[43] SW(B)-XI, tr 202-203.
[44] SW(B)-XI, tr 203.
[45] SW(B)-XI, tr 313.
[46] Ông này chủ trương rằng bao lâu ta còn sống thì chưa có cái chết, và khi có cái chết thì không còn ta nữa, cho nên ta không việc gì mà phải sợ chết.
[47] SW(B)-XI, tr 313-314.
Ý KIẾN BẠN ĐỌC