MỘT NHÂN CHỨNG QUAN TRỌNG THỜI GIÁO HỘI CỔ THỜI: EUSÈBE DE CÉSARÉE
JACQUES LIÉBAERT
J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Phân III: "Bình minh của một giai đoạn mới - Các giáo phụ đầu tiên của thế kỷ IV". Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986.
Eusèbe là nhân chứng cho chúng ta theo hai danh nghĩa. Một đàng, sinh khoảng năm 263 và mất năm 339, bản thân ông đã trải qua và đã sống cách mạnh mẽ "thời bình an đầu tiên" của Giáo Hội, rồi cuộc bách hại rộng lớn, tiếp đến là sự lật ngược vị thế của người Kitô hữu trong đế quốc vào những năm 312 - 313 -chính vào thời điểm này, ngài trở thành Giám Mục Césarée thuộc Palestine- và cuối cùng là triều đại Constantin, về vấn đề Arius, Công Ðồng Nicée và những hậu kết của nó. Ngài là người chủ chốt hoạt động trong cuộc tranh cãi về Origène, trong cuộc tranh luận về Arius, nhất là trong chính Công Ðồng Nicée. Như Lactance, ngài cũng thuộc về cả hai triều lịch sử, và còn hơn Lactance, vì ngài sống đủ để tham dự vào giai đoạn đầu của cuộc tranh luận Arius, khác với người cùng thời của ngài bên Latinh. Cả hai cùng thuộc một thời kỳ, cả hai đều chứng kiến tiến triển hoàn toàn đảo lộn về chính trị - tôn giáo những năm 302 - 324. Cho dù tất cả những ngăn cách giữa kẻ Latinh và người Hylạp, giữa nhà nhân bản giáo dân với người của Giáo Hội, giữa nhà tu từ say mê ngôn ngữ văn hoa với nhà thông thái, tác phẩm của các ngài vẫn có một số điểm đồng quy rất lạ lùng, cho thấy rõ cả hai chia sẻ những mối bận tâm, những khát vọng của cùng một thời đại. Cả hai đều có tham vọng xây dựng một tổng hợp lớn lao về hộ giáo và giáo lý, nhưng đều tỏ ra là những người được trang bị tốt cho hộ giáo hơn là cho thần học. Cả hai đều là những người tiên phong trong suy tư mang chiều kích vừa chính trị vừa tôn giáo về lịch sử và về các quan hệ giữa Giáo Hội và đế quốc theo Kitô giáo. Cả hai đều mơ tưởng tới việc đảm nhận cách dứt khoát, với sự khách quan và thích đáng hơn những người đi trước họ, di sản của văn hóa Latinh, với Lactance, và của văn hóa Hylạp, với Eusèbe, trong một nhãn quan Kitô giáo toàn thắng. Ðàng khác, và đây là nét đặc biệt của Eusèbe, sự tò mò trí thức của ngài, cộng với một ý hướng về truyền thống Kitô giáo giữa lòng truyền thống nhân loại, dẫn ngài tới chỗ quan tâm không biết mệt mỏi đến quá khứ dù gần hay xa, tới việc sưu tầm các tài liệu và khai thác một nền văn chương còn tồn tại ở thời ngài. Ngài đã truyền lại cho chúng ta một kho tài liệu tham khảo vô giá về các thời đại cổ xưa, nhất là về các thời đại của Kitô giáo. Thông tin chúng ta có được về lịch sử Giáo Hội ở các thế kỷ II và III sẽ rất sơ sài nếu không có bộ "Lịch sử Giáo Hội" của Eusèbe. Một Kitô hữu, vừa biết để ý hết sức tới thời đại của mình, vừa chú tâm thu góp di sản của một quá khứ mà mình là một trong những người am tường nhất thời bấy giờ, đó là Eusèbe, với những hạn chế, nhưng có cả những công lao rất lớn của ngài.
NGƯỜI MÔN ÐỆ CỦA PAMPHILE VÀ ORIGÈNE Eusèbe được đào tạo tại Césarée thuộc Palestine. Những người thầy đào luyện ngài trở thành người làm việc hăng say và trở thành nhà thông thái là Pamphile, và qua Pamphile, là Origène. Eusèbe thừa hưởng truyền thống trí thức của Alexandrie mà Pamphile tiếp tục thắp sáng. Với nhiệt tình và sự thông minh, Pamphile đã biến Césarée thành một trung tâm phổ biến tư tưởng và các phương pháp khoa học của Origène. Là người bênh vực xác tín nhưng không cuồng tín, cho vị thầy người Alexandrie trong những cuộc tranh luận đầu tiên xoay quanh các khía cạnh gây tranh cãi trong tổng hợp của Origène. Pamphile trước hết là người bảo tồn sưu tập các cảo bản do Origène thiết lập trước đây. Ông tìm kiếm và thu góp các tác phẩm tản mác. Chung quanh "kho sách Origène" này, ông tổ chức một thư viện, lập các thư mục, và làm phong phú với các cảo bản và bản sao. Ðây là bộ sưu tập lớn đầu tiên của Kitô giáo về các sách thuộc cổ thời. Trong nhà của ông có một cộng đoàn chuyên lo nghiên cứu và sống khổ hạnh. Ông nhận thức được những năng khiếu của Eusèbe, hướng dẫn cách làm việc khoa học về Thánh Kinh, dạy cho Eusèbe hiểu biết và khâm phục công trình của Origène. "Eusèbe (con) của Pamphile" đó là danh xưng Eusèbe tự đặt cho mình - và danh xưng đó sẽ mãi mãi gắn liền với ngài - để ghi ơn người cha tinh thần. Eusèbe thừa hưởng từ Pamphile sự yêu thích các cảo bản, mối quan tâm truyền đạt các bản văn có đối chiếu phê bình, lòng nhiệt thành đối với các bản văn thánh của Thánh Kinh. Thầy trò trở thành những người cùng cộng tác, cùng nhau làm việc trên bản LXX dựa vào bộ Hexaples (Sáu Cột). Các ngài cố gắng hoàn chỉnh những ấn bản Cựu và Tân Ước. Dưới sự thúc đẩy của các ngài, Césarée thực sự trở thành một trung tâm ấn hành Thánh Kinh Hylạp, và về sau, khi đóng đô tại Constantinople, Constantin muốn có được 50 bản Kinh Thánh dành cho các nhà thờ khác nhau, ông đã nhờ đến cơ sở ở Césarée, qua trung gian của Eusèbe. Pamphile và Eusèbe cùng nhau điều hành và làm phong phú thư viện do Origène để lại. Các ngài thu thập thư từ của Origène, cùng nhau biện hộ cho vị tôn sư người Alexandrie trước những bác bẻ kịch liệt và quá đáng về con người và tư tưởng Origène tại một số nơi, đặc biệt là ở Palestine. Bị bắt năm 307, trong nhà tù, Pamphile với sự giúp đỡ của môn đệ, đã soạn được tác phẩm "Biện hộ" cho Origène chia thành năm cuốn. Sau đó Eusèbe thêm vào cuốn thứ sáu, nhưng chúng ta chỉ còn giữ được cuốn 1, qua bản dịch Latinh. Sau cái chết anh hùng của thầy mình, Eusèbe bày tỏ lòng tôn kính lần cuối bằng cách viết về "Cuộc Ðời" ngài, cuốn này cũng bị thất lạc. Chính Eusèbe cũng phải trốn sang tận Aicập và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Eusèbe khi trở thành nhà Kinh Thánh, đã góp phần độc đáo của mình qua việc cung cấp những dụng cụ làm việc cho khoa Kinh Thánh. Ngài soạn thảo một tác phẩm quan trọng về địa lý Thánh Kinh, nhưng chúng ta chỉ còn giữ được một trong bốn phần nguyên thuỷ, được biết dưới tên gọi "Oncmasticon" : đó là danh mục các địa danh trong Thánh Kinh (từ Hylạp onoma có nghĩa là tên), có chú thích địa lý và lịch sử về mỗi địa danh. Thánh Jérôme sẽ dịch cuốn này sang tiếng Latinh và phổ biến ở Tây phương. Ðây là nguồn tài liệu về Thánh Ðịa ngày nay vẫn còn hữu dụng. Eusèbe cũng muốn làm cho việc nghiên cứu các sách Phúc Âm được dễ dàng : noi theo sáng kiến của Ammonius, một nhà thông thái ở Alexandrie thế kỷ III, ngài chia Phúc Âm thành những đoạn ngắn (chưa phải là cách chúng ta chia thành chương, câu, nhưng là cách đánh số liên tục cho mỗi Phúc Âm). Tiếp đến, ngài dựa vào cách đánh số đó lập ra những bản chỉ ra các đoạn chung của bốn Phúc Âm hoặc của ba, hoặc riêng của mỗi Phúc Âm. Hệ thống đối chiếu này sẽ được thánh Jérôme dùng lại trong bản Phổ Thông của ngài. Mặt khác, người ta đã có thể tái tạo lại phần lớn hai tác phẩm chú giải quan trọng của Eusèbe : một cuốn "Chú giải về Isaia" và một cuốn "Chú giải các Thánh Vịnh".
SỬ GIA KITÔ GIÁO Eusèbe đã sớm quan tâm đến lịch sử. Tác phẩm đầu tiên của ngài dường như là cuốn "Biên niên sử" (khoảng năm 303), tác phẩm này trước hết trình bày tóm tắt lịch sử cổ đại, từ người Chaldée đến người Roma, dựa vào sử liệuDothái và dân ngoại, sau đó là những bản đối chiếu niên đại Thánh Kinh và niên đại lịch sử các dân tộc. Ðây không phải là cố gắng đầu tiên về niên đại thế giới. Có những người đi trước, cả Dothái lẫn Kitô hữu, đã thử làm, chẳng hạn Jules người Phi Châu, bạn của Origène, đã thực hiện nhằm một mục đích nhất định : chứng minh mạc khải của Môsê xưa hơn nên đáng kính hơn triết học Hylạp và rằng triết học này dựa vào mạc khải của Môsê. Ở đây, lịch sử là con đẻ của khoa hộ giáo, nhưng sự uyên bác lạ lùng của Eusèbe đã làm cho kho sách của ngài thực sự là tác phẩm của một sử gia, một tác phẩm sẽ được rút tỉa trong nhiều thế kỷ và đến nay vẫn là nguồn hiểu biết của chúng ta về thồi thượng cổ. Tiếp theo là tác phẩm "Lịch sử giáo Hội" mà chắc hẳn tác giả đã thu góp chất liệu trong một thời gian lâu trước khi cho phát hành ấn bản đầu tiên năm 312, được bổ túc giữa các năm 315 và 317, và cuối cùng được sửa chữa sau khi Constantin chiến thắng Licinius (324) để xóa bỏ hết sức có thể ký ức về ông này. Tác phẩm dừng lại chính vào năm 324. Trái với điều chúng ta mong đợi, Eusèbe không tường thuật Công Ðồng Nicée và những biến cố tiếp theo trong Giáo Hội mà ngài là một trong những người đóng vai chính, vì ngài cho điều đó là không hay. Lý do có thể nằm trong phần nào lập trường mơ hồ của ngài, tuy không tán đồng những ý tưởng của Arius, nhưng ngài lại là một trong những người bảo vệ Arius. Về cuối đời, ngài còn viết một vài tác phẩm ca ngợi Constantin, trong đó có cuốn mang tựa đề "Cuộc đời của Constantin", nhưng những tác phẩm này không làm thoả mãn ham muốn hiểu biết của chúng ta. Có thể nói rằng Eusèbe là người phò Constantin vô điều kiện. Cũng như các tín hữu đương thời, bị lóa mắt về những biến cố năm 312 - 313, từ đây, ngài nhìn thấy nơi vị anh hùng của mình dụng cụ của Thiên Chúa Quan Phòng, kiểu mẫu của một hoàng đế theo Kitô giáo, người kiến tạo sự phối hợp mẫu mực giữa đế quốc và Giáo Hội, người bảo trợ Giáo Hội, và một cách nào đó, theo kiểu nói của chính Constantin, "là người canh giữ bên ngoài" : liên minh thật vĩ đại và quyến rũ, nhưng dường như Eusèbe đã không linh cảm được những nguy cơ tiềm ẩn đối với tự do của Giáo Hội. Thứ thần học chính trị nhuốm màu sắc đắc thắng này sẽ mau chóng bị các sự kiện phi bác. Vinh quang của Eusèbe sử gia đó là ký ức ngài để lại cho chúng ta về Giáo Hội của ba thế kỷ đầu. Tư liệu của ngài tất nhiên là rất phiến diện. Ngài xử dụng những gì còn tồn tại của văn chương Kitô giáo cổ thời, và có thể ngài còn đọc nhiều tác phẩm mà chúng ta đã thất lạc ; ngài cũng xử dụng rất nhiều các hồ sơ thư tín : thư của các Giám Mục được thu thập lại trước đó xoay quanh một đề tài tranh luận, người ta đã lập các hồ sơ liên quan chẳng hạn đến ngày mừng lễ Phục Sinh (đặc biệt các thư của Irénée mà Eusèbe đã trích dẫn những đoạn quý giá), đến chủ thuyết luân lý tiết dục (encratisme) hoặc vấn đề lapsi . ngài cũng lợi dụng thư tín của Origène . Bộ "Lịch sử Giáo Hội" không cố ý dựng lại cách liên tục quá trình phát triển của Giáo Hội, đúng hơn, nó trình bày một loạt "ảnh chớp nhoáng" (flashes) tùy theo nội dung các tài liệu mà tác giả có trong tay. Dầu như thế, nó vẫn vô cùng quý giá nhờ các nhân vật, sự kiện, tác phẩm được nó nêu lên, mà có khi chúng ta sẽ hoàn toàn không biết đến nếu không có bộ lịch sử đó. Làm sao chúng ta không biết ơn Eusèbe được, khi ông lưu giữ cho chúng ta bức thư đầy xúc động của các Giáo Hội Vienne và Lyon về cuộc bách hại năm 177 tại Lyon ? Hay những nét phác họa về tiểu sử Origène ?
MỘT DỰ ÐỊNH HỘ GIÁO RỘNG LỚN Eusèbe được kể vào số những nhà hộ giáo chính của cổ thời, và cả về điểm này, ngài là người thừa kế một truyền thống xa xưa. Cũng có thể nói đây là khía cạnh cơ bản nhất trong công trình của ngài. Quả vậy, dường như toàn bộ các tác phẩm của ngài về lịch sử, hộ giáo, tín lý đều nhằm thực hiện một dự định rộng lớn và độc nhất. Cuốn "Nhập môn căn bản tổng quát", soạn thảo trước khi ngài làm Giám Mục. Hẳn phải phác họa những đường nét chính của dự phóng : đi từ những sự kiện và tài liệu trích dẫn dồi dào (đây là một trong những đặc tính độc đáo trong công trình của nhà hộ giáo Eusèbe). Ông cho thấy Kitô giáo chẳng những không phải là một sự cách tân ngạo ngược, mà lại là sự chín mùi và kết trái của những truyền thống đáng kính nhất mà người ta tìm lại được các dấu vết trong ngoại giáo cũng như trong Dothái giáo, một khi lột bỏ đi lớp vỏ thô thiển bên ngoài : Eusèbe đặc biệt nhạy cảm về lời trách cứ của văn hóa Hylạp chống lại đức tin Kitô giáo : cho rằng đức tin còn "mới mẻ" và chỉ "mới có" . Ðối với người thời đó, tính "cổ xưa" là tiêu chuẩn của chân lý và chủ chăn của chân lý là truyền thống. Ðã từng có một tác giả Kitô giáo chống lại vị trí ưu việt đó của truyền thống hoặc của "tục lệ" con người. Về phần mình, Eusèbe nghĩ Kitô giáo từ đây đã đủ mạnh, đủ hội nhập vào xã hội để có thể tự giới thiệu mình như là sự hoàn chỉnh của truyền thống chính thực và cổ xưa nhất, nó có thể vừa tiếp nhận truyền thống đó vừa gạn lọc nó một cách khắt khe, và như vậy dung hòa được tính mới mẻ thực sự của Kitô giáo và sự trung thành với quá khứ, đồng thời chứng minh được tính chất hữu lý của mình. Chính các tôn giáo dân ngoại mới bị xem là bước thụt lùi vô lý. Eusèbe đặt câu hỏi : Các Kitô hữu có phải là người Hylạp không ? Có phải là người "man di" không (tức không phải là người Hylạp) ? Hay là một chủng tộc thứ ba ? Cảm tưởng người Kitô hữu tạo nên một "tertium genus" không phải là hiếm nơi các nhà hộ giáo trước đó. Câu trả lời của Eusèbe tinh tế hơn : chủng tộc thứ ba, nếu có, sẽ không chối từ hai chủng tộc kia ; các Kitô hữu "Hylạp theo chủng tộc, Hylạp theo tinh thần" khước từ di sản tôn giáo ngoại đạo, chứ không khước từ phần đóng góp tích cực của di sản văn hóa và triết học của nó. Cũng thế, họ đảm nhận cả phần di sản "man di" của Dothái giáo. Kitô giáo vượt qua điều có trước mình bằng cách hoàn tất nó, có thể đảm nhận những gì tốt nhất của nó vì đó là một sự "chuẩn bị cho Phúc Âm" do Ý Chúa Quan Phòng. Dưới mắt của Eusèbe, lịch sử cho thấy rằng ngay từ đầu Thiên Chúa đã nhẫn nại hướng dẫn việc dạy dỗ nhân loại. Với giờ của Kitô giáo thì sự lên ngôi của một nhân loại thành toàn đã điểm. "Chiến thắng" của Giáo Hội do ý Chúa quan phòng đối với những kẻ bách hại hiển nhiên xác nhận điều đó. Chiến thắng này đem lại cho niềm hy vọng Kitô giáo một màu sắc mới. Nước Trời đã được xây dựng trong thế giới này. Song song với tác phẩm lịch sử, Eusèbe còn soạn thảo một công trình hộ giáo cách có phương pháp. Những cuốn chính của công trình này là : "Chuẩn bị Phúc Âm", "Minh chứng Phúc Âm" và "Thần hiển". Cuốn thứ nhất cho thấy mạc khải Dothái giáo ưu việt hơn ngoại giáo cũng như sự hài hòa của nó với triết học ; cuốn thứ hai muốn minh chứng rằng mầu nhiệm Ðức Kitô được loan báo trong tất cả Cựu Ước ; cuốn thứ ba trình bày công trình của Ngôi Lời trong tạo dựng và nhập thể. Ngoài những mục tiêu tổng quát, tất cả chứng minh ngài đưa ra là nhắm vào cuốn "Chống người Kitô hữu", một cuốn sách có lời lẽ đanh thép, và tương đối mới ra của Porphyre, triết gia lừng danh theo khuynh hướng Tân-Platon. Eusèbe hiểu tầm quan trọng của cuốn sách này và chúng ta biết ngài đã soạn cả một tác phẩm lớn có hệ thống để phản bác lại, tiếc rằng tác phẩm đó đã bị thất lạc.
MỘT THẦN HỌC CÒN TRANH CÃI Tác phẩm hộ giáo của Eusèbe rất dồi dào và hết sức uyên bác gây thích thú cho khoa học ngày nay, các tác phẩm đó còn là một dẫn nhập vào thần học. Những năm cuối đời, Eusèbe quả thực đã hoàn thành được tác phẩm "Thần học của Giáo Hội" (Théologie ecclesiastique), trong đó chủ yếu ngài khai triển học thuyết của mình về Ðức Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong tác phẩm đó, ngài cũng rõ ràng nhắm vào một đối thủ lúc bấy giờ là Giám Mục Marcel thành Ancyre (Ankara), nhà thần học cuối cùng theo hình thái thuyết, còn sót lại ngay giữa thế kỷ IV. Eusèbe đã từng lên tiếng chống lại ông trong cuốn "Chống Marcel" (Contra Marcellum). Hai tác phẩm tín lý này hoàn toàn có lý khi bác bỏ hình thái thuyết, dầu vậy vẫn để lộ những hạn chế của Eusèbe nhà thần học. Giáo lý của ngài về Ngôi Lời thoát thai điển hình từ một quan niệm phẩm trật trong đó Chúa Con và Chúa Thánh Thần được xếp vào hàng thấp hơn về thần tính, dù vẫn siêu việt trên các thụ tạo. Từ nơi Origène, Eusèbe chỉ còn giữ lại khuynh hướng hạ phục thuyết này nhưng lại không có những sửa chữa mà vị thầy đã thực hiện. Cách hiểu của ngài về Nhập Thể như là sự kết hợp của Logos với một thân xác nhân loại, trong đó Logos đóng vai trò linh hồn, là một sai lạc do hoàn toàn quên đi giáo lý phong phú của Origène về linh hồn nhân loại của Ðấng Cứu Thế. Thần học của ngài tuy không yếu kém như thần học của Lactance, dầu vậy vẫn là thứ thần học chắc chắn đã lỗi thời. Niềm tin của Eusèbe vào Ðức Kitô Con Thiên Chúa chắc chắn là điều khong thể nghi ngờ, ngài không bao giờ tán đồng những luận đề táo bạo nhất của Arius, nhưng ngài không phải là không có thiện cảm với các ý tưởng của Arius. Ở Nicée, ngài cố gắng làm sao cho tín biểu của Giáo Hội Césarée được chấp thuận, vì tín biểu này có những từ ngữ đủ rộng để mở ngõ cho Arius. Ngài tán thành từ ngữ "đồng bản thể" (Comsubstantiel) nhưng với sự ngập ngừng và lúng túng. Sau Công Ðồng, ngài mau mắn đứng vào hàng ngũ các Giám Mục che chở nhóm Arius, ngài đã dự phần vào những vận động mưu mô, có sự hỗ trợ của hoàng đế, nhằm chống lại những người bênh vực tín biểu Nicée là Eustathe thànhAntioche và thánh Athanase thành Alexandrie. Khi cùng với các Giám Mục mưu mô tiếp tay cho cuộc bút chiến tệ hại này, ngài chịu một phần trách nhiệm về việc làm cho tranh luận về Arius kéo dài một cách tai hại. Tuy nhiên, người ta có thể tin được rằng ngài là con người ngay thật và vô vị lợi ; để thưởng công cho các việc làm của ngài, Constantin muốn đưa ngài lên Tòa Giám Mục Antioche lừng tiếng, Eusèbe đã từ chối, ngài muốn ở lại nơi ngài đã làm việc lâu năm, bên cạnh thư viện Césarée. Có thể nói, chính nhờ những con người như Origène, Pamphyle, Eusèbe mà Giáo Hội Ðông phương đã có được một hàng giáo sĩ có trình độ trí thức rất cao trong suốt thế kỷ IV.
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM
G. BARDY. "La théologie dEusèbe de Césarée daprès lhistoire ecclésiatique" Revue dHistoire Ecclésiastique, t. 50. 1955, p. 5 - 20. M. J. ROUDEAU - J. KIRCHMEYER, "Eusèbe de Césarée" dans Dictionnaire de Spiritualité, t. IV, 1960, col, 1687 - 1690. Các bản dịch trong "Sources Chrétiennes" : Histoire ecclésiastique, Préparation évanggélique I - XIII.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC