Triết học tôn giáo

Tính không khoan nhượng của đức tin. Thánh Athanase thành Alexandrie

GIÁO PHỤ - Mục lục

 

TÍNH KHÔNG KHOAN NHƯỢNG CỦA ÐỨC TIN

THÁNH ATHANASE THÀNH ALEXANDRIE

 

JACQUES LIÉBAERT

 


J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Phân III: "Bình minh của một giai đoạn mới - Các giáo phụ đầu tiên của thế kỷ IV". Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986.


 
 

MỘT "TRỤ CỘT" CỦA GIÁO HỘI

Kiểu nói trên là của thánh Grégoire de Nazianze trong bài tán dương Athanase. Thực vậy, trụ cột hay đá tảng là hình ảnh chúng ta liên tưởng đến khi nhìn tới vai trò của Athanase trong Giáo Hội của thế kỷ IV, một Giáo Hội bị xâu xé bởi cơn khủng hoảng trầm trọng về giáo lý, thêm vào đó, là khủng hoảng về chân tính trước một quyền lực chính trị Kitô giáo đang xâm lấn. Athanase không có được kiến thức của môt Eusèbe thành Césarée, cũng không có được sự sắc bén trí thức của một Eustathe. Thế nhưng, khi tiếp xúc với ngài, người ta đo lường được nơi Eusèbe mức độ khiếm khuyết trầm trọng về mặt thần học chính trị và về thần học nói chung. Hẳn nhiên, do có khiếu hoạt động hơn và may mắn hơn Eustathe, ngài đã đạt đến kết quả cuối cùng của cuộc chiến đấu mà Eustathe đã sớm rời bỏ, nhưng với giá của biết bao nhiêu nỗ lực ! Cuộc đời ngài hầu như trùng với cơn bão Arius : sau khi tháp tùng Giám Mục Alexandrie dAlexandrie của mình với tư cách là thư ký, chính ngài trở thành thủ lãnh Giáo Hội Aicập năm 328, và tiếp tục cương vị đó cho đến khi qua đời năm 373. Lịch sử đời Giám Mục của ngài hòa với chính lịch sử của cuộc tranh luận về Arius ; đó là 45 năm thăng trầm biến chuyển, trong đó có 18 năm phải sống lưu đày hay ẩn náu ; đúng là một pho tiểu thuyết mà chúng ta biết được nhiều chi tiết nhờ những tác phẩm dưới hồ sơ lịch sử mà chính Athanase soạn thảo để tự bênh vực và bênh vực cho Nicée. Tác phẩm của ngài thuộc vào thời kỳ hậu-Nicée đặc biệt này. Thời gian khoảng 60 năm này là khoảng thời gian cần thiết để mọi Kitô hữu có thể tích hợp được phần đóng góp cũng như những hệ lụy của Công Ðồng chung đầu tiên này. Athanase, người bảo vệ không nao núng "đức tin của Nicée", kẻ bênh vực bất khuất cho sự độc lập của Giáo Hội trước các hoàng đế nghiêng theo Arius, người nâng đỡ hữu hiệu phong trào đan tu mới khai sinh, người kiến tạo sự hòa giải giữa các Kitô hữu mặc dầu có tính cách tranh đấu và độc đoán, điều có thể hiểu được một phần là vì đó là thời khó khăn và bạo hành. Athanase đã là một trong những người phòng giữ cho Giáo Hội khỏi phải nhìn thấy, nếu không phải là đức tin của mình, thì ít ra là sự đoàn kết của Giáo Hội tiêu tan trong cơn bão và là một trong những người duy trì sức sống của Giáo Hội trong những thời điểm đặc biệt khó khăn và có tính chất quyết định.

 

NIÊN BIỂU VỀ THÁNH ATHANASE

-  325, Athanase tháp tùng Giám Mục của mình tới Công Ðồng Nicée.

-  328, Athanase, Giám Mục Alexandrie.

-  335 bị cách chức bởi một Công Ðồng ở Tyr, bị đầy đi Trèves.

-  Trước năm 337, Arius mất.

-  337, Constantin mất.

-  337, trở lại Alexandrie.

-  339 Athanase tới Rome lánh nạn.

339, Eusèbe de Césarée mất.

-  340, Constant ở Tây phương ; Constance ở Ðông phương.

343 ly khai giữa hàng Giám Mục theo Nicée và hàng Giám Mục theo Arius.

-  346 trở lại Alexandrie.

-  350 Constant mất.

-  Khoảng 350 thánh Hilaire, Giám Mục Poitiers.

-  353 chỉ còn Constance là hoàng đế.

-  356 Athanase bị đuổi khỏi Alexandrie.

-  356 thánh Antoine mất.

-  360 sức mạnh của thuyết Arius lên đến tột điểm.

-  361, hoàng đế Julien.

362 trở lại Alexandrie, nơi ngài triệu tập Công Ðồng. Bị đày trở lại.

363 hoàng đế Jovien.

364 Valentinien I ở Tây phương ; Valens ở Ðông phương.

366 vĩnh viễn về lại Alexandrie.

367-368 thánh Hilaire mất.

370 thánh Basile, Giám Mục Césarée thuộc Cappadoce.

-  373 thánh Athanase qua đời.

 

 

Athanase đã được hấp thụ một nền giáo dục cổ điển truyền thống ở Alexandrie, thông thạo về triết học. Tuy nhiên, ngài xuất hiện như một người của Giáo Hội hơn là một nhà nhân bản theo kiểu các nhà trí thức thời trước ở Alexandrie. Ngài không đi theo hướng nghiên cứu khoa học và duy lý như Origène. Phải nói rằng hoàn cảnh không để ngài còn được bao nhiêu thời giờ để làm công việc đó. Thực vậy, từ lúc nhậm chức Giám Mục Alexandrie thì ngài đã phải ở trong tư thế đương đầu. Ngay ở Aicập, Giáo Hội phát xuất từ nhóm ly khai theo chủ trương nghiêm nhặt của linh mục Mélèce trong thời gian cuộc bách hại cuối cùng, đã không nhìn nhận quyền bính của ngài. Ðàng khác, phe Arius biết ngài là người đặc biệt cương quyết chống lại họ, giống Eutathe thành Antioche. Bị công kích từ cả hai phía, ngài bị buộc phải rời Alexandrie từ năm 331, đến trước Constantin để tự biện hộ, nhưng các địch thủ của ngài toa rập với nhau mở một chiến dịch có hệ thống nhằm bôi nhọ ngài. Một hội nghị nhóm họp ở Tyr do các Giám Mục phần đông là thù nghịch với ngài, đã truất phế ngài và hoàng đế đã đày ngài sang Tréves bên Tây phương. Tại đây, Athanase chiếm được thiện cảm của thế giới Latinh, quân chủ bài có thế lực trong cuộc chiến đấu của ngài. Lúc Constantin mất (337) và ba con trai lên kế vị : Constantin II, Constance và Constant. Ngài đã về lại Alexandrie, nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Từ năm 339, ngài bị phe Arius, với sự trợ giúp của binh lính hoàng gia, dùng võ lực trục xuất. Ngài đến Rome nương náu, bên Giáo Hoàng Jules I, và tự biện minh trước một hội nghị do vị Giáo Hoàng này triệu tập. Ngoài ra, ngài còn được hoàng đế Tây phương là Constant hỗ trợ.

Cuộc ly khai chính thức giữa Giáo Hội thuộc phái Arius và các Giám Mục theo Nicée xảy ra tại Công Ðồng Sardique (Sofia) năm 343, mặc dầu có những cố gắng của Athanase và của Ossius thành Cordoue, một Giám Mục Tây Ban Nha, trước đây là cố vấn riêng của Constantin và là một trong những người hướng dẫn Công Ðồng Nicée. Sau đó ít lâu, năm 345, vị Giám Mục thuộc phái Arius được đặt coi sóc Alexandrie qua đời. Hoàng đế Ðông phương là Constance, tuy vẫn ủng hộ phái Arius, đã cho phép Athanase trở về và ngài đã trở về cách huy hoàng năm 346.

Nhưng cái chết của Constant năm 350 và việc đăng quang của Constance như một hoàng đế độc nhất khiến cho mọi sự đều bị đặt lại vấn đề. Constance ra tay buộc hàng Giám Mục, dù muốn hay không cũng phải theo chính sách phò Arius của mình qua việc ký nhận một công thức đức tin, mà công thức này không đả động gì tới những điểm công Ðồng Nicée đã minh định. Thủ đoạn vừa khôn khéo vừa dọa nạt của ông khiến cho những người kiên quyết bảo vệ Nicée dần bị cô lập, và cuối cùng lại chỉ còn một số rất ít Giám Mục bên Ðông cũng như bên Tây. Trong số này có Hilaire de Poitiers và Athanase.

Ở Alexandrie, Athanase tìm thấy sự che chở an toàn nơi lòng thương mến của dân chúng đối với ngài. Một cuộc nỗi dậy giả tạo của quần chúng đã được dàn dựng kỹ lưỡng, với sự trợ giúp của quân lính, một đêm năm 356, họ tấn công nhà thờ nơi vị Giám Mục đang cử hành phụng vụ. Athanase trốn thoát được. Dù không ngừng bị săn lùng, ngài vẫn tiếp tục ở lại Aicập trong sáu năm, sống bí mật trong các làng mạc và các đan viện ở thung lũng sông Nil. Là người hiểu rất rõ về các biến cố xảy ra, ngài đã viết thêm nhiều tác phẩm bút chiến và soạn ra tác phẩm nổi tiếng "Cuộc đời thánh Antoine" cuốn sách này sẽ góp phần rất nhiều vào việc phổ biến lý tưởng đan tu.

Quyền lực của phái Arius trong Giáo Hội lên tới tột điểm vào những năm 359 - 360, nhưng cũng bắt đầu suy tàn ngay sau đó với cái chết của Constance năm 361. Hoàng đế Julien, cháu Constantin, được dạy dỗ theo đường lối Kitô giáo, đã bỏ đức tin của mình và mơ tưởng tới việc khôi phục các tôn giáo dân ngoại. Ít ra ông đã không dây mình vào các sự việc của giáo Hội. Các Giám Mục lại được tự do hoạt động. Các Giám Mục Tây phương ngửng đầu lên trước, tiếp đến hàng Giám Mục Ðông phương cũng bắt đầu trấn tĩnh lại. Athanase về lại Tòa Giám Mục năm 362, ngài đã lập tức quy tụ được chung quanh mình một Công Ðồng nhỏ gồm các Giám Mục theo Nicée và đó là một tượng trưng cho sự hồi sinh. Nhưng cũng năm đó, ngài lại phải gánh chịu sự bực bội của Julien vì không thành công trong cố gắng vực lại những tôn giáo cũ, và một lần nữa ngài buộc phải lẫn trốn. Julien bị giết năm 363 và Jovien người kế vị ngắn ngũi đã gọi ngài về. Năm 364, Ðông phương lại rơi vào tay một hoàng đế ủng hộ phe Arius là Valens. Trong lúc Giáo Hội Tây phương may mắn được tiếp tục hưởng bình an, nhờ đường lối chính trị trung lập của Valentin I, em của Valens, thì các Giám Mục Ðông phương theo Nicée một lần nữa nếm cảnh lưu đày, nhất là Athanase. Nhưng, hẳn là vì cảm thấy rõ ảnh hưởng quan trọng của vị Giám Mục này trong dư luận, Valens đã quyết định đưa ngài về lại Alexandrie năm 366, và đây là lần trở về cuối cùng.

 

CHÍNH QUYỀN ROME VÀ CÔNG LÝ TIN MỪNG

Trích một lá thư của Giáo Hoàng Jules I gửi hàng Giám Mục Ðông phương (340) :

 

Những gì xảy ra thế là đủ. Việc các Giám Mục lại bị đem đi đày trước sự hiện diện của các Giám Mục khác thế là đủ . Nói thực ra, đáng lý người ta không nên đi đến chỗ hoặc đẩy tâm hồn đến chỗ đê hèn đến mức như vậy . Ôi chư huynh yêu quý ! Những phán quyết Giáo Hội đưa ra không còn là theo Tin Mừng nữa mà là để lưu đày, để giết chết ! Nếu quả thực như chư huynh nói, họ (các Giám Mục bị kết án ở Ðông phương, trong đó có Athanase) đã phạm phải lỗi lầm, thì lẽ ra phải xử họ theo luật Giáo Hội chứ không phải theo kiểu đó. Lẽ ra chư huynh phải trình điều đó với tất cả chúng tôi, ngõ hầu quyền hành được xác định bởi tất cả mọi người. Nạn nhân là những Giám Mục, nạn nhân không phải thuộc những Giáo Hội nào đó nhưng là những Giáo Hội mà chính các Tông Ðồ đã cai quản. Vậy trước hết, tại sao người ta lại không viết cho chúng tôi Giáo Hội tại Alexandrie ? Chẳng lẽ chư huynh lại không biết rằng theo thông lệ thì trước hết người ta phải viết cho chúng tôi và chính từ đây mà quyền hành được xác định hay sao ? Vậy thì cứ nếu Giám Mục nào ở đó có sự ngờ vực kiểu như thế thì phải viết cho Giáo Hội ở đây. Những chỉ thị như thế không phải là những chỉ thị của Phaolô, truyền thống như thế không phải là truyền thống các Giáo Phụ : mà là cách hành xử xa lạ, cách hành động bây giờ mới có. Tôi xin chư huynh, chư huynh hãy ân cần đón nhận điều đó ; tôi viết là nhắm tới thiện ích chung, vì tôi muốn thông tri cho chư huynh điều chúng tôi đã lãnh nhận từ Tông Ðồ Phêrô vinh phúc. Song lẽ ra tôi đã không viết, vì tôi tưởng điều đó ai cũng đã biết cả, nếu như các biến cố đã không làm chúng tôi phải rụng rời. Tôi khẩn xin chư huynh, đừng để những chuyện như thế xảy ra nữa, chớ gì các Giáo Hội không còn phải đau khổ như thế nữa ; chớ gì không còn Giám Mục hay Linh Mục nào bị nhũng hại ; không một ai bị bắt ép hành động ngược lại với ý nghĩ của tâm hồn mình. e rằng sẽ làm cớ cho dân ngoại nhạo cười và kéo xuống cơn thịnh nộ của Thiên Chúa . Mọi người hãy biết suy nghĩ theo Thiên Chúa, ngõ hầu các Giáo Hội, khi tìm lại được các Giám Mục của mình, sẽ vui mừng mãi mãi trong Ðức Kitô Chúa chúng ta.

Trong Athanase, Apologie contre les Ariens, 35

 

 

Athanase đã không thể giải quyết tình trạng hỗn độn Antioche do việc truất phế Eustathe tạo ra. Ngài kiên quyết hỗ trợ cho cộng đoàn nhỏ theo Eustathe, nhưng điều đó không đưa đến kết quả nào, phần đông người chính thống ở Antioche từ chối tham gia vào hành động đó vì họ ỷ vào sự hỗ trợ của thánh Basile và các bạn của ngài. Một phần do việc tranh chấp không phải lúc làm cho các đối thủ của thuyết Arius thêm chia rẽ, Athanase chỉ được thoáng thấy kết cục của cuộc đại khủng hoảng của thế kỷ, cũng như sự tái thống nhất của Giáo Hội Ðông phương, vì việc tái thống nhất này cho tới những năm 380 mới được thực hiện về cơ bản. Ngài qua đời sớm hơn một chút, bên ngưỡng cửa vào Ðất Hứa, nếu có thể nói được như thế. Nhưng nếu dân Kitô giáo đã có thể lướt thắng một trong những thử thách nặng nề nhất trong lịch sử của mình, thì một phần lớn chính là nhờ con người kiên quyết và bất khuất, nhờ người tín hữu kiên vững đó, nhờ vị Giám Mục ưu tiên lo lắng cho thiện ích Giáo Hội đó.

Thái độ của ngài đối với quyền lực của hoàng đế vẫn còn là thái độ kiểu mẫu cho dù hoàng đế Kitô giáo có uy thế lớn lao trong một Giáo Hội vừa hết bị bách hại, ngài không ngại thách thức Constantin và con ông là Constance, kẻ còn đang được hào quang của cha mình bao phủ. Mặc dù ít được hàng Giám Mục Ðông phương theo, ngài đã biết bảo vệ khoảng cách độc lập mà cuối cùng là cần thiết cho Giáo Hội trong việc giữ cho đức tin được tinh tuyền. Tác phẩm "Biện hộ gửi Constance" rắn rỏi của ngài, cũng như bức thư lừng tiếng của Ossius de Cordoue cũng gửi cho hoàng đế này, là những văn kiện định ra các ranh giới giữa quyền lực chính trị và lãnh vực của giáo Hội. Ðòi hỏi mạnh mẽ về quyền tự do của các Giám Mục trong việc thi hành sứ mạng Giáo Hội của mình đã được nêu lên từ Athanase tới thánh Basile và thánh Ambroise. Nó cho thấy nhận thức có từ rất sớm, nhưng sau đó thường phai mờ trong những mối tương quan tế nhị giữa "Tư tế" và "đế quốc" (Sacerdoce et lEmpire).

 

ATHANASE THOÁT KHỎI MỘT CUỘC MAI PHỤC

Một trong những biến cố trong đời Giám Mục của Athanase : Ngài bị trục xuất bằng võ lực, bị buộc phải chạy trốn năm 356 - do chính ngài thuật lại :

 

Ít ra là họ (các địch thủ của Athanase) dò hỏi tin tức về cuộc chạy trốn của chúng tôi và không quên điều tra chính bạn bè của họ, vì có những người phe Arius ở với toán lính để xúi giục và chỉ điểm chúng tôi cho họ vì họ đâu biết chúng tôi.

Khi bóng đêm đã phủ xuống : một vài người còn thức để chờ giờ hội họp (cộng đoàn Kitô hữu) thì bất thình lình tướng Syrianos cùng với người của ông ta ập tới. Họ có đến hơn năm ngàn người, trong tay kiếm đã tuốt trần, cung, tên, gậy gộc như đã nói ở trên. Ông ta cho bao vây nhà thờ, đích thân xếp đặt quân lính theo hàng ngũ xiết chặt để không một ai có thể ra khỏi nhà thờ và trốn thoát được. Phần tôi, tôi nghĩ trong giây phút nguy kịch như thế mà bỏ rơi giáo dân của mình thay vì đem thân ra nộp thì thật đê hèn. Thế là tôi ngồi vào ngai, truyền cho thầy phó tế đọc một Thánh Vịnh, và bảo giáo dân tham dự vào bằng cách đáp lại : "Vì lòng thương xót của Người miên man vạn đại" (Tv 136, 1) ; sau đó đến lúc chúng tôi phải chia tay, ai nấy về nhà mình.

Nhưng lúc đó, viên tướng đã phá cửa vào, lính của ông ta vây lấy gian cung thánh để bắt chúng tôi. Các giáo sĩ hiện diện và các giáo dân bắt đầu kêu khóc, nghĩ rằng đã đến lúc phải rời xa chúng tôi. Còn tôi, tôi không đành lòng ra đi trước khi tất cả, cho đến người cuối cùng, thoát được. Vì thế tôi đứng lên, bảo hãy cầu nguyện đồng thời yêu cầu mọi người phải ra đi trước đã. Vậy phần lớn đã đi ra ngoài và số còn lại ra tiếp theo khi các đan sĩ thân cận với chúng tôi và một vài giáo sĩ trở lại để dẫn chúng tôi đi. Và thế là, có Sự Thật làm chứng cho tôi, chúng tôi trốn thoát trong tình thế binh lính số thì vây gian cung thánh, số thì tuần tiễu quanh nhà thờ . mà họ không hay biết, lòng hân hoan chúc tụng Chúa vì mình đã không phản bội lại dân, đã để họ ra đi trước chúng tôi nhưng không vì thế mà chúng tôi bị ngăn cản trốn thoát và vì chúng tôi đã thoát được bàn tay của những kẻ bách hại.

Apologie pour sa fuite 24 - 27

Sources Chrétiennes no. 56, p. 162 - 163

 

 

NGƯỜI BẢO VỆ NICÉE

Trong tư cách là mục tử và là nhà thần học. Athanase trước hết là con người của "đức tin Nicée". Mục tiêu hành động của ngài chính là việc làm cho Giáo Hội thừa nhận Công Ðồng, tín biểu phải trở thành qui thức bất khả xâm phạm của đức tin và qua đó khắc sâu ý tưởng này là : quyết định về tín lý của một Công đồng chung có giá trị quy luật cho đức tin. Ðường lối tôn giáo của ngài đối với các ý kiến bất đồng không hề thay đổi, đó là chính thuyết Arius hay những ý kiến lừng khừng đối với tín biểu : ký nhận hoàn toàn công thức Nicée, và chỉ có điều đó, phải được coi là điều kiện để hiệp thông. Do sức ép của những bài bác trực chỉ vào ngài khoảng giữa thế kỷ, bất quá ngài mới chấp nhận cho bổ sung một chút về Chúa Thánh Thần, Ðấng "không phải là một thụ tạo". Các tác phẩm tín lý của ngài, đặc biệt là khảo luận : "Chống phái Arius", lá thư "Về sắc lệnh của Công Ðồng Nicée" vừa phải phản bác các luận đề của Arius cách tỉ mỉ, cũng như cách đọc Thánh Kinh của Arius, đồng thời không ngừng nhắm tới việc bảo vệ và giải thích tín biểu. Các tác phẩm này cũng xác định tín biểu rõ hơn, qua việc Athanase phân tích rõ cho thấy điều này là, nếu nói đến tính đồng nhất tuyệt đối của bản thể hay bản tính nơi Thiên Chúa thì tất yếu phải đi đến chỗ nói rằng chỉ có "một bản thể" hay bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đó là cách ngài minh giải từ "đồng bản thể", và từ nay đó sẽ là nghĩa tròn đầy của từ ngữ trong cách xử dụng của Kitô giáo ở Ðông phương, và đó cũng là nghĩa mà Tây phương đã hiểu như thế (chúng ta nhớ lại từ "una substantia" của Tertullien).

Một đóng góp đáng kể khác của Athanase cho thần học là giáo lý về Chúa Thánh Thần mà ngài đã phác họa trong "Những lá thư gửi Sérapion", Giám Mục Thmuis ở Aicập. Giáo Hội đã luôn luôn tin vào Chúa Thánh Thần và sống mãnh liệt niềm tin này nhưng cho tới lúc đó nó chưa thực sự trở thành đề tài thần học, cho dù Origène đã khởi đầu suy tư về những liên hệ giữa Chúa Thánh Thần với Chúa Cha và Chúa Con. Logic với chính mình, Arius không nhận thần tính của Chúa Thánh Thần như đã không nhận tính đồng bản thể của Chúa Con. Nhưng trong một thời gian dài, cuộc tranh luận chỉ tập trung vào những tương quan giữa hai Ngôi đầu, Ngôi thứ ba vẫn chìm trong bóng tối. Cho tới những năm 350, tại nhiều nơi khác nhau, thần tính của Chúa Thánh Thần bị bài bác kịch liệt. "Những lá thư gửi Sérapion", viết khoảng năm 360, là câu trả lời đầu tiên của thần học chính thống, và là bản sơ thảo đầu tiên về giáo lý của Chúa ThánhThần trong Ba Ngôi. Trong những bức thư đó, Athanase muốn cho thấy Chúa Thánh Thần có cùng tương quan ngang hàng với Chúa Con như Chúa Con có với Chúa Cha. Tiểu luận của ngài khai thác có hệ thống những bản văn Tân Ước, mở đường cho các nhà thần học Cappadoce và cho thánh Augustine đào sâu suy tư về mầu nhiệm Chúa Thánh Thần.

Ðọc các tác phẩm thần học của Athanase, người ta không thể không nhớ đến Irénée, vả lại Irénée cũng là một trong những người mà ngài dựa vào. Chúng ta gặp lại một lối văn trong sáng, một đức tin sáng suốt, một ý thức về điều chính yếu, mối quan tâm trung thành với Thánh Kinh, từ ngữ xử dụng thông thường, ít chuyên môn, tương tự như Irénée. Chỉ có lời lẽ dữ dội trong bút chiến là mạnh mẽ hơn Irénée đúng với một thời kỳ có những tranh luận lớn về tín lý. Thần học của Athanase cũng như của Irénée, có được sự mạnh mẽ vững chắc của nó là nhờ bén rễ sâu trong Thánh Kinh và trong đức tin sống động của Giáo Hội. Chẳng hạn luận cứ quan trọng của ngài biện minh cho thần tính của Chúa Con và Chúa Thánh Thần là, trong phép Rửa Tội, các Ngài ban cho ta tử hệ thần linh hoặc, theo ngôn ngữ của các Giáo Phụ Hylạp kể từ Clément d Alexandrie, các Ngài "Thần hóa" chúng ta : vậy các Ngài làm điều đó thế nào được nếu chính các Ngài không có thần tính ? Ở đây, một lần nữa chúng ta lại thấy được thực hành Phép Rửa cũng như ý thức Giáo Hội về các hiệu quả của Phép Rửa, một ý thức thường hằng, và không chút nghi nan, đã ảnh hưởng lên cách minh giải về niềm tin Ba Ngôi. Ðiều mà cộng đồng Kitô giáo sống trong các bí tích đã đi trước và hướng dẫn suy tư thần học.

Cuối cùng, so với các Giáo Phụ khác, Athanase là một chứng nhân đức tin hơn là người tiên phong thực sự trong thần học. Ngoài vấn đề Chúa Thánh Thần, hệ quả lôgic của cuộc tranh luận về Ngôi Lời, điều đáng lưu ý là ngài ít nhạy bén với những vấn đề mà Công Ðồng năm 325 còn bỏ ngỏ, cũng như với những vấn đề mới mẻ xuất hiện trong hậu bán thế kỷ IV. Chẳng hạn khi khẳng định tính duy nhất của Thiên Chúa, Nicée đã không gợi ra một cách nói nào liên quan tới sự phân biệt giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà chỉ mặc nhiên khẳng định sự phân biệt đó. Làm sao nói chỉ có một bản thể duy nhất trong ba mà không sai lầm và không mâu thuẩn trong chính các từ ngữ ? Kể từ Tertullien, người Latinh nói đến ba "Ngôi Vị" (Personnes). Người Hylạp không có cách nói thống nhất với nhau ; người ta tranh luận mãi về công thức "ba hypostases" nơi Thiên Chúa. Tại hội nghị ở Alexandrie năm 362, đứng trước sự tranh chấp giữa hai bên bênh và chống công thức này, Athanase chỉ giải quyết bằng cách bảo rằng : khi đã đồng ý với nhau về cùng một đức tin Ba Ngôi thì vấn đề thuật ngữ cứ để cho tự do. Giải đáp như vậy chắc chắn là không đủ đối với một vấn đề tế nhị như vấn đề ngôn ngữ đức tin ; thánh Basile, sau đó ít lâu, sẽ giải quyết cuộc tranh luận cách hiệu quả.

Cũng vậy, Nicée đã không có xác định nào về niềm tin vào việc Nhập Thể của Ngôi Lời, chỉ tuyên bố rằng Ngôi Lời "đã mặc lấy xác phàm và đã làm người", thời đó hai kiểu nói này đồng nghĩa với nhau. Thế mà, qua Eustathe d Atioche, chúng ta biết phái Arius phủ nhận sự hiện diện của một linh hồn thật sự là linh hồn nhân loại nơi Ðức Kitô. Dường như Athanase không thấy được điểm này vì không hề thấy ngài đề cập gì đến nó. Phái Arius, trong lý luận của họ, nhấn mạnh những giới hạn tâm lý của Ðức Kitô : có tấn tới về khôn ngoan, không biết ngày phán xét, lo buồn, sợ hãi khi cuộc Khổ Nạn đến gần . để từ đó kết luận rằng những giới hạn đó cũng là chính những giới hạn của Ngôi Lời, vì theo họ, qua việc tự hủy, Ngôi Lời biến thành linh hồn của Ðức Kitô. Athanase dừng lại lâu ở những bắt bẻ khác nhau này chống lại thần tính của Ðức Kitô nhưng lại không đưa ra giải đáp như Eustathe, nghĩa là cho thấy rõ nơi Ngôi Lời Nhập Thể có một linh hồn và một tâm lý thực sự nhân loại. Ngài không nghĩ tới việc xét lại chính các dữ kiện của vấn đề đó do phái Arius đưa ra, mà chỉ cắm cúi, cố gắng giải thích những nhược điểm mà phe Arius trưng dẫn hoặc cho đó là cung cách sống hoàn toàn chỉ là bề ngoài của Ðức Kitô hoặc ngay cả cho rằng đó chỉ là thực tại thuần túy thế lý. Kitô học của ngài bộc lộ một khiếm khuyết nào đó trong nhận thức về thực tại nhân loại của Nhập Thể, hay ít ra là về chiều kích tâm lý của nó, vì ngoài ra, ngài vẫn cực lực bác bỏ mọi thứ ảo thân thuyết (thư gửi Epictère). Ngài cũng nhất quyết loại bỏ kiểu nói "Ngôi Lời Con Người" của Antioche. Viễn tượng của ngài nhấn mạnh đến sự chiêm ngắm Ngôi Lời Thiên Chúa đến mức khiến cho một điều gì đó thuộc nhân tính của Ðức Kitô bị chìm vào bóng tối, đó là điều không thể chối cãi, và đó cũng là nét mà từ nay sẽ là đặc điểm của Kitô học ở Alexandrie, và như thế tách biệt rõ ràng với Kitô học ở Antioche. Cho tới hội nghị năm 362 này, Athanase mới bổ túc chút ít Kitô học của mình khi đứng trước việc linh hồn nhân loại của Ðức Kitô một lần nữa bị phi bác. Bấy giờ, cảm thức thần học hết sức chắc chắn của ngài mới làm cho ngài nhận ra rằng : người ta không thể quan niệm Ðấng Cứu Thế mà lại "không có linh hồn" nhân loại : đó là một nhượng bộ đối với trường phái Antioche, nhưng điều đó không làm thay đổi sâu xa viễn tượng riêng của ngài. Như thế, với Eustathe và Athanase, tại Ðông phương có hai lối cảm thụ thần học và tu đức mà trong các thế kỷ kế tiếp sẽ là trọng tâm của những cuộc đối đầu dai dẳng.

 

TỰ DO CỦA MỘT VỊ GIÁM MỤC

Thư của Giám Mục Ossius de Cordoue, từng là cố vấn của Constantin, người bảo vệ Nicée và là bạn của Athanase, gửi hoàng đế Constance. Với sự cương quyết dũng cảm, Ossius đòi hàng Giám Mục phải được độc lập trong các vấn đề liên hệ tới Ðức Tin và việc điều khiển Giáo Hội.

"Tôi đã tuyên xưng Ðức Giêsu trong cuộc bách hại chống lại Giáo Hội mà Maximien, tổ tiên của ngài đã gây nên. Nếu ngài muốn bách hại một lần nữa, thì ngài sẽ thấy tôi sẵn sàng thà chịu tất cả chứ không thà phản lại chân lý và làm đổ máu người vô tội (Athanase). Tôi đã không hề nao núng vì các bức thư và những lời hăm dọa của ngài, nếu ngài tiếp tục như thế thì vô ích thôi. Nếu ngài bỏ ngoài tai những ý kiến của Arius và đừng nghe theo bọn Ðông phương thì có lẽ lợi cho ngài hơn . Những điều họ nói về việc tấn công Athanase cũng như việc thiết lập lạc giáo của họ chẳng nhằm vào đâu cả. Tuổi tác của tôi hẳn phải đem lại cho tôi sự tin tưởng của ngài.

Tôi van xin ngài, ngài đừng dấn sâu thêm nữa. Xin ngài hãy nhớ mình là con người hữu hạn, hãy khiếp sợ ngày phán xét. Ngài hãy sẵn sàng ra trước ngày đó cho thanh sạch và không gì đáng trách. Ngài chớ xen vào các việc của Giáo Hội : cũng đừng truyền dạy trong các việc đó. Ðúng hơn ngài hãy học nơi chúng tôi những gì ngài phải tin. Thiên Chúa đã trao cho ngài việc cai trị đế quốc và trao cho chúng tôi việc cai quản Giáo Hội. Kẻ nào dám xâm phạm đến quyền bính của ngài, kẻ đó chống lại trật tự của Thiên Chúa. Cũng thế, ngài hãy coi chừng đừng để mình phạm phải trọng tội khi chiếm đoạt quyền bính của Giáo Hội. Chúng tôi đã được truyền dạy phải trả cho César điều thuộc về César, trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa. Chúng tôi không được phép qui cho mình quyền bính của hoàng đế. Cũng vậy, ngài cũng không có quyền gì trong các tác vụ thánh.

Ðó là những gì tôi nghĩ cần phải viết cho ngài, trong niềm mong ước của tôi đối với phần rỗi của ngài. Ðó là tất cả những câu trả lời mà tôi muốn đáp lại các lá thư của ngài. Tôi sẽ không hiệp thông gì với phái Arius. Ngược lại tôi tuyệt thông với lạc giáo của họ . Ngài đừng để mình xuôi theo ý muốn của những con người mất danh dự, mất đạo đó . Lao mình vào những hiểm họa lớn lao như thế để phục vụ dục vọng của kẻ khác thì không thận trọng chút nào. Vậy xin hãy ngừng, thưa hoàng đế, ngừng đi và hãy tin tôi. Tôi phải dùng lời lẽ như thế để nói với ngài và mong ngài không khinh thường lời lẽ như vậy".

Le Nain de Tillemont, đầu thế kỷ XVIII

Mémoires pour servir à lhistoire a

Lhistoire cclésiastique VII, p. 313

 

NIỀM TIN CỦA THÁNH ATHANASE

"Vậy, có Ba Ngôi thánh thiện và hoàn hảo, được nhận biết nơi Thiên Chúa là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần ; Ba Ngôi không chứa đựng điều gì xa lạ, không điều gì từ bên ngoài xen lẫn vào mình. Ba Ngôi không bao gồm Ðấng Tạo Dựng và điều được tạo dựng, nhưng tất cả Ba Ngôi là sức mạnh sáng tạo và tạo sinh. Ba Ngôi chỉ giống với chính mình, tự bản tính là bất khả phân, và duy nhất trong sự tác thành. Thực vậy, Chúa Cha dựng nên mọi sự nhờ Ngôi Lời trong Thánh Thần. Chính vì thế mà sự duy nhất của Ba Ngôi được bảo toàn, cũng vậy trong Giáo Hội, (chỉ) một Thiên Chúa được loan báo, "(Ðấng ở) trên tất cả và (hành động) nhờ tất cả và (ở) trong tất cả" : "trên tất cả" vì là Cha, là khởi nguyên và nguồn suối, "nhờ tất cả" nhờ Ngôi Lời, "trong tất cả" trong Thánh Thần. Ba Ngôi thực hữu chứ không phải chỉ là danh từ hay chỉ là vẻ bề ngoài của một danh từ, nhưng (là) Ba Ngôi đúng và thực sự. Vì, cũng như Chúa Cha là Ðấng Thực Hữu và trước hết là Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần không phải là không thực hữu nhưng Ngài hiện hữu và tồn hữu thật sự. Giáo Hội Công Giáo không nghĩ bớt đi điều gì : để tránh rơi vao hàng ngũ những kẻ mà hiện nay là người Dothái theo kiểu Caiphe và Sabellius ; cũng không tưởng tượng thêm điều gì, để tránh sa vào đa thần giáo của dân ngoại.

Ðức tin của Giáo Hội phải đúng là như thế, chớ gì (các địch thủ) học biết điều này theo cách mà Chúa, lúc sai các Tông Ðồ đi đã truyền cho họ hãy đặt nền tảng đó cho Giáo Hội, khi Ngài nói : "Hãy đi dạy dỗ muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Về phần các Tông Ðồ, khi ra đi, các ngài đã dạy dỗ như thế và đó là lời rao giảng (được loan truyền) trong toàn Giáo Hội dưới bầu trời".

Thư gửi Sérapion I, 28

Sources Chrétiennes no. 15, p. 133 - 135

 

THẦN TÍNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN

ÐƯỢC MẠC KHẢI QUA TƯƠNG QUAN

CỦA NGÀI VỚI CHÚA CON

Như chính Chúa đã nói :

"Ðấng Bàu Chữa sẽ không tự mình mà nói, nhưng nghe những gì Ngài sẽ nói ra, vì Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi", và khi thổi hơi trên các môn đệ Ngài ban Thánh Thần từ nơi mính cho họ và như vậy, Chúa Cha đổ Thần Khí xuống như đã viết trên mọi xác phàm : đó là lý do tại sao tôi đã khởi sự một cách hợp lý bằng việc nói và viết về Con Thiên Chúa, để từ thấu hiểu (về giáo lý) liên quan đến Chúa Con, chúng ta có thể rút ra một cách thích hợp hiểu biết (về giáo lý) liên quan đến Chúa Thánh Thần. Vì phận riêng mà chúng ta đã nhận biết (như là phận) của Chúa Con đối vớiChúa Cha, chúng ta sẽ thấy đó cũng chính là phận của Chúa Thánh Thần đối với chúa Con. Cũng như Chúa Con đã nói : "Mọi sự của Cha là của Ta". Cũng thế, chúng ta sẽ thấy rằng, nhờ Chúa Con, tất cả điều đó cũng có nơi Thánh Thần. Và như Chúa Cha đã nói khi giới thiệu Chúa Con : "Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ", cũng thế Thánh Thần là Thánh Thần của Chúa Con, vì thánh Tông Ðồ nói : "Thiên Chúa đã sai Thần Khí Con của Người vào lòng anh em (Thần Khí) kêu lên : "Abba, Lạy Cha". Và -điều thật kỳ diệu- cũng như Chúa Con nói: Ðiều thuộc về Ta là thuộc về Cha, cũng vậy, Thánh Thần được gọi là Ðấng thuộc Chúa Con thì cũng thuộc Chúa Cha, vì chính Chúa Con đã nói: "Khi Ðấng Bàu Chữa đến, Ðấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí Sự Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta". Và Phaolô, về phần ngài, đã viết: Ai trong loài người biết được những điều có trong người ta nếu không phải là thần trí nhân loại có trong kẻ ấy. Cũng vậy những điều có trong Thiên Chúa, không ai biết được, trừ phi là Thần Khí của Thiên Chúa. Phần ta, không phải thần khí thế gian mà ta đã chịu lấy, nhưng là Thần Khí do tự Thiên Chúa, ngõ hầu ta nhận biết các điều Thiên Chúa đã thi ân xuống cho ta. Và trong tất cả Kinh Thánh, ngài sẽ thấy rằng Thánh Thần, được gọi là "của Chúa Con", thì cũng được gọi là "của Chúa Cha" . Như vậy, nếu Chúa Con, do phận riêng của Ngài đối với Chúa Cha và vì Ngài là chính Người Con xuất từ bản thể của Người, không phải là một thụ tạo, nhưng là đồng bản thể với Chúa Cha, thì cũng thế, cả Thánh Thần cũng không thể là một thụ tạo - mà kẻ nào nói như thế thì đã là vô đạo rồi- do phận riêng của Ngài đối với Chúa Con và vì chính từ (Chúa Con) mà Ngài đã được ban cho mọi người và vì ngài có gì thì cũng chính là của Chúa Con.

Athanase, Lettres à Sérapion III, 1

Sources Chrétiennes no, 15, p. 163 - 165

 

ÐỨC KITÔ LÀ THIÊN CHÚA VÌ LẼ NGÀI

THẦN HÓA CHÚNG TA

Các Giáo Phụ kể từ thế kỷ III đều đồng lòng khẳng định về sự "thần hóa" con người nhờ Ðức Kitô, khẳng định đó Thánh Athanase dùng làm nền tảng để bảo vệ thàn tính của Ngôi Lời Nhập Thể.

Sự thật chứng tỏ rằng Ngôi Lời không thuộc vào hàng các hữu thể thụ tạo, nhưng đúng hơn Ngài chính là Ðấng tạo dựng nên chúng. Như thế, Ngài mang lấy thân xác nhân loại thọ tạo là để tái sinh nó trong tư cách là Ðấng Tạo Dựng và thần hóa nó nơi chính Ngài, và bằng cách đó, dẫn đưa chúng ta tất cả vào trong Nước Trời giống như Ngài. Liên đới với tạo thành, con người hẳn đã không được thần hóa nếu Chúa Con đã không phải là Thiên Chúa thật : con người hẳn đã không đến bên Thiên Chúa được nếu Ðấng mặc lấy thân xác đã không phải là Ngôi Lời đích thực của Người tự bản tính. Cũng như chúng ta sẽ không được giải thoát khỏi tội và sự dữ nếu không phải là một xác thể nhân loại tự bản tính mà Ngôi Lời đã mặc lấy . Như vậy, hẳn con người đã không được thần hóa nếu Ngôi Lời trở thành xác phàm tự bản tính là đã không sinh bởi Chúa Cha, Ngôi Lời đích thực và chính thực của Người. Chính vì vậy sự kết hợp đã xảy ra đến mức nó kết nhập con người vào Ðấng mà tự bản tính là thuộc thần tính và đến mức sự thần hóa và phần rỗi của nó được bảo đảm chắc chắn . Vì chưng Ngôi Lời tự bản tính đã là Thiên Chúa thật, Ngài đã trở nên cho chúng ta căn nguyên của tạo dựng mớ, đồng thời chính Ngài tác tạo con người cho chúng ta và mở cho chúng ta con đường (của tạo dựng mới).

Contre les Ariens II, 70

 

 

Ngoài những tác phẩm thần học chính danh, Athanase vẫn có thời giờ để thử đi vào môn hộ giáo ("Chống người ngoại giáo", "Về việc Nhập Thể của Ngôi Lời") và môn chú giải. Chúng ta có được một sưu tập các "Thư Phục Sinh" của ngài bắt đầu từ năm 329. Nhưng, ngoài cuộc bút chiến để bảo vệ Nicée thì điều đem lại vinh quang đẹp đẽ nhất cho ngài đó là cuốn "Cuộc đời thánh Antoine".

 

SỰ TỎ HIỆN NƠI THÂN XÁC CỦA NGÔI LỜI

THIÊN CHÚA TRONG ÐỨC KITÔ

Khi các nhà thần học giải thích về Ngài: Ngài đã ăn, uống và đã được sinh ra, thì hãy biết rằng đó là thân xác với tư cách là thân xác, đã được hạ sinh và đã được nuôi dưỡng bằng những thức ăn thích hợp, nhưng Ngài, Ngôi Lời Thiên Chúa kết hợp với thân xác, là Ðấng đã đặt định cả hoàn vũ, và qua các công trình Ngài thực hiện nơi thân xác, Ngài tỏ mình không phải là một người nhưng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Song, người ta nói điều đó là về Ngài, vì lẽ thân xác đã ăn, đã được hạ sinh và đã đau khổ, không phải là thân xác của một người khác, nhưng chính là thân xác của Chúa, và vì Ngài đã trở thành người, thế nên nói đến những điều đó như là của một con người là điều hợp lý, ngõ hầu thân xác của Ngài xuất hiện thật sự chứ không phải một cách hư ảo. Nhưng cũng như việc Ngài được nhận biết theo sự hiện diện thể xác của Ngài, cũng thế các công trình Ngài thực hiện nhờ thân xác làm cho Ngài được nhận biết là Con Thiên Chúa.

Là Ðấng Vô Hình, Ngai được nhận biết khởi từ các công trình tạo dựng: cũng vậy, khi đã làm người và ẩn khuất trong một thân xác, người ta có thể nhờ các công trình của Ngài mà nhận biết được rằng đó không phải là một người, nhưng là Quyền Năng và là Ngôi Lời Thiên Chúa đã thực hiện việc đó. Thực vậy, truyền khiến và đuổi quỷ không phải là việc của con người mà là của Thiên Chúa. Vậy mà, khi nhìn thấy ngài thuyên chữa bịnh tật nhân loại mắc phải, vì sao lại còn coi Ngài là một người chứ không phải là Thiên Chúa? Ngài làm cho người phong hủi được lành sạch, cho người què được đi, người điếc được nghe, người mù được thấy: tắt một lời, Ngài đuổi xa khỏi con người mọi bệnh hoạn tật nguyền và bất cứ ai cũng có thể chiêm ngắm thần tính của Ngài.

Vì thế lúc ban đầu khi Ngài xuống với chúng ta, Ngài đã tác tạo cho mình một thân xác sinh từ một trinh nữ, để đưa ra cho tất cả chúng ta một bằng chứng không phải là không đáng kể về thần tính của Ngài, vì Ðấng đã tác tạo thân xác đó cũng là tác giả của các thân xác khác. Nhìn thân xác sinh bởi một trinh nữ, không có sự góp phần của người nam, ai lại không kết luận rằng Ðấng tỏ hiện nơi thân xác đó cũng là tác giả và là Chúa của các thân xác khác?

Và khi Ngài nuôi dưỡng một đám đông như thế với một chút ít thực phẩm, từ thiếu thốn sang dư đầy, đến nỗi chỉ với năm chiếc bánh mà làm cho năm ngàn người no thoả, và số còn lại cũng bấy nhiêu, Ngài chứng tỏ mình thực sự là Ðấng Chúa Quan Phòng mọi sự.

Sur l Incarnation de Verbe 18

Sources Chrétiennes no. 199, p. 329 - 335

 

 

NGƯỜI "ỦNG HỘ" PHONG TRÀO ÐAN TU MỚI KHAI SINH

Như Tân Ước chứng thực đời sống khổ hạnh Kitô giáo, đặc biệt việc sống độc thân tự nguyện, cũng xưa như chính Giáo Hội vậy. Tuy nhiên trong một thời gian dài, đời sống này không bao hàm việc xa lánh thế gian, hoặc để sống một cuộc đời hoàn toàn đơn độc (érémitisme hay anachorétisme) hoặc sống cộng đồng (cénobitisme). Chế độ đan tu Kitô giáo đích danh xuất hiện sớm nhất vào khoảng cuối thế kỷ III, với những hình thức sống xa lánh thế gian nói trên. Thế kỷ IV là giai đoạn bành trướng đầu tiên của phong trào đan tu, từ Ðông phương sang Tây phương. Một trong những trung tâm đầu tiên là Aicập. Như vậy, Athanase ở vào một vị trí rất tốt để có thể làm một nhân chứng về kinh nghiệm thiêng liêng này trong bước đầu của nó. Ngài không chỉ quan sát suông, mà còn trở thành một trong những người truyền bá xác tín nhất và hữu hiệu nhất cho phong trào đan tu. Ðàng khác, điều đáng lưu ý là hầu như mọi Giáo Phụ ở thế kỷ IV, từ Athanase đến Augustin, đều có tiếp xúc với đời sống đan tu, hoặc chính các ngài thực hành đời sống này, hoặc ít ra là cổ võ hoặc hướng dẫn việc thiết lập và phát triển đời sống đó.

Tài liệu lịch sử xưa nhất mà chúng ta có được về thời kỳ oai hùng của các đan sĩ đầu tiên, chính là cuốn hạnh thánh Antoine do Athanase viết ít lâu sau khi vị "Tổ phụ các Ðan sĩ" qua đời (356). Tập sách nhỏ này nổi tiếng không phải chỉ vì thành công của nó về nghệ thuật và văn chương mang tính dân gian kể từ thời Trung cổ, nhờ những chuyện ma quỷ hiện hình kỳ lạ và cũng qua đó cho thấy nguồn gốc dân gian của đời sống đan tu tiên khởi. Ngay trong thời của nó, cuốn Hạnh Thánh Antoine này đã thực sự thuộc vào loại "best-selles" (sách bán chạy nhất), được dịch sang tiếng Latinh rất sớm và phổ biến trong tất cả cộng đồng Kitô giáo. Như Augustin làm chứng torng cuốn Confessions (Lời trần tình) của ngài, cuốn sách đã mang lại một con số đáng kể những cuộc "hoán cải" thiêng liêng và những ơn gọi đan tu. Nhờ Athanase, Antoine đã trở thành một kiểu mẫu, thậm chí là nhà quán quân về đời sống sa mạc, mà nhiều Kitô hữu muốn bắt chước và hăng say nỗ lực đua tranh với ngài.

Khi vẽ lại hình tượng Antoine, chắc chắn Athanase có xen vào một phần nào quan niệm riêng của ngài về lý tưởng và về đời sống đan tu. Cũng vậy, một số đề tài văn chương nhắc lại cuộc đời tuyệt đẹp của các vị anh hùng hoặc một số quan điểm dựa vào triết học chẳng hạn cuộc đấu tranh của "lý trí" chống lại các "đam mê" . hẳn là của Athanase. Dầu vậy, Hạnh thánh Antoine có những mấu cứ lịch sử của nó, đó là điều không thể nghi ngờ. Văn chương đan viện cổ xưa nhất hiển nhiên xác nhận. Athanase đã trình bày một tổng hợp chính xác các yếu tố cấu thành đời sống đan tu nguyên thủy một cách tự nhiên với những sắc thái dân gian và cả những cội nguồn của nó lên đến tận các nhà tu đức lớn ở Alexandrie thế kỷ III là Clémant, Origène, với chương trình sống thấm nhuần Tin Mừng : nghèo khó thật sự, lao động chân tay nhằm thực thi bác ái, kinh nguyện được nuôi dưỡng bằng suy niệm Thánh Kinh, chiến đấu chống ma quỷ mà đan sĩ sẽ gặp trong sa mạc theo gương Chúa Giêsu, và cuối cùng, khi đã được tẩy luyện và đầy tràn Thần Khí, nhà khổ tu trở về với anh em mình, trở về với thế gian.

Sự việc Athanase hiểu rất rõ những đan sĩ đều tiên cho phép chúng ta đoán được những nét phong phú tiềm tàng trong nhân cách của ngài. Vị Giám mục tranh đấu và nhà thần học chiến đấu chắc hẳn che mất khỏi chúng ta một phần tâm hồn của ngài, một tâm hồn mở rộng trước sự lôi cuốn của tiếng gọi sa mạc, như tâm hồn của bao nhiêu người đồng thời.

Tóm lại, Athanase xuất hiện như một trong những Giáo Phụ trực tiếp chuẩn bị cho việc mở ra thời kỳ vĩ đại của các Giáo Phụ, với những phát triển về giáo lý và tu đức của nó. Basile, Grégoire de Nazianze, Grégoire de Nysse, Ambroise, Augustin và hậu duệ tinh thần của các vị có thể tiến xa được hơn ngài một phần lớn là nhờ ngài.

 

ƠN GỌI CỦA ANTOINE

Athanase nhấn mạnh đến sự đâm rễ sâu vào Tin Mừng trong lựa chọn của Antoine.

 

"Cha mẹ qua đời, ngài chỉ còn lại một mình với đứa em gái nhỏ. Ở tuổi 18, ngài chăm sóc nhà cửa và em của mình. Chưa được sáu tháng sau khi chịu tang, trên đường tới nhà thờ như thường lệ, ngài vừa đi vừa suy nghĩ, nghiềm ngẫm xem các Tông Ðồ đã bỏ mọi sự theo Chúa làm sao ; các tín hữu, theo sách Tông Ðồ Công Vụ, đã bán của cải rồi đem tiền thu được đặt dưới chân các Tông Ðồ để giúp người túng quẫn như thế nào : Lớn lao thay niềm hy vọng của nó vào Nước Trời. Ngài bước vào nhà thờ mà lòng miên man với những ý nghĩ đó. Ðến lúc đọc Phúc Âm, ngài nghe Chúa nói với người thanh niên giàu có : "Nếu ngươi muốn nên hoàn hảo, hãy đi, bán tất cả những gì ngươi có, và cho người nghèo rồi hãy tới đây theo Ta, ngươi sẽ có một kho tàng trên trời". Ðược Chúa nhắc nhớ về các thánh, Antoine nghe như Chúa nói với chính mình, lập tức ngài ra khỏi nhà thờ. Tài sản cha mẹ để lại, 300 Aroures đất phì nhiêu hảo hạng, ngài đem tặng cho dân làng để mình hay em gái khỏi vướng bận. Ngài bán hết đồ đạc và đem số tiền thu được phân phát cho người nghèo, trừ một số nhỏ để dành cho em..

Một lần khác ngài nghe Chúa nói trong Phúc Âm : "Các ngươi chớ lo đến ngày mai". Hết cả lo âu, ngài đem số tiền để dành phân phát cho người nghèo, ngài gửi gắm em cho những trinh nữ quen biết và tín cẩn, cho vào ở trong viện của các trinh nữ để được dạy dỗ ở đó. Về phần ngài, ngài bắt đầu sống đời khổ hạnh".

Hạnh thánh Antoine

B. lavaud "Lettres Chrétiennes" no. 4, p. 23 - 24

 

QUỶ, MỘT CON CỌP GIẤY

Hạnh thánh Antoine được minh họa bằng chuyện ma quỷ hiện hình nổi tiếng nhưng đồng thời, nó cho thấy thánh nhân có một nhận định bình thản và hoàn toàn vững tâm về sự bất lực ma quỷ.

Ta phải hoàn toàn coi khinh quỷ dữ, nó và ma quỷ của nó. Kẻ thù và lũ chó của nó có rất nhiều mưu mẹo, nhưng ta có thể coi thường vì đã biết được nhược điểm của nó. Theo cách như sau, đừng suy nghĩ trong trí óc, đừng lập luận trong tâm hồn về các mưu chước của nó. Ðừng làm cho chính mình ra khiếp hãi vì những lời tự nhủ : miễn sao quỷ dữ không đến vật ngã mình, miễn sao nó không nhắc mình lên và ném xuống (dưới), miễn sao nó đừng đột nhập và làm mình kinh sợ ! Ðừng nghĩ gì đến những chuyện như thế ; đừng buồn phiền như thể mình sắp chết. Tốt hơn, hãy mạnh bạo lên và vui mừng luôn vì mình đã được cứu. Hãy tâm niệm rằng Chúa đang ở với chúng ta. Ðấng đã khiến chúng phải chạy trốn, thảm bại. Hãy suy nghĩ, hãy ghi lòng rằng có Chúa ở với ta thì quân thù chẳng làm gì ta được, vì khi chúng đến, chúng thấy ta thế nào thì chúng theo đó mà đối phó, và tùy theo ý nghĩ chúng thấy nơi ta mà thích ứng những lối mê hoặc của chúng .

Nếu chúng thấy ta đang vui mừng trong Chúa, đang nghĩ đến phúc lộc tương lai, đang suy ngắm trong tâm hồn những điều về Chúa, đang nghĩ rằng mọi sự đều ở trong tay Chúa, rằng quỷ không có sức lực gì chống lại người Kitô hữu, hoàn toàn không có chút quyền lực chống lại người nào cả, khi nhìn thấy linh hồn vững lòng với những suy nghĩ như thế, chúng đành tháo lui nhục nhã.

Hạnh thánh Antoine 42.

Trad. B. Lavaud "Lettres Chrétiennes" no 4, p. 56 - 57

 

 

SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM

R. BERNARD. Limage de Dieu daprès saint Athnase, coll. "Théologie", Paris, Aubier, 1952.

J. ROLDANUS. Le Christ et lhomme dans la théologie d Athanase, Leyde, Brill, 1968

Politique et théologie chez Athanase dAlexandrie Colloque de Chantilly 1973, Paris, Beuchesne 1973.

Các bản văn dịch : Vie de saint Antoine : "Lettres Chrétiennes" no. 4, Paris, Le Centurion-Grasset. "Sources Chrétiennes" : Lettres à Sérapion, no. 15 - Sur l Incarnation du Verbe, no. 199.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt