TRƯỚC CƠN GIÓ BÁCH HẠI VÀ NHỮNG TRANH CHẤP TRONG GIÁO HỘI CYPRIEN
J. LIÉBAERT
J. Liébaert. Giáo phụ. Tập 1: Từ thế kỷ I đến thế kỷ IV. Nxb. Trở Về Nguồn. | Nguyên bản tiếng Pháp: Les Pères de l’Église. Vol. I, Paris, 1986.
Cho tới phần tư đầu thế kỷ IV, vẫn chính Bắc Phi cống hiến cho chúng ta những chứng nhân nổi bật nhất của Kitô giáo Latinh : Luật sư Minucius Felix, dù người ta công nhận ông đã lập cư ở Roma, nhưng ông là người Phi Châu. Ít ra là theo nguyên quán, là người đồng thời với Tertullien và có thể đã bắt chước theo Tertullien, ông để lại cho chúng ta một cuốn đối thoại hộ giáo thật cao nhã mang tựa đề Octavius, tên của người bạn mà ông lấy làm người đối thoại chính ; rồi thánh Giám Mục Cyprien thành Carthage và nhà thần học giáo dân Lactance, ngoài ra còn phải kể đến nhà tu từ Arnobe de Sicca, tác giả của một tác phẩm biện hộ cho Kitô giáo khá xoàng xĩnh vào đầu thế kỷ IV. Tại Roma, ngôn ngữ Latinh trong Kitô giáo phát triển chậm hơn, ít ra phải đợi tới khoảng 250 mới thấy xuất hiện tác phẩm thần học quan trọng đầu tiên bằng tiếng Latinh : Khảo luận "về Ba Ngôi" của linh mục Novatien cũng quan tâm tới các vấn đề luân lý trong ba tác phẩm khác. Trong các cuộc tranh luận của nội bộ Giáo Hội thời đó, hoạt động của ông đụng chạm với hoạt động của thánh Cyprien. Trong phần này, chúng ta chỉ bàn tới Cyprien và Lactance.
CYPRIEN, GIÁM MỤC CARTHAGE
Ðối với chúng ta, Caecilius Cyprianus đi vào lịch sự khi ngài trở thánh Giám Mục Carthage năm 248 hoặc 249. Xuất thân từ một gia đình giàu có, và, theo thánh Jérome, ông là bậc thầy về khoa tu từ, dù mới chỉ trở lại đạo (246?), ít lâu sau ngài đã trở thành một người của Giáo Hội mà vẫn thuộc vào xã hội có học thức và tầng lớp lãnh đạo. Tuy nhiên, việc ngài trở lại vẫn thực sự là một trang đời lật qua : ngài đã phân phát gia tài cho người nghèo, và tuy không từ bỏ học thức của mình, từ nay ngài sẽ không trích dẫn tác giả nào khác ngoài các tác giả của Thánh Kinh, vì như ngài viết : "Có một sự khác biệt lớn lao giữa các Kitô hữu và các triết gia" (Thư 16, 55). Ít lâu sau khi trở lại, ngài viết một huấn dụ khuyên gắn bó với đức tin Kitô giáo (Ad Donatum). Ngài còn soạn một sưu tập các "chứng từ" về Thánh Kinh, rất quý giá vì cho chúng ta biết về những bản dịch Thánh Kinh đầu tiên bằng tiếng Latinh ; nhưng một số nhà phê bình không công nhận ngài là tác giả của công trình này. Chúng ta biết Cyprien hầu như chỉ qua di sản văn chương của ngài, chủ yếu xuất hiện trong thời kỳ ngài làm Giám Mục. Di sản này đặc biệt bao gồm một tuyển tập thư tín rất quý giá (tổng cộng 81 thư, trong đó có 16 thư trao đổi) : đây thật sự là một bản "tường trình" về đời sống của Giáo Hội đương thời. Ðiều này có nghĩa là, nơi Cyprien, chúng ta gặp thấy một Kitô hữu và nhất là một Giám Mục đương đầu với những vấn đề của một cộng đoàn Kitô hữu đang sống giữa cơn biển động : sau cuộc bách hại ngặt nghèo dưới thời hoàng đế Dèce từ năm 250 đến 251, gây hậu quả nặng nề cho Giáo Hội, thì Giáo Hội lại tự xâu xé trong những cuộc bút chiến kịch liệt trước khi gặp phải cuộc bách hại dữ dội của hoàng đế Valérien (257-258). Bị đầy khỏi Carthage năm 257 và bị trảm quyết tại đó năm 258. Với khoảng trên 10 năm thi hành tác vụ cũng đủ làm cho ngài trở thành một trong những Giám Mục lớn của Giáo Hội cổ thời mà ảnh hưởng và danh tiếng không ai chối cãi vượt xa ngoài Bắc Phi và Tây Phương.
CYPRIEN VÀ VẤN ÐỀ NHỮNG NGƯỜI "SA NGÃ" ("LAPSI")
Năm 250, hoàng đế Dèce tung ra một chiến dịch nhằm tạo nên khối thống nhất dân tộc và tôn giáo chung quanh ông : mọi công dân trong đế quốc phải tham dự vào một nghi thức tôn thờ các thần minh để ủng hộ ông. Tất cả các Kitô hữu đều bị đặt trước một nố lương tâm bi đát. Họ buộc phải lựa chọn hoặc một hành vi thờ ngẫu tượng, hoặc phải chịu tù ngục, ta tấn, ngay cả chịu chết. Chỉ còn một con đường, đó là trốn tránh, và chính Cyprien đã chọn con đường đó khi rời bỏ Carthage và tiếp tục điều khiển Giáo Hội bằng thư từ (các thư từ số 5 đến 43). Thái độ này đã bị một vài giới chỉ trích dữ dội, nhất là hàng giáo sĩ Rôma, nơi Giáo Hoàng Fabim chịu tử đạo, nhưng Cyprien đã biết tự biện hộ và tái lập mối quan hệ tin cậy với Giáo Hội Rôma. Việc áp dụng những biện pháp bách hại không kéo dài lâu sau năm 250. Tuy nhiên, nó cũng làm cho nhiều người tử đạo và kéo theo số Kitô hữu bỏ đạo còn đông hơn. Khắp nơi, Giáo Hội đứng trước vấn đề phải cư xử thế nào đối với những tín hữu "sa ngã" này (tiếng Latinh là lapsi) : vì không thể tránh khỏi pháp luật, họ đã tìm lối thoát bằng cách, hoặc thực hiện hành vi thờ ngẫu tượng bắt buộc, hoặc chỉ làm một cử chỉ mơ hồ hơn (ném vài hạt hương lên bàn thờ), hoặc lo liệu kiếm giấy chứng nhận đã làm hành vi trên. Sau khi hành động như thế, những người bội giáo do yếu đuối này thật lòng muốn được nhận lại vào Giáo Hội. Vấn đề đã từng được đặt ra trong các cuộc bách hại trước đây, nhưng bây giờ nó mang một tầm mức khác. Ở Carthage, lúc Cyprien vắng mặt, một số người trong hàng giáo sĩ và những người "tuyên tín" (các Kitô hữu đã bị giam cầm vì đức tin) không hỏi ý ngài và cũng không lý gì đến những lời phản đối của ngài, đã bắt đầu rộng tay ban giấy xá tội cho các người "sa ngã". Ngược lại, ở Roma, Alexandrie, Antioche, những ngướ chủ trương nghiêm ngặt đã phản đối thái độ của hàng Giám Mục, vì nói chung, các ngài nghêng về việc giải hòa các "lapsi" có kèm theo một việc đền tội thích hợp. Ðó là căn nguyên đã đưa đến sự ly khai của phái chủ trương nghiêm ngặt của Novatien tại Roma, và sau đó có điều nghịch lý là những kẻ chống đối ở Carthage lại gia nhập phái này.
Mùa xuân năm 251, khi trở lại thành của mình, Cyprien đã quy tụ được ở đây một Công Ðồng các Giám Mục Phi Châu, Công Ðồng này đưa ra những quyết định liên quan đến việc tái hội nhập một số hạng lapsi ; năm 252, để phòng trước một cuộc bách hại mới, các Giáo Hội ở Roma và Alexandrie cũng đưa ra những biện pháp về xã hội. Cuộc tranh luận về kỷ luật đền tội này và những ly khai phát xuất từ đó, đã khiến Cyprien viết hai tác phẩm quan trọng : "Về các lapsi" và "Về sự duy nhất của Giáo Hội Công Giáo". Tác phẩm thứ hai khai triển hai ý tưởng chính : Giáo Hội là duy nhất và Giám Mục đoàn là "đoàn thể" phục vụ sự duy nhất này. Theo Cyprien, Giáo Hội tự nền tảng là "Mầu nhiệm hiệp nhất". Giáo Hội có ơn gọi hiệp nhất, Giáo Hội phải thực là sự hiệp nhất các tâm hồn ("một lòng"), các tâm trí ("một dạ") : "một dân được hợp nhất bằng chính sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Ly giáo không chỉ là một trọng tội, nó là chính sự phủ nhận Giáo Hội. Vì là duy nhất mà Giáo Hội là "Công giáo, nghỉa là phổ quát", và "Giáo Hội Công Giáo" là giáo Hội đích thực duy nhất : kiểu nói đó đã có một nghĩa gần với nghĩa chúng ta dùng. Cyprien không ngần ngại kết luận rằng, ngoài Giáo Hội không có các Bí Tích thành sự, cũng không có ân sủng hay ơn cứu độ : "Không ai có thể có Thiên Chúa làm Cha nếu không có Giáo Hội làm Mẹ". Cần phải thấy rõ là những khẳng định dứt khoát trên đây nhắm vào những kẻ xúi giục ly khai trong thời kỳ này, những kẻ chịu những trách nhiệm về những tuyệt giao cố ý với "Mẹ Giáo Hội" và từ Ignace thành Antioche cho tới Origène, Lactance họ đều bị coi là những kẻ tự cắt đứt với nguồn sự sống. Tuy nhiên, ở đây đã đặt ra những vấn đề thuộc Giáo Hội học và Bí Tích mà tương lai sẽ phải phân giải và soi sáng dần dần.
Sự duy nhất của Giáo Hội, tuy nhiên, không chỉ thuộc bình diện thiêng liêng, nó còn dựa trên sự kết hợp chặc chẽ, hữu hình của hàng Giám Mục ; và như Cyprien lập lại, hàng Giám Mục này tạo nên một "đoàn thể", một "đoàn" (collège) mà các thành viên phải gìn giữ sự hiệp nhất với nhau. Giám Mục chỉ có quyền với tư cách là thành viên của đoàn này ; Ngài là dấu chỉ và là trung tâm hiệp nhất của mỗi giáo Hội địa phương. Có một đoạn trong khảo luận khẳng định quyền tối thượng mà Tông Ðồ Phêrô đã truyền lại cho các vị kế nhiệm Ngài tại tòa Roma, nhưng chúng ta chỉ còn giữ được hai bản dịch đoạn văn này, tuy cả hai có lẽ đều xác thực cả, nhưng lại nhìn tầm quan trọng của quyền tối thượng không hoàn toàn như nhau và chúng ta cũng không rõ thứ tự thời gian soạn thảo ra chúng. Ý tưởng cơ bản là : sự hiệp nhất của Giáo Hội có nguồn gốc duy nhất được cụ thể hóa nơi con người Phêrô, rồi nơi Giáo Hội do Ngài "thiết lập" và nơi vị thủ lãnh Giáo Hội. Như vậy Giáo Hội ở Roma là nguồn hiệp nhất cho mọi Giáo Hội : "Giáo Hội đứng đầu mà từ đó phát xuất sự hiệp nhất tư tế ( = hiệp nhất của hàng Giám Mục)". Nhưng dầu vậy, về sau Cyprien cho thấy Ngài không sẵn sàng công nhận Giám Mục Roma có một quyền theo nghĩa mạnh của từ ngữ, trên các Giáo Hội địa phương khác. Giữa những bận bịu lo toan của một Giám Mục, Cyprien vẫn có thời giờ để viết những lá thư dài về các đề tài ít nóng bỏng hơn (về việc rửa tội trẻ em : Thư 64 ; về Phép Thánh Thể : Thư 63 .) hoặc những tập sách nhỏ chủ yếu là về tu đức, trong đó Ngài chú tâm đến việc dạy các nhân đức của đời sống Kitô hữu : trước hết là tình huynh đệ bác ái, thể hiện bằng sự nhẫn nại, tinh thần bất bạo động, và hòa bình (De bono patientioe), bằng sự khiêm hạ nhún nhường (De zelo et lovore), bằng việc thực thi các việc bác ái từ thiện (De opere et eleemosynis). Ngài ca ngợi sự siêu thoát đối với thế gian (De mortalitate), ơn gọi của các trinh nữ được thánh hiến cho Chúa (De habituvirginum), mẫu gương cao vời của các vị tử đạo (Ad fortunatum). Ngài muốn dạy người ta cầu nguyện khi chú giải Kinh Lạy Cha (De oratione, dominicae). Cũng như nơi Tertullien, mà đôi khi Cyprien rõ ràng dựa vào, Ðức Kitô là tâm điểm của linh đạo, chính nơi Ngài mà cuộc sống chung của các Kitô hữu bén rễ sâu trong những cảnh ngộ của đời sống hàng ngày.
CYPRIEN VÀ CÁC CUỘC TRANH LUẬN VỀ PHÉP RỬA
Sự hòa hợp giữa Cyprien và Giáo Hoàng Corneille (251 - 153) trong vấn đề những ngưòi lapsi vẫn còn là một sự kiện nổi tiếng ; tên các ngài được gắn liền với nhau trong Kinh Nguyện Thánh Thể truyền thống và trong niên lịch phụng vụ Roma. Sự hòa hợp này giữa Roma và Carthage đã bị tổn hại ít lâu sau dưới triều Giáo Hoàng Stephane (254 - 257). Các mối quan hệ giữa Stephne và Cyprien khởi đầu không tốt đẹp gì : trong các vấn đề liên quan đến các Giáo Hội ở Espagne và Proven, các ngài có những ý kiến trái ngược nhau. Tiếp đến là cuộc tranh chấp nổ ra về tính thành sự của phép Rửa Tội ban trong các cộng đồng lạc giáo hoặc ly giáo. Cả ở đây, vấn đề đã đặt ra từ lâu và các thực hành vốn đã không đồng nhất. Ðối với một số Giáo Hội, mọi phép Rửa ban ra ngoài Giáo Hội Công Giáo bị coi là bất thành ; vì vậy người ta rửa tội, có khi là rửa tội lại, tất cả những người trở lại từ các nhóm ly khai. Ðó là cách thực hành bên Tiểu Á, Syrie và Phi Châu : khảo luận về Phép Rửa của Tertullien và khảo luận về tính duy nhất của Giáo Hội Công Giáo của Cyprien làm chứng điều đó. Ngược lại, ở Roma và Alexandie, người ta chỉ đặt tay trên những người trở lại vì Phép Rửa đã được ban theo thể thức và ý hướng của Giáo Hội. Với thời gian, những cách thực hành khác nhau này đã gây ra những cuộc tranh luận, đáng kể nhất là ở Bắc Phi. Tại công đồng Phi Châu mùa thu năm 255, một nhóm Giám Mục đòi phải đưa ra lập trường chính thức. Công đồng tuyên bố cách thực hành thông thường ở Phi Châu là cách duy nhất hợp pháp, và Cyprien soạn thảo nhiều lá thư theo chiều hướng này. Năm sau, ngài viết cho Giáo Hoàng Stephane để thông đạt quyết định đó, và đưa ra lời mời khá rõ mong Giáo Hoàng thuận theo. Cuộc tiếp đón các sứ giả của Cyprien diễn ra lạnh nhạt, và câu trả lời của Ðức Stephane thật thẳng thắn : nại tới truyền thống của Giáo Hội mình, ngài duy trì cách thực hành của Roma. Quá phật ý, Cyprien tìm kiếm và gặp được chỗ dựa bên Ðông Phương, cách riêng nơi Giám Mục Firmilien thành Césarée ở Cappadoce. Dựa vào lời lẽ phát biểu trong một lá thư của Giám Mục này, được lưu giữ trong số thư từ của Cyprien, chúng ta có thể thấy được sự dữ dội, kịch liệt của cuộc tranh luận lên tới mức độ nào. Qua thư, chúng ta biết được rằng Ðức Giáo Hoàng đã đe dọa cắt đứt sự hiệp thông với người Phi Châu, và cả với Ðông Phương. Denys thành Alexandrie cũng xác nhận điều này, ông cũng đã nhiều lần can thiệp để làm bầu khí lắng dịu, nhưng vô hiệu, Firmilien còn nói đến việc vạ tuyệt thông đã được đưa ra, nhưng điều này không chắc chắn lắm. Tháng 9 năm 256, Công Ðồng Phi Châu tái nhóm, người ta còn giữ lại được biên bản của Công Ðồng này. Các Giám Mục hiện diện, tuy không chính thức phản đối lại Ðức Stephane, đã y chuẩn quyết định trước đây, cùng với Cyprien, các ngài cho rằng mỗi giám Mục thi hành quyền lãnh đạo Giáo Hội mình cách tự do và có trách nhiệm, không phải tường trình với một quyền bính cao hơn. Làm sao Cyprien dung hợp đòi hỏi được tự trị này với quan niệm của ngài về Giám Mục đoàn và vai trò của nó ? Ở đây, không thể chối cãi là Giáo Hội học của ngài có một khe hở và xem ra nó không bảo đảm một nền tảng đủ chặt chẽ cho việc bảo toàn sự hiệp nhất. Sự thể như vậy kéo dài gần một năm. Tháng 8 năm 257, Giáo Hoàng Stephane chịu tử đạo trong cơn bách hại do hoàng đế Valérien phát động nhắm vào các thủ lãnh Giáo Hội. Cùng lúc ấy, Cyprien bị bắt giữ và lưu đầy. Một năm sau, ngày 14 tháng 9 năm 258, ngài hoàn tất cuộc tử đạo của mình, chung quanh có hàng giáo sĩ và giáo dân của ngài với một lễ an táng được tổ chức thật trọng thể. Tranh luận về Phép Rửa tự nó lụi tàn. Những cách thực thi khác nhau tiếp tục cùng tồn tại, nhưng dần dần, trong thế kỷ VI, cách thực hành của Roma và Alexandrie chiếm ưu thế và cuối cùng trở thành bắt buộc. Thánh Augustin biện minh cho cách thực hành này trên bình diện thần học. Việc các Giáo Hội ly khai ngày nay công nhận Phép Rửa của nhau là nằm trong đường lối giải quyết vấn đề mà người xưa đã làm.
Con người Cyprien là như thế, con người thuộc Giáo Hội, và đúng hơn, con người của Giáo Hội, cho dù suy tư của ngài về Giáo Hội chưa hoàn tất. Vì phải công nhận rằng - như hậu thế đã công nhận - trong hoạt động Giám Mục của ngài, chính Giáo Hội, vừa là cộng đồng thiêng liêng của đức tin và đức ái, vừa là định chế do hàng Giám Mục hướng dẫn, là đối tượng mà ngài muốn phục vụ và bảo vệ. Sự tồn tại dai dẳng trong nhiều thế kỷ của ly giáo Novatien song song với cuộc ly khai của bè Donato ở Bắc Phi bắt đầu từ thế kỷ IV đã khiến cho công trình của Cyprien về Giáo Hội học và về Bí Tích mang tính thời sự trong một thời gian dài. Với tham vọng thiết lập một Giáo Hội chân thật duy nhất, những người theo bè Donato đã coi các tác phẩm thiên về việc "rửa tội lại" của ngài gần như là Thánh Kinh của họ. Trong suốt cuộc đấu tranh chống lại những kẻ đó, thánh Augustin rơi vào một tình huống khó xử vì phải bác bẻ những luận đề của một bậc thầy mà ngài, cũng như mọi người đương thời rất kính trọng ; hơn nữa, đó là vị thầy mà ngài cũng như thánh Jérome vẫn thích nại tới. Cyprien có vinh dự là một trong số Giáo PhụLatinh hiếm hoi được biết đến ở Ðông phương. Việc tôn kính ngài như một Giám Mục tử đạo lan rộng, vượt ra ngoài Phi Châu. Ngài vẫn còn là một trong những trụ cột của Giáo Hội Tây Phương.
SÁCH NGHIÊN CỨU THÊM
M. JOURJON, Cyprien de Carthage, Paris, Editions Ouvrieres 1957. J. COLSON, lEvêque, lien dunité et de charité chez saint Cyprien de Carthage, Paris S.O.S. 1961 M. SPANNEUT, Tertullien et les premiers moralistes africains, p. 65 - 113
Các bản dịch :
Saint Cyprien, Correspondance : coll "Les Belles Lettres" Association Guillaume Budé, 2 vol. 1945 P. de Labriolle, Saint Cyprien, De lunité de lEglise Catholique, coll. "Unam Sanctam" no. 9, Paris, Le Cerf 1942 À Donat, La vertu de Patience : "Sources Chrétiennes" no. 291
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC