Chủ nghĩa Marx

Các ngành lao động riêng biệt: Công nhân công xưởng theo nghĩa hẹp

TÌNH CẢNH CỦA GIAI CẤP LAO ĐỘNG Ở ANH - MỤC LỤC

 

TÌNH CẢNH CỦA GIAI CẤP LAO ĐỘNG Ở ANH.

 

Theo những sự quan sát của bản thân và

những nguồn đáng tin cậy

______________

 

CÁC NGÀNH LAO ĐỘNG RIÊNG BIỆT

 

Công nhân công xưởng theo nghĩa hẹp

 


C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 445-459. Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh | Bản dịch tiếng Pháp.


 
 
 

Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu một cách tương đối tỉ mỉ các bộ phận trọn yếu nhất của giai cấp vô sản công nghiệp Anh; căn cứ vào nguyên tắc quy định trên (tr.345), chúng ta phải bắt đầu từ những công nhân công xưởng, tức là những công nhân mà đạo luật về công xưởng nói tới. Đạo luật ấy đã quy định thời gian làm việc trong các công xưởng dùng sức nước hoặc sức hơi để kéo sợi hoặc dệt len, tơ, bông hoặc lanh; do đó, đạo luật ấy có hiệu lực đối với các ngành chủ yếu nhất của công nghiệp Anh. Những công nhân làm việc tại các ngành sản xuất tạo thành bộ phận lâu đời nhất, đông đảo nhất, có trí tuệ và nghị lực cao nhất trong công nhân Anh, do đó họ cũng là những công nhân không an phận nhất và bị giai cấp tư sản thù ghét nhất. Đứng hàng đầu của phong trào công nhân chính là họ, nhất là những công nhân trong ngành bông sợi, cũng như đứng đầu phong trào chính trị của giai cấp tư sản chính là các ông chủ của họ, các chủ xưởng, nhất là những chủ xưởng ở Lan-kê-sia.

Trong phần "Lời mở đầu", chúng ta đã thấy chính những người làm việc trong các ngành sản xuất ấy là những người, do sự xuất hiện của máy móc mới, đã bị tách trước hết như thế nào khỏi những điều kiện sinh hoạt trước kia. Bởi vậy chúng ta không lấy gì làm lạ rằng những kỹ thuật mới được phát minh liên tiếp sau đó cũng ảnh hưởng đến bộ phận dân cư ấy một cách hết sức sâu sắc và dai dẳng. Lịch sử ngành bông sợi do I-u-rơ1) và Bai-nơ2) và những tác giả khác viết, trên mỗi trang đều nói đến những cải tiến mỗi ngày một mới, đại bộ phận những cải tiến ấy cũng đã được áp dụng trong các ngành khác đã nói đến của công nghiệp dệt. Lao động thủ công hầu như chỗ nào cũng bị máy móc loại bỏ; hầu như tất cả mọi thao tác đều dùng sức nước hoặc sức hơi nước, và mỗi năm lại còn có những cải tiến mới hơn.

Dưới một chế độ xã hội tổ chức được hợp lý thì những cải tiến như thế đều phải được hoan nghênh; nhưng ở nơi đang xảy ra cuộc chiến tranh kịch liệt của mọi người chống mọi người thì một số người cá biệt quơ tất cả lợi ích về mình, do đó cướp mất tư liệu sinh hoạt của đại đa số. Mỗi cải tiến về máy móc đều cướp mất mẩu bánh mì của công nhân và cải tiến càng lớn thì công nhân thất nghiệp càng đông; do đó, mỗi một cải tiến đều gây nên cho một số công nhân những hậu quả như một cuộc khủng hoảng thương nghiệp, tức là thiếu thốn, nghèo cùng và phạm tội lỗi. Chúng ta hãy lấy mấy ví dụ để chứng minh. Vì ngay phát minh đầu tiên là máy sợi gien-ny do một công nhân điều khiển (xem ở trên) đã có thể sản xuất được ít ra là gần gấp sáu lần một chiếc xa bình thường, cho nên mỗi cái máy gien-ny mới sẽ làm cho năm người thợ kéo sợi thất nghiệp. Máy sợi con có sức sản xuất lớn hơn máy sợi gien-ny nhiều và cũng chỉ cần một công nhân điều khiển, còn cướp mất sinh kế của nhiều người hơn nữa. Cái máy mun, với một sản lượng như thế thì cần ít công nhân hơn, cũng có tác dụng giống như vậy, và mỗi lần nó được cải tiến, tức là mỗi lần số ống suốt tăng thêm thì lại rút bớt số công nhân cần thiết. Thế mà số ống suốt trên máy mun đã tăng lên nhiều, khiến rất nhiều công nhân thất nghiệp: trước kia mỗi người thợ kéo sợi cùng với vài ba đứa trẻ con (làm người nối sợi) có thể trông coi 600 ống suốt, nhưng bây giờ một mình người ấy có thể coi hai cái máy mun tổng cộng từ 1 400 đến 2 000 ống suốt, thế là hai người thợ kéo sợi lớn tuổi và một số thợ phụ phải thất nghiệp. Từ khi nhiều xưởng sợi dùng máy sợi con cọc di động thì vai trò của người thợ kéo sợi hoàn toàn không còn nữa và bị máy móc thay thế. Tôi có trong tay một cuốn sách do một thủ lĩnh có uy tín phái Hiến chương ở Man-se-xtơ là Giêm-xơ Li-sơ viết 1). Tác giả đã từng làm việc nhiều năm trong các ngành công nghiệp khác nhau, ở nhiều công xưởng và mỏ than, bản thân tôi cũng biết ông là một người thành thực, đáng tin cậy và thạo việc. Nhờ địa vị của ông ở trong đảng nên ông đã nắm được nhiều tài liệu hết sức tỉ mỉ về các loại công xưởng, những tài liệu do bản thân công nhân thu thập được; ông đã làm một số bảng thống kê, qua đó có thể thấy rằng năm 1829, ở 35 công xưởng đã có 1 060 thợ kéo sợi nhiều hơn năm 1841, mặc dầu khi đó số ống suốt trong những công xưởng ấy đã tăng thêm 99 239 cái. Ông còn nêu ra 5 công xưởng trong đó không còn một người thợ kéo sợi nào, vì ở đấy chỉ dùng máy sợi con cọc di động. Trong khi số ống suốt tăng 10%, thì số thợ kéo sợi lại rút đi 60% và hơn nữa. Li-sơ nói thêm rằng từ năm 1841, người ta đã áp dụng nhiều cải tiến bằng những biện pháp như đem tăng thành ống suốt hàng đôi (doubledecking), v.v., kết quả là từ năm 1841, vài công xưởng trong số những công xưởng nói trên lại thải ra một nửa số thợ kéo sợi; chỉ trong một công xưởng, trước đây không lâu còn có 80 thợ kéo sợi, bây giờ chỉ còn lại 20 người; những người khác nếu không bị sa thải, thì cũng buộc phải làm công việc của trẻ con để ăn lương trẻ con. Về Xtốc-poóc, Li-sơ cũng trình bày tình hình như thế, năm 1835 có 800 thợ kéo sợi, năm 1843 chỉ còn 140 người, mặc dù công nghiệp của thành phố ấy đã phát triển khá mạnh trong 8-9 năm ấy. Về máy chải gần đây cũng có những cải tiến tương tự cướp mất sinh kế của nửa số công nhân. Trong một công xưởng đã đặt máy đấu sợi cải tiến, thì kết quả là trong 8 em gái có 4 em thất nghiệp, còn tiền công của 4 em còn lại cũng bị chủ xưởng giảm từ 8 si-linh xuống 7 si-linh. Tình hình công nghiệp dệt vải cũng thế. Máy dệt có động cơ kế tiếp nhau chiếm đoạt mọi địa bàn của máy dệt tay trong ngành dệt vải. Vì nếu so với máy dệt tay thì nó sản xuất nhiều hơn gấp bội, và một công nhân có thể đứng hai máy có động cơ, cho nên ở đây cũng có nhiều thợ thất nghiệp. Trong tất cả mọi ngành sản xuất công xưởng, ngành kéo sợi lanh và sợi len, ngành chế biến tơ, tình hình cũng đều như vậy; máy dệt có động cơ thậm chí đã bắt đầu chiếm đoạt từng bộ phận cá biệt của nghề dệt len và dệt lanh; chỉ riêng vùng Rô-sđên, trong ngành dệt nỉ mỏng và các hàng len khác,  máy dệt có động cơ được dùng nhiều hơn máy dệt tay. - Về vấn đề này, giai cấp tư sản thường trả lời rằng máy móc một khi được cải tiến thì chi phí sản xuất sẽ giảm đi, kết quả là giá cả của thành phẩm sẽ hạ xuống, mà hễ giá cả hạ xuống thì lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, do đó những công nhân thất nghiệp sẽ mau chóng có thể lại tìm được việc làm trong những công xưởng mới xây dựng. Đương nhiên, giai cấp tư sản nói hoàn toàn đúng ở một điểm là: trong những điều kiện nhất định có lợi cho sự phát triển công nghiệp nói chung thì mỗi lần hạ giá của thứ hàng hoá chế tạo bằng nguyên liệu giá rẻ đều làm tăng thêm lượng tiêu thụ rất nhiều, dẫn đến việc xây dựng thêm những công xưởng mới; nhưng trừ điểm ấy ra thì trong những luận điểm của họ không có một lời nào đúng cả. Họ hoàn toàn không chú ý đến việc còn phải trải qua nhiều năm, trước khi kết quả của sự hạ giá được biểu hiện ra và những công xưởng mới được xây dựng lên. Họ làm thinh trước tình hình do tất cả các cải tiến về máy móc, công việc thực sự đòi hỏi nhiều thể lực ngày càng được máy móc làm thay, và do công việc của người đàn ông đã biến thành cái công việc đơn giản là đứng coi máy móc, đó là công việc mà phụ nữ yếu sức, thậm chí trẻ con cũng hoàn toàn có thể làm được, mà tiền công lại giảm đi một nửa, thậm chí giảm đi ba lần, và như vậy thì mặc dù sản xuất đã mở rộng, công nhân người lớn lại càng ngày càng bị loại ra khỏi công nghiệp, và lại càng không tìm ra việc làm; họ đã làm thinh trước tình hình có những ngành lao động nguyên vẹn vì thế mà hoặc đang mất đi hoàn toàn, hoặc đang thay đổi nhiều đến nỗi công nhân phải học lại từ đầu, thêm nữa ở đây họ cố tránh không nói đến cái lý lẽ mà trong mọi tình hình khác họ thường viện dẫn cho đến khi vấn đề cấm lao động của trẻ con được đặt ra, tức là muốn có được những kỹ năng cần thiết thì phải làm quen với lao động ở công xưởng ngay từ nhỏ, tức là từ trước mười tuổi (chẳng hạn xem mấy chỗ trong "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động công xưởng"). Cuối cùng giai cấp tư sản cũng tuyệt nhiên không nói gì đến quá trình phát triển kỹ thuật đang tiếp tục không ngừng, cho nên dù người công nhân thực có kiếm được việc làm trong ngành lao động mới thì sự cải tiến của máy móc cũng sẽ thải anh ta ra và hoàn toàn cướp mất của anh ta lòng tin tưởng ở ngày mai. Nhưng giai cấp tư sản thì lại thu được toàn bộ lợi ích của sự cải tiến máy móc; trong những năm đầu, khi nhiều máy cũ vẫn còn được dùng, sự cải tiến còn chưa thực hành đều khắp, giai cấp tư sản đã vớ được cơ hội tốt nhất để làm giàu, nên đòi hỏi họ phải nhìn thấy mặt xấu của sự phát triển sản xuất bằng máy móc thì thực là đòi hỏi ở họ quá nhiều.

Máy móc được cải tiến thì tiền công hạ xuống, đó cũng là điểm mà giai cấp tư sản bác bỏ kịch liệt, còn công nhân thì nhiều lần khẳng định điểm ấy. Giai cấp tư sản đoán chắc với chúng ta rằng mặc dù tiền công tính theo sản phẩm có hạ xuống theo với cải tiến sản xuất, nhưng tiền công hàng tuần nói chung vẫn đã cao lên nhiều hơn là hạ xuống và tình cảnh của công nhân đã được cải thiện nhiều hơn là đã xấu đi. Rất khó trả lời chính xác vấn đề này vì công nhân phần nihều viện ra những ví dụ về tiền công tính theo sản phẩm bị hạ; mặc dù thế, không còn nghi ngờ gì nữa là trong các ngành lao động khác nhau, tiền công hàng tuần đã hạ xuống theo với việc áp dụng máy móc. Những người được gọi là thợ kéo sợi nhỏ, kéo sợi nhỏ trên máy mun, đúng là được tiền công cao; mỗi tuần từ 30 đến 40 si-linh, đó là vì họ đã tổ chức thành một công đoàn vững mạnh để chống sự hạ thấp tiền công, đồng thời lao động của họ cũng cần sự huấn luyện lâu dài. Nhưng người thợ kéo sợi thông thường thì tiền công rất thấp, vì họ phải cạnh tranh với những máy tự động (máy sợi con cọc di động), là loại máy không dùng được vào việc kéo sợi nhỏ và công đoàn của họ đã bị việc áp dụng các máy ấy đánh một đòn mạnh. Một công nhân làm công việc kéo sợi như vậy nói với tôi rằng anh ta kiếm được mỗi tuần không quá 14 si-linh, điều ấy phù hợp với tài liệu của Li-sơ nói rằng trong nhiều công xưởng khác nhau, người công nhân kéo sợi thông thường mỗi tuần kiếm được không đến 16 si-linh rưỡi, và một người trước đây ba năm mỗi tuần kiếm được 30 si-linh thì bây giờ vất vả lắm mới kiếm được 12 si-linh rưỡi, và năm ngoái tiền công bình quân cũng không vượt quá con số ấy. Thực ra thì tiền công của phụ nữ và trẻ con thụt xuống ít hơn, nhưng đó chỉ vì ngay từ đầu tiên công đó đã không cao rồi. Tôi biết nhiều phụ nữ, là những người goá bụa có con nhỏ, làm việc vất vả mà mỗi tuần cũng chỉ kiếm được từ 8 đến 9 si-linh; mà mỗi người khi đã biết được giá cả những vật phẩm cần thiết nhất cho đời sống ở Anh thì đều phải thừa nhận rằng món tiền ít ỏi ấy không thế nào đủ nuôi gia đình được. Tất cả công nhân đều nhất trí xác nhận rằng tiền công nói chung bị hạ thấp theo với việc cải tiến máy móc. Giai cấp tư sản công nghiệp nói rằng dường như tình cảnh của giai cấp công nhân đã được cải thiện theo với việc áp dụng máy móc, nhưng tại mỗi cuộc họp của công nhân ở các khu công xưởng đều có thể khẳng định rằng chính bản thân công nhân coi đó là lời nói láo không thể tha thứ được. Nhưng nếu đúng là chỉ có tiền lương tương đối, từ tiền lương tính theo sản phẩm bị hạ, còn tiền lương tuyệt đối, tức tổng số tiền công mà người công nhân kiếm được trong một tuần lễ, vẫn không có gì thay đổi, thì từ đó nên rút kết luận gì? Kết luận chỉ là công nhân phải yên lặng nhìn các ngài chủ xưởng nhét đầy túi, hoàn toàn được hưởng lợi ở mỗi cải tiến, mà chẳng chia cho công nhân một tý chút nào. Giai cấp tư sản, trong khi đấu tranh với công nhân, đã quên mất ngay cả những nguyên lý cơ bản nhất của khoa kinh tế chính trị của chính họ. Cái giai cấp tư sản ấy trong các trường hợp khác đều sùng bái Man-tút lại hoảng hốt kêu lên với công nhân rằng: nếu không có máy móc thì thử hỏi mấy triệu con người tăng thêm trong số nhân khẩu nước Anh sẽ kiếm ở đâu ra việc làm? 1). Thật là nhảm nhí ! Làm như là chính giai cấp tư sản không biết rõ ràng rằng nếu không có máy móc và sự phồn thịnh công nghiệp do máy móc tạo nên thì "mấy triệu con người" ấy đã không bao giờ sinh ra và lớn lên ! Nếu nói rằng máy móc cũng mang lại lợi ích nào đấy cho công nhân thì chỉ là ở chỗ nó đã chứng minh cho công nhân thấy được sự cần thiết phải cải tạo xã hội để bắt máy móc làm việc không phải gây hại mà là có lợi cho công nhân. Các ngài tư sản thông thái ấy có thể đi hỏi những người quét đường ở Man-se-xtơ hoặc ở bất cứ nơi nào khác (bây giờ, thật ra là đã muộn rồi, vì về công việc này cũng đã có phát minh và đã sử dụng máy móc), đi hỏi những người bán muối, bán diêm, bán cam, bán dây giày, v.v., ở ngoài phố, hoặc những người buộc phải đi ăn xin, xem ngày trước họ làm gì, thì sẽ có nhiều người trả lời rằng: họ là công nhân công xưởng bị máy móc làm thất nghiệp. Trong điều kiện xã hội hiện tại, việc cải tiến máy móc đối với công nhân chỉ có thể đẻ ra hậu quả bất lợi, và nhiều khi rất nặng nề; mỗi một cái máy mới đều mang lại thất nghiệp, túng thiếu, bần cùng, và ở trong một nước hầu như khi nào cũng có "nhân khẩu quá thừa" như nước Anh, thì trong đại đa số trường hợp, mất việc làm là điều bất hạnh nhất đối với một công nhân. Không cần phải nói là cái hiện tượng sống không được đảm bảo ấy, sinh ra bởi kỹ thuật không ngừng phát triển và nạn thất nghiệp kèm theo, đã gây chán nản, ưu phiền như thế nào cho những người công nhân mà cuộc sống vốn đã hoàn toàn bấp bênh ! Muốn khỏi rơi vào tình trạng tuyệt vọng, người công nhân ở đây chỉ có hai con đường: hoặc phản kháng giai cấp tư sản cả bên trong lẫn bên ngoài, hoặc rượu chè và phóng đãng nói chung. Và công nhân Anh, có người đã chọn con đường thứ nhất, có người đã chọn con đường thứ hai. Lịch sử giai cấp vô sản Anh đã thuật lại hàng trăm cuộc bạo động phá hoại máy móc và phản kháng giai cấp tư sản nói chung, còn về cuộc sống phóng đãng thì chúng ta đã nói đến rồi: cái đó đương nhiên chỉ là một hình thức biểu hiện đặc biệt của sự tuyệt vọng mà thôi.

Những công nhân không may nhất là những người phải cạnh tranh với máy móc mới sử dụng. Giá cả của hàng hoá họ sản xuất được quy định theo giá cả của cùng thứ hàng hoá ấy do máy sản xuất; vì sản xuất bằng máy rẻ hơn sản xuất bằng tay cho nên người công nhân cạnh tranh với máy móc đều bị trả lương thấp nhất. Còn đối với công nhân làm việc với máy cũ, nếu phải cạnh tranh với máy mới tối tân nhất, hoàn hảo hơn cũng đều như thế cả. Tất nhiên, còn có ai vào đây mà chịu thiệt thòi ấy? Chủ xưởng tiếc không vứt bỏ máy cũ, nhưng lại không muốn chịu thiệt thòi; đối với cái máy là một vật chết thì hắn không kiếm chác được gì, do đó hắn liền nhằm vào người công nhân sống, con dê thế tội của toàn thể xã hội. Trong số những công nhân phải cạnh tranh với máy móc ấy, những công nhân dệt thủ công trong công nghiệp dệt vải bông sống cuộc đời tồi tệ nhất. Tiền lương của họ thấp nhất, thậm chí khi đầy đủ việc làm, tiền lương mỗi tuần cũng không quá 10 si-linh. Máy dệt có động cơ đã lần lượt đoạt mất hết ngành dệt này đến ngành dệt khác; ngoài ra khung cửi dệt tay lại là nơi náu mình cuối cùng của những công nhân mất việc trong các ngành khác, cho nên ở đây số người làm lúc nào cũng quá thừa. Do đó một người thợ dệt thủ công lúc thường mà mỗi tuần kiếm được 6 - 7 si-linh thì đã cho mình là may mắn lắm, thậm chí để kiếm được số tiền ấy anh ta phải đứng máy từ 14 đến 18 giờ mỗi ngày. Ngoài ra, để dệt phần lớn hàng dệt phải cần một địa điểm ẩm thấp để cho sợi khỏi đứt luôn; vì vậy một phần do nguyên nhân ấy, một phần do công nhân nghèo túng không thể thuê nổi một gian nhà tốt, nên nền nhà những xưởng dệt thủ công hầu như không bao giờ được lát ván hay lát đá gì cả. Tôi đã có dịp đến thăm nhiều thợ dệt thủ công, nhà ở của họ trong những sân và những đường phố nhớp nhúa tồi tàn nhất, thông thường là ở trong những nhà hầm. Thường thường, năm - sáu người thợ dệt, trong đó một số đã có vợ, cùng ở trong một nhà nhỏ, chỉ có một hoặc hai phòng làm việc và một phòng lớn dùng chung để ngủ. Thức ăn của họ hầu như chỉ toàn khoai tây, đôi khi có một tí cháo yến mạch, rất ít khi có sữa, thịt thì hầu như không thấy bao giờ; rất nhiều người trong số đó là người Ai-rơ-len, hoặc tổ tiên là người Ai-rơ-len. Những thợ dệt thủ công không may ấy, mỗi lần xảy ra khủng hoảng đều bị nạn trước tiên và thoát nạn cuối cùng, lại còn bị giai cấp tư sản dùng làm công cụ để chống lại những người công kích chế độ công xưởng ! Hãy xem, - giai cấp tư sản đường đường đắc ý kêu lên, - hãy xem những thợ dệt nghèo ấy sống nghèo khổ bao nhiêu, còn những công nhân công xưởng sống sung sướng bao nhiêu, rồi lúc đó hãy phê phán chế độ công xưởng 1) ! Làm như là tình cảnh tồi tệ đó của thợ dệt thủ công không phải là tội lỗi của bản thân chế độ công xưởng và máy móc của nó, làm như là bản thân giai cấp tư sản không hiểu rõ ràng điều ấy như chúng ta ! Nhưng ở đây dính dáng đến lợi ích của giai cấp tư sản, vì vậy có nói dối mấy câu hoặc làm đạo đức giả chút ít, đối với họ cũng chẳng làm sao.

Bây giờ chúng ta hãy xét kỹ càng hơn tình hình việc phát triển sản xuất bằng máy móc càng ngày càng loại bỏ những công nhân đàn ông. Về kéo sợi cũng như về dệt, công việc đứng máy, chủ yếu chỉ là nối sợi đứt, còn mọi việc khác đều do máy làm; để làm việc ấy, không cần có sức lực, nhưng phải rất khéo tay. Cho nên đối với công việc ấy, đàn ông không những không cần thiết, mà do sự phát triển của bắp thịt và xương bàn tay của họ, thậm chí còn không thích hợp bằng phụ nữ và trẻ con, cho nên hầu như họ hoàn toàn bị loại ra khỏi ngành lao động ấy. Thế là cùng với việc sử dụng máy móc, sự hoạt động của cánh tay và sự ra sức của bắp thịt đều bị sức nước và sức hơi nước thay thế, sự cần thiết phải sử dụng đàn ông đã trưởng thành không còn thành vấn đề nữa, vì phụ nữ và trẻ con không những chỉ nhận tiền công thấp hơn, mà như trên đã nói, lại thích hợp với công việc ấy hơn là đàn ông, nên họ đã chiếm chỗ của đàn ông. Trong những xưởng sợi dùng máy sợi con, chỉ có phụ nữ và trẻ con làm, còn trong xưởng dùng máy mun thì một người kéo sợi là đàn ông (khi dùng máy sợi con cọc di động thì người ấy trở thành thừa) và mấy người phụ việc để nối sợi, phần lớn là phụ nữ và trẻ con, có khi là thanh niên từ 18 đến 20 tuổi, và thỉnh thoảng là một người thợ kéo sợi cũ đã mất việc1). Ở máy dệt có động cơ thì đa số là phụ nữ từ 15 đến 20 tuổi và trên 20 tuổi, thỉnh thoảng cũng có mấy người đàn ông, nhưng những người này rất ít được tiếp tục làm việc sau 21 tuổi. Ở những xưởng dùng máy kéo sợi thô cũng chỉ thấy phụ nữ, nhiều nhất chỉ vài người đàn ông chuyên làm công việc lau chùi và chuốt máy chải. Ngoài ra, các công xưởng đều còn phải thuê một số trẻ con nhất định để đặt và tháo những ống suốt (doffers), mấy người đàn ông làm đốc công trong xưởng, một thợ cơ khí và một thợ máy coi máy hơi nước, ngoài ra còn phải thuê thêm thợ mộc, người gác cổng, v.v.. Nhưng công việc chủ yếu là do phụ nữ và trẻ con làm. Các chủ xưởng cũng phủ nhận cả tình hình ấy, thậm chí năm ngoái họ còn công bố một bảng thống kê tỉ mỉ, nhằm chứng minh rằng máy móc hoàn toàn không loại bỏ đàn ông. Qua bảng thống kê ấy có thể thấy rõ rằng trong tổng số công nhân công xưởng, phụ nữ chiếm hơn một nửa (52%), đàn ông gần 48%, và trong số công nhân ấy thì quá nửa trên 16 tuổi. Tất cả những cái đó đều là sự thực, nhưng các ngài chủ xưởng rất cẩn thận không cho chúng ta biết trong những công nhân thành niên có bao nhiêu người là nam, bao nhiêu người là nữ, và mấu chốt của vấn đề chính là ở đấy. Họ còn công nhiên liệt kê vào những bảng ấy thợ cơ khí, thợ mộc và tất cả đàn ông có ít nhiều liên hệ với công xưởng, thậm chí đến cả những nhân viên văn phòng, v.v., nhưng họ không đủ can đảm nói lên tất cả sự thật. Những bảng ấy nói chung đầy dẫy những tài liệu bịa đặt, xuyên tạc, đảo lộn trắng đen, những con số bình quân có thể được lòng những người không thạo, nhưng không thể chứng minh được cái gì cho những người hiểu biết; chúng lờ tịt những vấn đề quan trọng nhất và chỉ chứng minh lòng ích kỷ mù quáng và tính gian dối của tác giả là các chủ xưởng. Chúng ta có thể trích dẫn những tư liệu về tuổi tác và giới tính của công nhân qua bài diễn văn của huân tước Ê-sli phát biểu ở Hạ nghị viện ngày 15 tháng Ba 1844 để bênh vực cho bản dự luật về ngày lao động mười giờ, những tư liệu ấy không bị các tài liệu của chủ xưởng bác bỏ, nhưng cũng chỉ đề cập đến một phần của công nghiệp công xưởng nước Anh thôi. Trong số 419 560 công nhân công xưởng của Đại Bri-ten (năm 1839) có 192 887 người, tức gần một nửa, dưới 18 tuổi; 242 296 người là nữ, trong số đó có 112192 người dưới 18 tuổi. Như vậy, trong số công nhân nam thì có 80 695 người dưới 18 tuổi, còn công nhân nam thanh niên thì tổng cộng chỉ có 96569 người, hoặc 23%, tức không đến một phần tư tổng số công nhân. Trong những công xưởng dệt bông, nữ công nhân chiếm 56,25%; trong những công xưởng dệt len - 69,5%, trong những công xưởng dệt lụa - 70,5%, trong những công xưởng dệt lanh - 70,5%. Những con số ấy tưởng đã đủ chứng minh cho việc công nhân đàn ông bị gạt bỏ; nhưng muốn xác minh điểm ấy thì chỉ cần ghé vào bất cứ một công xưởng nào là được. Kết quả là trật tự xã hội hiện tồn tại tất yếu bị đảo lộn, sự chuyển biến ấy mà người công nhân bắt buộc phải chịu đang gây cho họ những hậu quả nguy hại nhất. Trước hết là công việc của những người phụ nữ đã hoàn toàn phá hoại gia đình; vì nếu người vợ một ngày làm việc 12 - 13 giờ trong công xưởng, còn người chồng lại cũng làm việc ấy ở đấy hay ở nơi nào khác trong một thời gian cũng dài như vậy, thì vận mệnh con cái họ sẽ như thế nào ? Chúng lớn lên như cỏ dại hoàn toàn không được săn sóc, hoặc mỗi tuần người ta bỏ ra một si-linh hoặc một si-linh rưỡi, đem chúng gửi cho người khác giữ, mà những người này đối đãi với chúng như thế nào thì cũng rất dễ hình dung. Cho nên, trong những khu công xưởng, những việc rủi ro xảy ra vì trẻ con thiếu được săn sóc tăng lên một cách đáng sợ. Căn cứ vào sổ sách của viên dự thẩm của thành phố Man-se-xtơ (theo tài liệu của tiểu ban điều tra về lao động công xưởng, báo cáo của bác sĩ Hô-kin-xơ, tr. 3) thì trong 9 tháng có 69 trẻ con chết cháy, chết bỏng, 56 đứa chết đuối, 23 đứa chết vì ngã, 77 đứa chết vì những tai nạn khác, tức là tất cả có 225 tai nạn chết người1), còn ở Li-vớc-pun, không phải là thành phố công xưởng, thì trong 12 tháng, tất cả chỉ có 146 tai nạn chết người. Những tai nạn ở các mỏ than không tính vào số liệu thống kê của hai thành phố ấy. Thêm nữa, nên chú ý rằng viên dự thẩm ở Man-se-xtơ không có trách nhiệm đối với Xôn-phoóc, cho nên nhân khẩu của hai khu ấy có thể xem là xấp xỉ bằng nhau. Hầu như số nào của tờ "Manchester Guardian" cũng đều đưa tin về một hoặc mấy tai nạn bỏng nghiêm trọng. Bản thân những sự kiện ấy tự nó cũng đã rõ ràng và hoàn toàn xác minh rằng người mẹ đi làm cũng là một trong những nguyên nhân làm số trẻ con bị chết lên cao. Thường thường phụ nữ sau khi sinh đẻ ba - bốn ngày đã phải trở lại công xưởng làm việc, dĩ nhiên là đành phải bỏ đứa con mới sinh ở nhà; lúc nghỉ, họ vội vàng chạy về cho con ăn, bản thân cũng ăn qua loa một chút gì đó. Cách cho ăn thế nào thì cũng dễ hình dung thôi. Huân tước E-sli thuật lại lời nói của mấy nữ công nhân.

"M.H. hai mươi tuổi, có hai con, đứa bé nhất còn đang bú, phải để cho đứa lớn hơn một chút giữ; buổi sớm, mới hơn năm giờ chị ta đã vào xưởng, đến tám giờ tối mới về; cả ngày, sữa chảy làm ướt cả áo. - H. V. có ba con, năm giờ sáng thứ hai rời khỏi nhà, bảy giờ tối thứ bảy mới trở về; về đến nhà là bận con cái đến ba giờ sáng mới đi ngủ. Nhiều khi mưa ướt như chuột lột mà vẫn phải làm việc trong tình trạng như thế. Chị ấy nói: "Vú tôi đau biết chết được, sữa chảy ra làm ướt cả người".

Cái chế độ đểu giả ấy chỉ khuyến khích mọi người dùng thuốc ngủ để giữ cho trẻ con nằm yên, và thực tế, biện pháp ấy được dùng rất rộng rãi trong các khu công xưởng. Theo ý kiến của bác sĩ Giôn, phụ trách đăng ký hộ tịch của khu Man-se-xtơ, thì thói quen ấy là nguyên nhân chủ yếu của những trường hợp chết người thường gặp vì kinh giật. Công việc của người phụ nữ ở công xưởng không tránh khỏi làm tan rã gia đình, trong tình trạng xã hội hiện tại lấy gia đình làm cơ sở thì tình hình ấy vô luận đối với vợ chồng hay con cái cũng đều gây nên những hậu quả bại hoại đạo đức nghiêm trọng nhất. Một người mẹ không có thì giờ săn sóc con mình, không có thì giờ để cho đứa con trong mấy năm đầu được hưởng sự âu yếm thông thường nhất của người mẹ, một người mẹ rất ít khi nhìn thấy con mình, thì không thể là một người mẹ đối với nó; người mẹ ấy tất nhiên đối với con rất lạnh nhạt, thiếu tình thương, không chút săn sóc, hoàn toàn xem nó như con người khác. Những đứa trẻ lớn lên trong những điều kiện như thế sau này đối với gia đình sẽ không có chút gì quyến luyến, đôi khi ở trong gia đình mà chính bản thân chúng xây dựng, chúng cũng không cảm thấy hương vị gia đình, vì chúng đã quá quen với cuộc sống cô độc, điều đó tất nhiên sẽ làm cho gia đình công nhân càng bị phá hoại nghiêm trọng. Trẻ con đi làm cũng là một nguyên nhân làm tan rã gia đình. Hễ khi chúng kiếm được tiền nhiều hơn số tiền mà cha mẹ chi phí để nuôi chúng, thì chúng bắt đầu trả cho cha mẹ số tiền để chi phí cho việc ăn, ở của chúng, còn lại thì bản thân chúng tiêu hết. Sự tình ấy thường xảy ra khi chúng mười bốn, mười lăm tuổi (Pau-ơ: báo cáo về thành phố Lít-xơ, một vài chỗ trong bản báo cáo ấy; Tớp-nen: báo cáo về Man-se-xtơ, tr.17 và các tr. khác trong "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động công xưởng"). Nói tóm lại, trẻ con đều dần dần tự lập, coi nhà cha mẹ như quán trọ, nếu chúng không vừa ý cái quán ấy thì chúng thường bỏ đi tìm cái quán khác.

Trong nhiều trường hợp, việc người phụ nữ đi làm ở công xưởng không hoàn toàn phá hoại gia đình, nhưng làm cho nó đảo ngược. Người vợ kiếm tiền nuôi sống cả nhà, người chồng thì ở nhà trông con quét dọn, nấu nướng. Tình hình như thế rất nhiều, nhiều lắm; chỉ riêng ở Man-se-xtơ đã có thể đếm được mấy trăm người chồng chuyên việc nội trợ như thế. Người ta có thể dễ dàng hình dung được sự phẫn nộ chính đáng của người công nhân như thế nào trước tình trạng thực sự mất chức năng đàn ông đó của họ, tình trạng này đã làm cho toàn bộ quan hệ gia đình biến đổi căn bản như thế nào, trong khi tất cả những quan hệ xã hội khác còn nguyên vẹn. Ngay trước mắt tôi có bức thư của một công nhân. Anh tên là Rô-bớc Pau-dơ ở Brôn-xơ-bin-đinh-xơ Vút-hau-xmua - Xai-dơ, thành phố Lít-xơ (để giai cấp tư sản có thể đến đó tìm anh ta, tôi đưa ra địa chỉ tỉ mỉ), viết cho Ô-xtơ-lơ. Vị tất tôi diễn đạt được một nửa tính chất phác của bức thư ấy khi dịch; nếu gặp những lỗi chính tả còn có thể tìm cách diễn đạt được, nhưng những đặc điểm của thổ ngữ Y-oóc-sia thì hoàn toàn mất đi. Trong bức thư ấy, anh ta kể lại một công nhân khác mà anh quen đang đi tìm việc, đã gặp một người bạn cũ ở Xanh - Hê-len, thuộc Lan-kê-sia:

"Thưa ông, chính ở đó anh ta đã tìm được hắn và khi anh ta đến gần túp lều của hắn, ông thử nghĩ xem anh ta thấy gì? Một căn nhà hầm ẩm thấp, đồ đạc trong nhà thì chỉ có hai cái ghế cũ, một cái bàn tròn ba chân, một cái hòm, không có giường, chỉ có một đống rơm cũ ở góc tường, với hai cái khăn trải bẩn thỉu và hai khúc gỗ ở cạnh lò sưởi. Khi người bạn đáng thương của tôi bước vào thì anh chàng Giắc nghèo khổ đang ngồi trên khúc gỗ cạnh lò sưởi, ông thử nghĩ xem, hắn ta đang làm gì ? Hắn ta đang dùng kim khâu để vá bít tất cho vợ, vừa trông thấy bạn cũ ở cửa, hắn liền muốn giấu đi, nhưng Giô (tên người bạn tôi) đã trông thấy hết cả rồi và nói: "Giắc, cậu làm cái quỷ gì đấy? Vợ cậu đâu ? Sao cậu lại phải làm việc đó". Chàng Giắc đáng thương rất ngượng, nói: "Mình cũng biết rằng đó không phải là việc của mình, nhưng người vợ tội nghiệp của mình thì làm việc ở công xưởng, sáng sớm năm giờ rưỡi đã phải đến đó làm việc đến tận tám giờ tối, khi về đến nhà thì mệt nhọc đến nỗi không còn làm gì được nữa. Vì vậy mình có thể giúp vợ mình được việc gì là mình làm thôi. Mình không có việc làm, mà đã hơn ba năm rồi, và suốt đời mình sẽ không tìm được việc làm nữa". Đến đây hắn khóc nức nở và nói: "Đúng vậy, bạn Giô đáng mến ạ, ở đây phụ nữ, trẻ con có khối việc làm. Nhưng không có việc cho đàn ông. Tìm được việc làm còn khó hơn nhặt được trăm pao xtéc-linh ở ngoài phố. Nhưng mình không bao giờ ngờ rằng cậu hoặc người khác lại có thể nhìn thấy mình đang vá bít tất cho vợ, vì đó là việc chẳng đẹp đẽ gì. Nhưng vợ mình hầu như đứng cũng không vững nữa, mình sợ vợ mình ốm gục thì không biết chúng mình sẽ ra sao, vì từ lâu vợ mình đã trở thành người đàn ông trong nhà này, còn mình thì thành đàn bà. Giô ạ, công việc này không đẹp đẽ gì". Rồi hắn lại khóc rất thương tâm và nói tiếp: "Trước kia có bao giờ thế này đâu". Giô hỏi: "Nhưng, Giắc này, bấy lâu cậu không có việc làm thì cậu sống thế nào được".

Giắc trả lời: "Này Giô ạ, cũng gọi là sống qua quít nhưng cũng khá gian nan. Cậu biết đấy, khi mình lấy vợ thì có đủ việc làm, cậu cũng biết đấy, mình từ trước đến nay không phải là người lười biếng". - "Đúng, cậu đâu phải là một người lười biếng". - "Nhà mình lúc ấy còn bày biện rất khá và Ma-ri cũng không phải đi làm, tiền mình kiếm được đủ tiêu cho cả hai. Nhưng bây giờ thì tất cả đều đảo ngược hết: Ma-ri phải đi làm việc, mình thì ở nhà trông con, quét dọn, giặt giũ, nấu ăn và khâu vá quần áo. Tội nghiệp, vợ mình đến tối về đến nhà là mệt lả không còn có thể làm được việc gì nữa. Cậu biết đấy, Giô ạ, đối với một người không sống quen thế thì thật là khó chịu". Giô trả lời: "Đúng thế, thật không dễ dàng". Và Giắc lại khóc; hắn nói nếu hắn không lấy vợ hoặc không sinh ra trên đời này thì có phải tốt không; nhưng khi lấy Ma-ri thì hắn có bao giờ nghĩ là sẽ đến nước này đâu. Giắc nói: "Mình đã khóc không biết bao nhiêu lần về chuyện này". Thưa ông, sau đó Giô nói với tôi là khi nghe nói thế anh ta liền dùng tất cả những câu chửi mà anh ta học được trong công xưởng từ lúc nhỏ để chửi những công xưởng, chủ xưởng và chính phủ".

Có thể nào tưởng tượng được một sự tình vô nghĩa hơn, phi lý hơn sự tình được mô tả trong bức thư ấy? Nhưng tình hình làm cho đàn ông không còn là đàn ông, phụ nữ mất hết nữ tính, nhưng lại không thể làm cho một người đàn ông nào có nữ tính thực sự và một người phụ nữ nào có nam tính thực sự; tình hình làm ô nhục một cách bỉ ổi nhất cả hai giới và cái phẩm cách của con người trong mỗi giới tính, - tình hình ấy là hậu quả cuối cùng của nền văn minh đã được ca tụng của chúng ta, là kết quả cuối cùng của tất cả những cố gắng của mấy trăm thế hệ để cải thiện tình cảnh của mình và của con cháu mình ! Khi nhìn thấy những kết quả của tất cả mọi sự khó nhọc và cố gắng của con người đều biến thành một trò cười, thì chúng ta tất phải hoặc là thất vọng đối với bản thân nhân loại và vận mệnh của nhân loại, hoặc là phải thừa nhận rằng loài người từ trước đến nay đã lầm đường khi đi tìm hạnh phúc. Chúng ta phải thừa nhận rằng sở dĩ quan hệ giữa hai giới hoàn toàn lệch lạc như vậy chỉ có thể là vì những quan hệ ấy ngay từ đầu đã được xây dựng trên cơ sở sai lầm. Nếu bảo rằng cái hiện tượng phụ nữ thống trị nam giới do chế độ công xưởng tất nhiên tạo nên hiện tượng vô nhân đạo, thì cũng nên nhận rằng hiện tượng nam giới thống trị phụ nữ dưới đây cũng là vô nhân đạo. Nếu phụ nữ ngày nay cũng như nam giới trước kia xây dựng sự thống trị của mình trên cơ sở là họ kiếm được phần lớn hoặc toàn bộ tài sản chung của gia đình, thì sự công hữu tài sản ấy không phải là chân chính, không phải là hợp lý, vì một thành viên của gia đình còn có thể lên mặt kiêu căng do đã đóng góp một phần lớn hơn. Sự việc gia đình trong xã hội ngày nay đang ngày càng suy sụp chẳng qua chỉ chứng minh rằng sợi dây gắn bó gia đình không phải là tình yêu gia đình, mà là lợi ích riêng ẩn nấp dưới tấm áo khoác công hữu tài sản 1). Khi con cái không phải chỉ có trả tiền ăn cho cha mẹ như trên kia đã nói mà còn phải bảo đảm nuôi cha mẹ thất nghiệp của chúng, thì cũng phát sinh ra những quan hệ qua lại giống như vậy. Trong báo cáo về lao động công xưởng, bác sĩ Hô-kin-xơ đã chứng thực rằng loại quan hệ ấy rất thường gặp, mà ở Man-se-xtơ thì hiện tượng ấy ai nấy đều biết cả. Cũng như trong những trường hợp khác người đàn bà là chủ trong nhà, trong trường hợp này thì con gái chính là chủ. Huân tước Ê-sli trong diễn văn của mình (tại Hạ nghị viện ngày 15 tháng Ba 1844) đã đưa ra một ví dụ như thế; một người mắng hai cô con gái của mình vì hai cô đã vào tiệm rượu, thì hai cô tuyên bố rằng các cô đã chán ngấy vì phải chịu phục tùng chỉ huy nhiều lắm rồi: xin ông, ông hãy cút đi cho rảnh, chúng tôi còn phải nuôi ông nữa kia, cũng phải hưởng chút gì về kết quả lao động của mình chứ; hai cô bèn bỏ nhà ra đi, để mặc bố mẹ cho số phận.

Phụ nữ chưa chồng lớn lên trong công xưởng cũng không hơn gì phụ nữ có chồng. Một người con gái làm việc ở công xưởng ngay từ năm chín tuổi thì tất nhiên là không thạo công việc gia đình, cho nên tất cả những nữ công nhân công xưởng đều hoàn toàn không có kinh nghiệm về mặt ấy và đều không biết quản lý việc nội trợ. Họ không biết may vá, không biết đan, không biết làm bếp, cũng không biết giặt giũ, ngay đến những việc gia đình thông thường nhất họ cũng không biết, còn việc săn sóc trẻ con thì họ càng chẳng biết gì. Bản "Báo cáo của Tiểu ban điều tra về lao động công xưởng" đã nêu ra mấy chục ví dụ để chứng minh sự tình ấy, còn tác giả bản báo cáo về Lan-kê-sia là bác sĩ Hô-kin-xơ thì phát biểu ý kiến như sau ("Báo cáo", tr. 4):

"Các thiếu nữ đã kết hôn rất sớm mà không suy tính gì. Họ không có khả năng, không có thì giờ, cũng không có dịp để tìm hiểu trách nhiệm thông thường nhất của người phụ nữ là chủ gia đình, và dù cho họ có biết cả chăng nữa thì sau khi lấy chồng, họ cũng không có thì giờ để cáng đáng những trách nhiệm ấy. Người mẹ mỗi ngày mười hai tiếng đồng hồ không được nhìn thấy con mình: người trông nom đứa trẻ là một cô bé hoặc một bà già mà người mẹ đã bỏ tiền riêng ra thuê; ngoài ra, nhà ở của công nhân công xưởng, thường thường không phải là cái được gọi là nhà (home), mà là một gian hầm, không có dụng cụ nhà bếp, không có đồ dùng cần thiết để giặt giũ, may vá, thiếu tất cả mọi thứ có thể làm cho đời sống vui thú và văn minh, làm cho gia đình hấp dẫn. Vì những nguyên nhân ấy và những nguyên nhân khác, đặc biệt để bảo toàn sinh mệnh và sức khoẻ cho trẻ con, tôi chỉ có thể hết sức mong muốn và hy vọng rằng sẽ đến lúc phụ nữ có chồng bị cấm không được làm việc ở công xưởng".

Về những ví dụ và lời làm chứng riêng biệt hãy xem "Báo cáo của Tiểu ban điều tra về lao động công xưởng", Cau-en, Văn kiện, những tr. 37, 38, 39, 72, 77, 50; Tớp-nen, Văn kiện, những tr. 9, 15, 45, 54, và các tr. khác.

Nhưng tất cả cái đó chưa phải là tai hoạ lớn nhất. Về mặt đạo đức thì việc phụ nữ đi làm việc ở công xưởng đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều. Sự tụ tập nhiều người trong một xưởng, không phân biệt trai gái già trẻ và không tránh khỏi gần gũi nhau, sự chồng chất nhiều người chưa hề được giáo dục về trí dục và đạo đức trong một chỗ chật hẹp, - tất cả những cái ấy chắc không thể có ảnh hưởng gì tốt đối với sự phát triển của tính cách phụ nữ. Người chủ xưởng dù cho có chú ý đến điểm ấy, cũng chỉ can thiệp khi thực tế xảy ra chuyện gì tai tiếng; còn ảnh hưởng thường xuyên, không rõ rệt lắm của những người phóng đãng hơn đối với những người có đạo đức hơn, nhất là đối với những người trẻ thì chủ xưởng không có cách gì biết được, do đó cũng không có cách gì đề phòng. Thế mà chính những ảnh hưởng ấy lại tai hại nhất. Nhiều người được gọi đến trước Tiểu ban về công xưởng năm 1833 đều nói rằng trong công xưởng người ta nói với nhau những chuyện "tục tĩu", "thiếu lịch sự", "bỉ ổi", v.v. (Cau-en, Văn kiện, tr.35, 37 và nhiều tr. khác). Những sự việc mà chúng ta thấy trên một quy mô lớn trong những thành phố lớn, phát sinh ở đây trên quy mô nhỏ. Sự tập trung nhân khẩu cũng có những hậu quả như nhau đối với người ta, vô luận là ở trong một thành phố lớn hay trong một công xưởng nhỏ. Công xưởng càng nhỏ thì dịp gần gũi nhau càng nhiều, sự giao thiệp với nhau càng khó tránh. Bởi vậy, hậu quả không phải chờ lâu. Một người làm chứng ở Lê-xtơ nói rằng ông ta thà để con gái đi ăn mày chứ không cho nó vào công xưởng, rằng công xưởng thực sự là cửa địa ngục, rằng đại đa số gái điếm trong thành phố đều là do công xưởng tạo nên (Pau-ơ, Văn kiện, tr. 8). Một người làm chứng khác ở Man-se-xtơ "đã không chút do dự khẳng định rằng ba phần tư nữ công nhân từ 14 đến 20 tuổi đã mất trinh" (Cau-en, Văn kiện, tr. 57). Ủy viên tiểu ban Cau-en nhận định chung rằng đạo đức của công nhân công xưởng còn thấp hơn so với mức đạo đức trung bình của giai cấp công nhân (tr.82), và bác sĩ Hô-kin-xơ thì nói ("Báo cáo", tr. 4):

"Đạo đức không dễ gì dùng con số để biểu thị được, nhưng nếu tin vào sự quan sát của chính bản thân tôi, vào ý kiến của những người đã nói chuyện với tôi về vấn đề  này, cũng như vào ấn tượng chung gây nên bởi tất cả những lời chứng mà tôi đã thu lượm được thì ảnh hưởng về mặt đạo đức của đời sống công xưởng đối với lớp nữ thanh niên làm cho người ta hết sức chán nản".

Ai nấy đều hiểu rằng chế độ nô lệ công xưởng nếu không hơn thì cũng bằng bất cứ chế độ nô lệ nào khác, đã đem lại cho người chủ cái jus primae noctis1*. Về mặt ấy chủ xưởng cũng là ông chủ về thân thể và sắc đẹp của nữ công nhân. Sự doạ đuổi dù không phải trong một trăm trường hợp có chín mươi chín trường hợp, thì trong mười trường hợp cũng có chín trường hợp là đủ sức để đập tan bất cứ sự phản kháng nào của các cô gái, huống hồ bản thân các cô vốn không phải quý trọng gì lắm cái trinh tiết của mình. Nếu chủ xưởng khá hèn hạ (bản báo cáo của tiểu ban đã thuật lại nhiều trường hợp như vậy) thì công xưởng đồng thời cũng là khuê phòng của nó; mà dù cho không phải tất cả mọi chủ xưởng đều lợi dụng quyền ấy thì điều ấy cũng không thay đổi gì về bản chất tình hình của nữ công nhân. Trong bước đầu của công nhân công xưởng, khi đại đa số chủ xưởng đều là những kẻ mới phất, vô giáo dục, không đếm xỉa gì đến tập tục giả nhân nghĩa của xã hội thì họ cứ thản nhiên lợi dụng cái quyền "đương nhiên" của họ.

Muốn đánh giá đúng những hậu quả của lao động công xưởng đối với tình trạng thể lực của phụ nữ, thì trước hết phải xem xét lao động của trẻ con cũng như các hình thức khác nhau của bản thân lao động. Ngay từ khi mới bắt đầu có công nghiệp hiện đại, công xưởng đã thuê trẻ con làm việc: lúc đầu, do máy móc cỡ nhỏ - về sau đã tăng lên - cho nên những người làm việc ở máy hầu như toàn là trẻ con, chúng được tuyển chủ yếu từ các nhà nuôi trẻ mồ côi ra và được các chủ xưởng thuê dài hạn từng tốp một làm "thợ học việc". Chúng ăn ở và mặc đều như nhau, dĩ nhiên là hoàn toàn thành những nô lệ của người chủ, chịu sự ngược đãi tàn khốc nhất, dã man nhất. Ngay từ năm 1789, bác sĩ Péc-xi-van và ông Rô-bớt Pin (chủ xưởng dệt vải bông, cha của thủ tướng hiện thời) đã nói lên lòng phẫn nộ của dư luận xã hội đối với cái chế độ đáng công phẫn ấy một cách kịch liệt đến nỗi nghị viện đã phải thông qua một đạo luật về thợ học việc vào năm 1802, chấm dứt được những sự ngược đãi ghê gớm nhất107. Dần dần sự cạnh tranh của những người công nhân tự do đã loại bỏ chế độ học việc. Dần dần các công xưởng được xây dựng lên ngày một nhiều ở các thành phố, máy móc đã to lên, chỗ làm việc đã tương đối thoáng khí và sạch sẽ hơn. Đồng thời công việc của người lớn và thanh niên cũng dần dần nhiều lên, do đó con số trẻ con làm việc trong công xưởng đã ít hơn một chút và mức tuổi chúng bắt đầu đi làm việc cũng được nâng cao một chút. Ngày nay người ta đã rất ít thuê trẻ con từ 8 - 9 tuổi trở xuống. Sau đây ta sẽ thấy, cơ quan lập pháp về sau cũng đã nhiều lần đứng ra bảo vệ trẻ con chống lại lòng tham lam của giai cấp tư sản.

Tỷ lệ chết cao trong con cái công nhân, đặc biệt là con cái công nhân công xưởng, đủ để chứng minh những điều kiện sinh sống lúc tuổi thơ của chúng đã có hại đến sức khoẻ như thế nào. Những nguyên nhân ấy cũng có ảnh hưởng cả đến những đứa trẻ còn sống sót, mặc dù dĩ nhiên là ở mức không mạnh  mẽ như đối với những đứa trẻ đã chết. Trong những trường hợp khá nhất, những nguyên nhân ấy cũng khiến thể chất dễ nhiễm bệnh hoặc làm trở ngại sự phát triển, do đó thể lực phải kém so với những đứa trẻ bình thường. Một đứa trẻ lên chín tuổi, con công nhân công xưởng, lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn mọi thứ, trong hoàn cảnh ẩm thấp và rét mướt, luôn luôn mặc không đủ ấm và ở nhà rất tồi tệ, thì đứa trẻ ấy nhất định không có năng lực làm việc như đứa trẻ lớn trong hoàn cảnh có lợi cho khoẻ mạnh hơn. Lên chín tuổi nó phải vào công xưởng, mỗi ngày làm việc 6 giờ rưỡi (trước kia làm việc 8 giờ, trước nữa là từ 12 đến 14 giờ, thậm chí đến 16 giờ), cho đến mười ba tuổi, và từ đấy cho đến mười tám tuổi mỗi ngày phải làm việc 12 giờ. Những nguyên nhân làm cho cơ thể suy yếu vẫn chưa hết, mà công việc thì lại mỗi ngày một nặng thêm. Ngay giả định rằng một đứa trẻ lên chín tuổi, thậm chí dù đó là con công nhân, có thể kiên trì làm việc mỗi ngày 6 giờ rưỡi mà công việc không gây tổn hại có thể trông thấy và cảm thấy được đối với cơ thể của nó, nhưng ở trong bầu không khí ngột ngạt, ẩm thấp, thêm vào đó lại thường xuyên nóng bức của công xưởng thì vô luận thế nào cũng không thể không ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể dung thứ được việc đem thì giờ, đáng lẽ chỉ dùng để bồi dưỡng thể lực và tinh thần cho trẻ con, mà hy sinh cho lòng tham của giai cấp tư sản nhẫn tâm: cướp mất trường học và bầu không khí trong lành của trẻ con, để cho các ngài chủ xưởng bòn rút chúng lấy lợi nhuận. Cố nhiên giai cấp tư sản sẽ nói rằng: nếu chúng tôi không thuê trẻ con vào làm việc trong các công xưởng thì chúng cũng vẫn phải ở trong những điều kiện bất lợi cho sự phát triển của chúng. Nói chung thì đúng thế, nhưng nghĩ kỹ một chút, thì điều ấy nghĩa là gì ? Như thế nghĩa là giai cấp tư sản trước hết đặt con cái công nhân vào những điều kiện tồi tệ, rồi sau đó lại lợi dụng những điều kiện tồi tệ ấy để mưu lợi ích cho mình! Để tự bào chữa cho mình, họ viện ra mọi điều, mà cũng giống như toàn bộ chế độ công xưởng, chính tay họ đã tạo nên với cũng mức độ như thế; họ dùng cái tội họ phạm ngày hôm qua để bào chữa cho cái tội họ phạm ngày hôm nay. Nếu như không bị đạo luật về công xưởng trói buộc ở một trình độ nhất định nào đó thì, chao ôi, những nhà tư bản "hảo tâm", "nhân từ" dựng lên công xưởng chỉ vì phúc lợi của công nhân ấy, sẽ bảo vệ lợi ích của công nhân như thế nào ! Chúng ta hãy xem hành vi của họ trong các công xưởng như thế nào, trước khi viên thanh tra công xưởng chưa làm rầy rà các chủ xưởng. Hãy để cho những bằng chứng mà bản thân họ thừa nhận - Báo cáo của Tiểu ban về công xưởng năm 1833 - vạch mặt họ.

Bản báo cáo của uỷ ban trung ương nói rằng trẻ con bắt đầu làm việc ở công xưởng thỉnh thoảng từ năm tuổi, nhiều khi từ sáu tuổi, rất thường gặp từ bảy tuổi, đại bộ phận từ tám - chín tuổi; thời gian lao động thường từ 14 đến 16 giờ một ngày (không kể giờ nghỉ ăn uống); chủ xưởng cho phép bọn quản lý đánh đập trẻ con, bản thân chúng cũng thường ra tay đánh đập. Bản báo cáo còn thuật lại một trưòng hợp như sau: một chủ xưởng người Xcốt-len cưỡi ngựa đuổi bắt một công nhân mười sáu tuổi bỏ trốn, nó bắt em quay trở về và chạy trước ngựa, rồi dùng roi da dài vụt em lia lịa! (Xtu-ác, Văn kiện, tr. 35). Trong những thành phố lớn, nơi mà sự phản kháng của công nhân tương đối mạnh, thì những trường hợp như thế đương nhiên ít xảy ra hơn một chút.  Nhưng ngay cái ngày lao động dài như vậy cũng vẫn không thoả mãn lòng tham của bọn tư bản. Mục đích của chúng là dùng mọi biện pháp để làm cho tư bản bỏ vào trong nhà cửa và máy móc đẻ ra được nhiều lợi nhuận, bắt tư bản ấy hoạt động khẩn trương hết sức. Vì mục đích ấy, chủ xưởng thực hành chế độ lao động ban đêm tàn khốc. Một số chủ xưởng thực hành chế độ hai ca, số người của mỗi ca khá nhiều, đủ để đảm bảo công việc của cả công xưởng, một ca làm việc mười hai giờ ban ngày, ca kia làm việc mười hai giờ ban đêm. Sự nghỉ ngơi ban đêm mà bất cứ giấc ngủ ban ngày nào cũng không thể thay thế được luôn luôn bị tước đoạt như vậy thì sẽ có những hậu quả như thế nào không những đối với trẻ con và thiếu niên, thậm chí đến cả với người lớn nữa, điều ấy rất dễ thấy. Kết quả tất nhiên của thứ lao động ấy là toàn bộ hệ thần kinh bị kích thích quá sức, gây nên suy nhược toàn bộ cơ thể. Một hậu quả khác là say rượu và tình dục phóng đãng. Một chủ xưởng (Tớp-nen, Văn kiện, tr. 91) chứng thực rằng trong hai năm thực hành chế độ làm đêm trong công xưởng của hắn, số con đẻ ngoài pháp luật tăng gấp đôi, và trình độ đạo đức đã hạ thấp đến nỗi hắn đành phải đình chỉ việc làm đêm. - Nhiều chủ xưởng khác lại dã man hơn; họ bắt công nhân làm việc 30-40 giờ liền và mỗi tuần đến mấy lần như vậy, đó là vì họ không có công nhân để thay ca đầy đủ; việc thay ca chỉ nhằm thay thế một phần công nhân và cho họ được ngủ một, hai giờ thôi. Bản báo cáo của uỷ ban về hành vi dã man ấy và về những hậu quả của nó đã vượt quá tất cả những điều tôi đã được nghe về phương diện ấy. Những điều ghê gớm được thuật ở đây không có ở địa phương nào khác, nhưng chúng ta sẽ thấy trong khi đó giai cấp tư sản vẫn luôn luôn đưa những bằng chứng của uỷ ban ra mà giải thích một cách có lợi cho họ. Những hậu quả của chế độ ấy biểu hiện rất nhanh: các báo cáo viên kể rằng họ gặp nhiều người có tật, mà chắc chắn chỉ do thời gian lao động quá dài. Tật thông thường nhất là cột sống và hai chân bị vẹo. Phren-xít Sác-pơ (hội viên của Hội phẫu thuật hoàng gia) ở thành phố Lít-xơ mô tả việc này như sau:

"Trước khi tôi đến Lít-xơ, tôi chưa bao giờ thấy đoạn dưới xương đùi bị vẹo một cách kỳ quái như vậy. Thoạt tiên tôi nghĩ đó là bệnh còi xương, nhưng đa số các trường hợp được đăng ký ở bệnh viện, bệnh này xuất hiện vào lứa tuổi (8 - 14 tuổi) là lứa tuổi mà trẻ con thường không còn bị bệnh còi xương nữa, hơn nữa chỉ sau khi trẻ con đã vào công xưởng làm rồi thì mới bắt đầu mắc bệnh ấy, tất cả những cái ấy buộc tôi phải thay đổi ý kiến. Cho đến bây giờ, tôi đã thấy gần một trăm trường hợp như thế, và tôi có thể nói hết sức khẳng định rằng đó đều là do lao động quá độ gây nên: theo chỗ tôi biết thì tất cả bệnh nhân đều là trẻ con làm việc ở công xưởng, mà bản thân chúng cũng cho rằng nguyên nhân làm chúng mắc bệnh là do nguyên nhân nói trên". - "Những trường hợp cột sống bị vẹo, hiển nhiên là do phải đứng quá lâu, mà tôi đã gặp cũng không dưới ba trăm" (bác sĩ Lao-đơn, Văn kiện, tr. 12, 13).

Bác sĩ Hây ở Lít-xơ, người thầy thuốc làm việc 18 năm ở bệnh viện, cũng chứng minh như vậy:

"Cột sống bị vẹo là thứ tật rất thường gặp ở công nhân công xưởng; trong một số trường hợp, đó chỉ là hậu quả của lao động quá sức; trong một số trường hợp khác thì lại là hậu quả của lao động quá kéo dài đối với một cơ thể bẩm sinh yếu ớt, hay vì bồi dưỡng kém mà suy nhược... Ở đây, những dị tật các loại có lẽ thường thấy hơn tật vẹo cột sống: đầu gối cong lõm vào trong, dây gân chằng các khớp thường bị yếu và nhão ra, xương dài của chân bị vặn cong; đặc biệt là đầu của những xương ấy bị cong vẹo và to ra, những bệnh nhân ấy đều đến từ những công xưởng có ngày lao động quá dài" (bác sĩ Lao-đơn, Văn kiện, tr. 16).

Các bác sĩ phẫu thuật Bu-mơn và Sác-pơ khi nói đến Brát-phoóc cũng đều xác nhận điểm ấy. Trong bản báo cáo của các uỷ viên Đrin-cơ-oa-tơ, Pau-ơ và bác sĩ Lao-đơn cũng có nhiều ví dụ về loại tật ấy; Tớp-nen và ông bác sĩ Đa-vít Ba-ri, những người không chú ý lắm đến loại hiện tượng ấy, cũng đưa ra những ví dụ cá biệt trong bản báo cáo của họ (trong báo cáo của Đrin-cơ-oa-lơ, Văn kiện, ví dụ về hai anh em ở tr. 69, ví dụ về hai anh em ở các tr. 72, 80, 146, 148, 150, tr. 155 và nhiều tr. khác; trong báo cáo của Pau-ơ, Văn kiện, hai ví dụ ở các tr. 63, 66, 67, ba ví dụ ở tr. 68, hai ví dụ ở tr. 69; trong báo cáo về Lít-xơ tr. 29, 31, 40, 43, 53 và các tr. sau; trong báo cáo của bác sĩ Lao-đơn, Văn kiện, bốn ví dụ ở tr. 4, 7, mấy ví dụ  ở tr. 8, v.v.; trong báo cáo của bác sĩ Ba-ri, Văn kiện, tr. 6, 8, 13, 21, 244, ba ví dụ ở tr. 55, v.v.; Tớp-nen, tr. 5, 16 và các tr. khác). Những uỷ viên điều tra về Lan-kê-sia - Cau-en, Tớp-nen và bác sĩ Hô-kin-xơ - đã hoàn toàn coi nhẹ những hậu quả về mặt y học của chế độ công xưởng, mặc dù về con số người tàn tật thì Lan-kê-sia nhất định có thể sánh được với Y-oóc-sia. Mỗi lần đi qua Man-se-xtơ tôi đều gặp ba, bốn người tàn tật, cột sống và chân cong vẹo giống hệt như trên kia đã mô tả. Tôi không chỉ chú ý đến họ có một lần, mà cũng có khả năng quan sát họ kỹ càng. Tôi còn quen một người tàn tật, tình hình của anh ta hoàn toàn phù hợp với tài liệu mà bác sĩ Hây đã miêu tả; anh ta đã mắc bệnh ở công xưởng của ông Đu-glát ở thành phố Pen-đơn-tơn, công xưởng ấy đã từng có tiếng xấu trong công nhân vì lao động quá độ và trước đây không lâu nó còn tiếp tục làm việc suốt đêm. Nhìn những người tàn tật ấy là có thể đoán ngay được nguyên nhân khiến họ mang tật; tất cả đều có hình dạng giống nhau: đầu gối đều lõm vào và vặn về phía sau một ít, hai chân vòng kiềng, các khớp xương dị dạng và to ra, cột sống thường cong về trước hoặc vẹo sang một bên. Nhưng xem ra những kẻ gây tai hoạ tàn khốc nhất chính là những tên chủ xưởng dệt lụa nhân từ của khu Mác-cơn-xphin, sở dĩ như vậy là vì trong những xưởng ấy có những trẻ em rất nhỏ làm việc - em nhỏ nhất chỉ mới năm, sáu tuổi. Trong tài liệu bổ sung của uỷ viên Tớp-nen, ta thấy lời thuật của một đốc công nào đó tên là Rai-tơ (tr.26); hai chị em gái của hắn đều vì làm việc mà thành tàn tật đến mức hết sức đáng sợ; một lần hắn ta đã đếm số người tàn tật trên nhiều phố của khu Mác-cơn-xphin, kể cả mấy phố xây dựng tốt nhất và đẹp nhất ở thành phố ấy: hắn đã thấy 10 người ở phố Thu-lây, 5 người ở phố Gioóc-giơ, 4 người ở phố Sác-lốt, 15 người ở Oa-tơ-cốt, 3 người ở Ban-cơ Tốp, 7 người ở phố Lơ-rơ, 12 người ở Min Lên, 2 người ở phố Grai-tơ Gioóc-giơ, 2 người ở trong nhà tế bần, 1 người ở Pác-cơ Grin, 2 người ở phố Pích-phoóc. Người nhà của những người tàn tật đều đồng thanh nói rằng tật ấy là hậu quả của lao động quá mức trong các công xưởng sợi tơ gây nên. Ở tr. 27, nói đến trường hợp một em trai thân thể tàn tật đến nỗi không lên nổi thang gác; ở đó còn nói đến mấy em gái, cột sống và đùi bị cong vẹo.

Lao động quá mức còn gây nên những loại tật khác, đặc biệt là tật bàn chân bẹt mà ngài Đ.Ba-ri (ví dụ ở tr. 21, ông đã nêu ra hai trường hợp) và những thầy thuốc nội ngoại khoa ở Lít-xơ cho là rất thường thấy (Lao-đơn, tr. 13, 16, v.v.). Ngay cả trong những trường hợp cơ thể vững chắc hơn, được bồi dưỡng tốt hơn, và nhờ những điều kiện khác mà những người công nhân trẻ chịu đựng nổi những hậu quả của sự bóc lột dã man ấy, thì họ cũng không thoát khỏi những chứng đau lưng, đau vùng hông, đau chân, sưng khớp, giãn tĩnh mạch, hay lở loét lớn không chữa khỏi ở đùi và bắp chân. Nhưng bệnh tật ấy hầu như là những hiện tượng phổ biến trong công nhân. Stu-ác, Ma-kin-tô-sơ và ngài Đ. Ba-ri đã nêu ra mấy trăm ví dụ trong các báo cáo của họ, thậm chí hầu như họ chưa gặp qua một người công nhân nào mà không mắc phải một trong những bệnh tật ấy; trong những bản báo cáo khác, nhiều thầy thuốc cũng đã xác nhận bằng rất nhiều dẫn chứng rằng có xảy ra những hậu quả ấy. Vô số ví dụ trong các bản báo cáo về Xcốt-len đã nói lên một cách không còn nghi ngờ gì nữa rằng làm việc 13 giờ mỗi ngày, ít nhất cũng gây nên những hậu quả như thế, ngay cả với những công nhân từ 18 đến 22 tuổi, vô luận là nam hay nữ, và ở những công xưởng dệt bông tại Gla-xgô và La-nác-cơ đều như thế cả.

Tất cả những bệnh tật ấy đều sinh ra do chính bản chất của lao động công xưởng, loại lao động mà theo lời các chủ xưởng, thực là rất "nhẹ nhàng", nhưng chính vì cái nhẹ nhàng ấy mà cơ thể suy nhược hơn bất cứ loại lao động nào khác. Công nhân không phải làm nhiều việc, nhưng lúc nào họ cũng phải đứng, không có quyền ngồi xuống. Người nào ngồi trên bệ cửa sổ hoặc trên cái sọt một tí thì sẽ bị phạt; đứng lâu như vậy thì phần trên của thân thể sẽ luôn luôn đè xuống cột sống, xuống xương chậu và chân, do đó không thể không sinh ra những hậu quả nói trên. Đứng luôn như vậy hoàn toàn không phải là cần thiết cho bản thân công việc, chẳng hạn như ở Nốt-tinh-hêm ít ra người ta cũng bố trí ghế ngồi ở các gian đấu sợi (kết quả là những bệnh tật nói trên đều biến mất hết, do đó nữ công nhân cũng đã bằng lòng kéo dài ngày lao động). Nhưng trong một công xưởng mà người công nhân chỉ có làm việc cho người tư bản, họ ít quan tâm làm thế nào cho công việc được tốt hơn thì chắc chắn họ sẽ lợi dụng cơ hội được ngồi vượt quá mức độ bằng lòng và có lợi cho chủ xưởng, và, để cho giai cấp tư sản đỡ thiệt hại một tí vì nguyên liệu bị hư hỏng, thì đành phải để người công nhân hy sinh sức khoẻ của họ1). Ngoài ra, đứng lâu như thế, cộng với không khí trong công xưởng phần nhiều rất xấu, càng làm cho toàn bộ cơ thể suy nhược trầm trọng, do đó gây nên nhiều loại bệnh tật khác có tính chất toàn thân hơn là cục bộ. Không khí trong công xưởng thường thường vừa ẩm, vừa nóng, thường là nóng quá mức cần thiết, khi tình hình thông gió không tốt lắm thì không khí rất tồi tệ, ngột ngạt, không có đủ dưỡng khí, đầy bụi bặm và mùi hôi do dầu máy bốc ra, mà dầu máy hầu như bao giờ cũng tràn ra nhầy nhụa và thấm dần khắp sàn nhà. Vì nóng bức nên công nhân mặc rất mỏng, vì vậy khi nhiệt độ trong phòng không điều hoà thì thế nào họ cũng bị cảm; ở nơi nóng bức đó, họ rất sợ không khí trong lành; nhiệt lượng của cơ thể giảm sút cùng với sự suy nhược dần dần của các cơ năng, phải nhờ sức nóng bên ngoài để tự duy trì; cho nên bản thân người công nhân tự cảm thấy dễ chịu nhất là được ở trong bầu không khí công xưởng oi bức, cửa sổ đóng kín mít. Ngoài ra, sự thay đổi nhiệt độ đột ngột khi người công nhân từ  bầu không khí nóng bức của công xưởng chuyển sang không khí lạnh buốt hoặc ẩm ướt ở ngoài phố, hay người công nhân gặp mưa mà không có đủ đồ che mưa hoặc không thay được quần áo khô, - tất cả những cái ấy cộng lại với nhau thường dẫn đến cảm mạo. Nếu chúng ta chú ý rằng trong tình hình ấy, có lẽ ngoài bắp chân ra thì trong toàn thân không có một bắt thịt nào phải thực sự căng thẳng và thực sự hoạt động; nếu chú ý rằng công nhân không có cách nào chống lại tác dụng làm cơ thể uỷ mị bạc nhược của những nguyên nhân kể trên, vì họ không có cơ hội để luyện tập thân thể, phát triển bắp thịt, làm tăng sức mạnh và sức bật của các cơ thêm nữa, từ nhỏ đã bị tước đoạt mất cơ hội hoạt động ở ngoài trời, thì không một ai lấy làm lạ khi những thày thuốc hầu như nhất trí khẳng định trong bản báo cáo về công xưởng rằng họ nhận thấy sức đề kháng của cơ thể của công nhân công xưởng đối với các bệnh tật, thì đặc biệt kém, nói chung sức sống của họ giảm sút, toàn bộ trí lực và thể lực của họ suy yếu không ngừng. Trước tiên chúng ta hãy nghe Ba-ri nói:

"Lao động công xưởng đối với công nhân có những ảnh hưởng bất lợi như sau:

1) nhất thiết phải làm cho hoạt động thể lực và tinh thần của mình thích nghi vô điều kiện với vận động của máy được phát động bởi một lực đều đều và không ngừng; 2) phải đứng suốt trong những khoảng thời gian dài quá mức độ và nối tiếp nhau quá nhanh; 3) bị mất ngủ (do thời gian lao động kéo dài, do chân đau và toàn thân khó chịu). Còn phải thêm vào đó ảnh hưởng của chỗ làm việc thấp, chật hẹp, bụi bặm hoặc ẩm ướt, không khí bẩn thỉu, oi bức, mồ hôi ra không ngớt. Vì vậy nhất là những trẻ em nam, trừ một số ít, đều mất đi rất nhanh vẻ mặt hồng hào tươi tắn của tuổi thơ, mà trở thành xanh xao và gầy gò hơn những đứa con trai khác. Ngay đến chú thợ học việc của một người thợ dệt thủ công, chân không, đứng trên nền đất của gian xưởng trông cũng còn xinh hơn chúng, vì nó thỉnh thoảng còn được ra ngoài đi lại ở chỗ thoáng khí. Nhưng đứa trẻ làm việc ở công xưởng thì không có một phút nào rỗi rãi; trừ lúc ăn uống, và chỉ có lúc ăn trưa thì mới được ra ngoài thoáng khí. Tất cả nam công nhân kéo sợi thành niên đều xanh xao, gầy gò, mắc chứng tiêu hoá xấu và khẩu vị thất thường; tất cả họ làm việc ở công xưởng từ nhỏ, và trong bọn họ rất ít hoặc hoàn toàn không có người nào vạm vỡ, cho nên hoàn toàn có thể kết luận rằng nghề nghiệp của họ rất có hại cho sự phát triển của cơ thể nam giới. Phụ nữ chịu đựng loại lao động ấy dễ dàng hơn" (điều đó hoàn toàn tự nhiên, nhưng dưới đây chúng ta sẽ thấy, họ cũng có những bệnh nghề nghiệp của họ). (Ngài Đ. Ba-ri, Báo cáo chung).

Pau-ơ cũng viết giống như thế:

"Tôi có thể nói dứt khoát rằng chế độ công xưởng ở Brát-phoóc đã tạo nên nhiều người tàn tật... và ảnh hưởng của lao động kéo dài quá lâu đối với cơ thể, không phải chỉ biểu hiện ở những tàn tật rõ rệt, nó còn biểu hiện một cách phổ biến hơn ở chỗ chậm lớn, bắp thịt mềm nhẽo, thể cách suy nhược" (Pau-ơ, Báo cáo, tr. 74).

Ph. Sác-pơ, nhà phẫu thuật 1) ở Lít-xơ, đã dẫn ở trên, viết:

"Khi tôi từ Xcác-bô-rô tới Lít-xơ, tôi thấy ngay là trẻ con ở đây nói chung, xanh xao hơn nhiều, và gân thịt ít phát triển hơn nhiều so với trẻ con ở Xcác-bô-rô và những khu lân cận. Tôi còn thấy nhiều đứa quá thấp bé so với lứa tuổi của chúng... Tôi đã chẩn đoán vô số trường hợp bệnh tràng nhạc, bệnh phổi, bệnh dạ dày và ruột; là một thày thuốc, tôi không chút hoài nghi rằng những bệnh ấy là do làm việc ở công xưởng gây nên. Tôi cho rằng lao động kéo quá dài làm suy yếu năng lực thần kinh của cơ thể và tạo nên miếng đất tốt cho nhiều bệnh tật. Nếu không có lực lượng mới từ nông thôn không ngừng đổ về thì chẳng bao lâu nữa giống công nhân công xưởng này đã hoàn toàn thoái hoá".

Bu-mơn, nhà phẫu thuật ở Brát-phoóc, cũng nói lên ý kiến như vậy:

"Theo tôi thì chế độ lao động, thực hành ở các công xưởng ở đây làm cho cơ thể suy nhược đặc biệt, khiến trẻ con hết sức dễ mắc bệnh truyền nhiễm và những bệnh tật khác... Tôi kiên quyết cho rằng thiếu những quy định cần thiết về không khí và sạch sẽ ở các công xưởng, là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến những bệnh tật mà tôi thường gặp trong khi làm nghề thày thuốc dễ phát sinh hoặc dễ mắc phải".

Bác sĩ Cây cũng đưa ra những dẫn chứng như thế:

"1) Tôi đã có dịp quan sát những ảnh hưởng của chế độ công xưởng đối với sức khoẻ của trẻ con trong những trường hợp tốt nhất" (tại công xưởng Vu-đơ ở Brát-phoóc; là công xưởng thiết bị tốt nhất của thành phố này, ở đây bác sĩ Cây làm thày thuốc của công xưởng); "2) dù ở trong những điều kiện tốt như vậy, nhưng ảnh hưởng ấy vẫn không thể hoài nghi được, và nó đã mang lại tác hại lớn; 3) suốt năm 1842, tôi đã chữa bệnh cho ba phần năm trẻ con làm việc trong công xưởng Vu-đơ; 4) hậu quả tai hại nhất của chế độ ấy biểu hiện ở chỗ nhiều người suy nhược, hay ốm đau hơn là ở chỗ nhiều người tàn tật; 5) tất cả những cái ấy đã được cải thiện nhiều từ khi ngày lao động của trẻ con ở công xưởng Vu-đơ rút xuống mười giờ".

Bản thân uỷ viên tiểu ban, bác sĩ Lao-đơn, người đã dẫn ra những lời chứng ấy cũng nói như sau:

"Tôi đã chứng minh khá rõ rệt rằng trẻ con bị bắt buộc lao động kéo dài một cách phi lý và tàn khốc, và cả đến người lớn cũng phải làm một khối lượng công việc mà sức lực con người chưa chắc đã làm nổi. Kết quả là nhiều người chết non, nhiều người mang tật suốt đời, và nói theo quan điểm sinh lý học, thì người ta có thừa căn cứ để lo ngại cho tương lai của những thế hệ do những người sống sót ấy đẻ ra".

Sau cùng, khi nói đến Man-se-xtơ, bác sĩ Hô-kin-xơ tuyên bố:

"Tôi cho rằng đại đa số khách du lịch phải nhận thấy rằng những cư dân ở Man-se-xtơ, đặc biệt là những công nhân công xưởng, nói chung đều nhỏ bé, gầy yếu và xanh xao. Trong bất cứ một thành phố nào ở Đại Bri-ten hoặc ở châu Âu, tôi chưa bao giờ thấy những người có tầm vóc và sắc mặt rõ ràng cách biệt với cỡ người trung bình của dân tộc như thế. Những phụ nữ đã kết hôn đều mất hết tất cả mọi đặc điểm của phụ nữ Anh một cách đáng kinh ngạc... Tôi phải thừa nhận rằng những con trai và con gái của các công xưởng ở Man-se-xtơ được đưa đến cho tôi khám bệnh, đều tiều tuỵ và sắc mặt xanh xao; trên khuôn mặt họ không có một nét nào sinh động, hoạt bát, vui tươi vốn có của thời niên thiếu. Nhiều đứa trong bọn chúng nói với tôi rằng tối thứ bảy và ngày chủ nhật, chúng không thèm đi dạo chơi ở ngoài trời một chút nào, và chỉ thích ngồi yên ở nhà".

Chúng tôi lại dẫn thêm một đoạn khác trong báo cáo của bác sĩ Hô-kin-xơ; đoạn này cố nhiên chỉ có quan hệ một nửa với điều bàn ở đây, nhưng có thể dẫn ra ở đây cũng có hiệu quả như ở chỗ khác:

"Tính không điều độ, phóng đàng, không lo nghĩ đến tương lai chính là những khuyết điểm chủ yếu của cư dân công xưởng; những khuyết điểm ấy có thể giải thích rất dễ bằng những thói quen do chế độ công xưởng ngày nay đẻ ra và điều đó hầu như không thể tránh được. Mọi người đều công nhận rằng chứng tiêu hoá xấu, chứng ưu phiền, chứng suy nhược toàn thân là những hiện tượng rất phổ biến trong loại công nhân ấy; sau khi lao động đơn điệu trong mười hai giờ, thì việc muốn tìm một chút chất kích thích nào đó quả là điều hoàn toàn tự nhiên: nhưng rút cục khi mắc phải những chứng bệnh nói trên thì họ tất sẽ ngày càng đi tìm sự lãng quên trong rượu mạnh".

Bản báo cáo đã đưa ra hàng trăm ví dụ để chứng minh cho những lời nói ấy của các thày thuốc và của các uỷ viên tiểu ban. Bằng hàng trăm dẫn chứng, bản báo cáo ấy chứng thực rằng sự phát triển của công nhân thiếu niên đã bị lao động công xưởng làm cho trở ngại, Chẳng hạn như Cau-en đã nêu lên thể trạng của 46 nam thanh niên lứa tuổi mười bảy cùng học tại một trường ngày chủ nhật, trong số ấy, 26 người làm việc ở công xưởng bình quân nặng 104,5 pao, còn 20 người khác cũng thuộc giai cấp công nhân, nhưng không làm việc ở công xưởng thì bình quân nặng I17,7 pao. Chính một trong những chủ xưởng lớn nhất ở Man-se-xtơ, một tay cổ vũ các chủ xưởng chống lại công nhân, tên là Rô-bớt Hai-đơ Grếch, nếu tôi không nhầm, có một lần đã nói rằng nếu tình hình cứ tiếp tục như thế thì những công nhân công xưởng Lan-kê-sia chẳng bao lâu nữa sẽ biến thành một chủng tộc người lùn1). Một sĩ quan phụ trách tuyển mộ tân binh (Tớp-nen, tr.59) nói rằng công nhân công xưởng rất ít thích hợp với binh dịch, họ gầy và yếu, thường bị các thày thuốc khước từ. Ở Man-se-xtơ ông ta khó kiếm được một người cao 5 phút 8 in-sơ, đại đa số chỉ cao 5 phút 6 - 7 in-sơ, trong khi đó ở các khu nông nghiệp thì đại đa số tân binh đều cao 5 phút 8 in-sơ (thước Anh hơi ngắn hơn thước Phổ, đại khái cứ 5 phút thì ngắn mất 2 in-sơ.

Do ảnh hưởng của tất cả những điều kiện ấy, những nam công nhân mòn mỏi đi rất nhanh. Đại đa số đến 40 tuổi đã không làm việc được, chỉ có một số ít có thể kiên trì được đến 45 tuổi, rất ít người có thể kiên trì được đến 50 tuổi. Nguyên nhân mất khả năng lao động không những do toàn thân suy nhược, mà còn do suy yếu thị lực nữa, đấy là hậu quả của sự làm việc ở máy mun, ở đó, người công nhân phải luôn luôn chăm chú nhìn một hàng dài những sợi nhỏ song song, do đó cặp mắt lúc nào cũng phải rất căng thẳng. Trong số 1 600 công nhân làm việc trong mấy công xưởng ở Hác-pơ và La-nác-cơ chỉ có 10 người là vượt quá 45 tuổi; trong số 22 094 công nhân làm việc trong công xưởng ở Xtốc-poóc và Man-se-xtơ, chỉ có 143 người vượt quá 45 tuổi. Trong số 143 người ấy thì 16 người được ở lại công xưởng là do ơn huệ đặc biệt, trong đó có một người chỉ làm công việc của trẻ con. Trong một danh sách gồm 131 thợ kéo sợi nam, chỉ có 7 người quá 45 tuổi, thế mà cả 131 người ấy đi xin việc với chủ xưởng nào cũng đều bị từ chối vì "quá lớn tuổi". Trong số 50 người thợ kéo sợi bị  loại ra ở Bôn-tơn, chỉ có 2 người quá 50 tuổi, còn thì bình quân chưa quá 40 tuổi, thế mà họ đều thất nghiệp vì tuổi quá cao ! Trong một bức thư gửi cho huân tước Ê-sli, bản thân một chủ xưởng lớn tên là A-su-ước-tơ đã thừa nhận rằng những người thợ  kéo sợi hễ gần 40 tuổi là không thể nào kéo được sợi theo số lượng quy định, cho nên "có khi" đã bị đuổi; hắn gọi những công nhân 40 tuổi là "những người già"1). Trong bản báo cáo năm 1833, uỷ viên của tiểu ban là Ma-kin-tô-sơ nói:

"Mặc dù tôi đã biết trẻ con làm việc trong những điều kiện thế nào, và do đó trên tư tưởng đã có sự chuẩn bị nhất định, nhưng tôi vẫn khó tin số tuổi mà bản thân những công nhân tương đối già nua ấy nói ra, vì họ già sớm quá".

Nhà phẫu thuật Xmen-li ở Gla-xgô, chuyên khám bệnh cho công nhân công xưởng, cũng nói rằng đối với công nhân thì 40 tuổi đã là tuổi già (old age) (Stu-ác, Văn kiện, tr.101). Ta thấy những bằng chứng tương tự ở Tớp-nen, Văn kiện, tr. 3, 9, 15 và ở Hô-kin-xơ, Báo cáo, tr.4, Văn kiện, tr. 14, v.v.. Ở Man-se-xtơ hiện tượng già sớm ấy của công nhân rất phổ biến, hầu như tất cả mọi người đàn ông bốn mươi tuổi đều già hơn tuổi thực từ mười đến mười lăm tuổi, còn trong những giai cấp khá giả, thì nam hay nữ, chỉ cần họ không uống rượu quá nhiều là trông vẫn trẻ.

Ảnh hưởng của lao động công xưởng đối với cơ thể phụ nữ cũng rất đặc biệt. Những sự huỷ hoại cơ thể do ngày lao động quá dài gây nên ở phụ nữ còn nghiêm trọng hơn ở nam giới: những biến dạng của xương chậu (một phần do vị trí không bình thường và sự phát triển không bình thường của bản thân xương chậu, một phần do sự cong vẹo của phần dưới cột sống) thường là do nguyên nhân ấy sinh ra.

Trong bản báo cáo của bác sĩ Lao-đơn có nói: "Mặc dù bản thân tôi chưa từng thấy một trường hợp nào về biến dạng xương chậu và mấy chứng bệnh khác, nhưng mỗi người thày thuốc đều phải coi tất cả những hiện tượng đó là hậu quả có thể của ngày lao động quá dài của trẻ con; điều ấy đã được những thày thuốc có uy tín rất lớn xác nhận".

Nhiều bà đỡ và thày thuốc khoa sản đã chứng thực là nữ công nhân công xưởng đẻ khó hơn phụ nữ khác và thường hay đẻ non (chẳng hạn xem bác sĩ Hô-kin-xơ, Văn kiện, tr.11 và 13). Ngoài ra nữ công nhân còn mắc chứng thực suy nhược toàn thân chung cho tất cả công nhân công xưởng, và khi có thai, họ vẫn làm việc ở công xưởng cho đến tận lúc đẻ và điều đó hoàn toàn dễ hiểu, vì nếu họ nghỉ sớm thì sợ chỗ làm của họ bị người khác chiếm mất, còn bản thân họ sẽ bị thải; vả lại nghỉ sớm thì còn bị mất lương. Những nữ công nhân tối hôm trước còn làm việc, và sáng hôm sau đã đẻ là việc rất thường thấy; thậm chí đẻ ngay trong công xưởng, bên cạnh máy, cũng không phải là hiếm gì. Nếu các ngài tư sản không thấy điều đó có gì đặc biệt, thì có lẽ vợ họ cũng sẽ đồng ý với tôi rằng gián tiếp cưỡng bức một người phụ nữ có mang mỗi ngày vẫn phải làm việc 12, 13 giờ (trước kia còn nhiều hơn) mà lúc nào cũng phải đứng và thường phải cúi cho đến tận ngày đẻ, thì đó là một việc vô cùng tàn khốc, một hành vi dã man bỉ ổi. Nhưng điều đó chưa phải đã hết. Khi người nữ công nhân được nghỉ hai tuần lễ sau khi đẻ, thì họ rất hài lòng và coi đó là một thời hạn nghỉ rất dài, Nhiều người chỉ sau khi đẻ một tuần, thậm chí sau khi đẻ 3-4 ngày đã trở lại công xưởng làm đủ cả ngày lao động. Có lần tôi nghe chủ xưởng hỏi người đốc công: Chị ấy còn chưa đến à ? - Chưa, - Chị ấy đẻ được bao lâu rồi ? - Một tuần. - Thế thì chị ta đáng lẽ phải trở lại từ lâu rồi. Một chị khác trong trường hợp như thế chỉ ở nhà không quá ba ngày. - Tất cả điều đó thật hoàn toàn dễ hiểu: vì sợ bị sa  thải, vì sợ thất nghiệp, người nữ công nhân bắt buộc phải trở lại công xưởng mặc dù họ còn rất yếu và còn đau; lợi ích của chủ xưởng không cho phép công nhân ở nhà vì đau ốm; công nhân không được ốm, nữ công nhân không được phép nghỉ sau khi đẻ, không thế thì chủ xưởng sẽ phải dừng máy lại, hoặc đầu óc cao quý của hắn sẽ phải mệt nhọc để tìm những biện pháp giải quyết tạm thời; để khỏi xảy ra sự tình như vậy, hắn sa thải những công nhân nào dám ốm đau.

Hãy nghe những lời nói dưới đây (Cau-en, Văn kiện, tr.77):

"Mọi người con gái cảm thấy khó chịu trong người, quả thực không thể tiếp tục làm việc được nữa. - Tại sao cô ta không xin phép về nhà? - Ô! Thưa ông, về điểm này "ông chủ" rất nghiêm khắc: chúng tôi chỉ vắng mặt một phần tư ngày là đã có nguy cơ bị đuổi rồi".

Và đây là một dẫn chứng khác (ngài Ba-ri, Văn kiện, tr.44): công nhân Tô-mát Mác-Đớc hơi sốt:

"Anh ta không dám ở nhà, mà nếu ở nhà thì cũng không dám ở nhà quá bốn ngày, vì sợ mất việc".

Tình hình ở hầu hết mọi công xưởng đều như thế. - Lao động của những thiếu nữ trong thời kỳ phát triển của cơ thể còn gây ra nhiều hiện tượng không bình thường. Có một số người, nhất là những người được ăn uống tương đối khá, do bầu không khí nóng bức của công xưởng, làm cho phát triển nhanh hơn, đến nỗi một số thiếu nữ 12 - 14 tuổi đã được phát triển hoàn  toàn đầy đủ. Trong tờ "North of England Medical and Surgical Journal", Rô-bớc-tơn, mà trên kia đã nhắc đến và đã được bản báo cáo về công xưởng gọi là người thày thuốc sản khoa "xuất sắc" ở Man-se-xtơ, nói rằng ông ta đã gặp một cô gái mười một tuổi, không những đã được phát triển hoàn toàn đầy đủ, mà thậm chí đã có thai; và con gái mười lăm tuổi đẻ con không phải làm hiếm có ở Man-se-xtơ. Trong trường hợp ấy thì sự nóng bức ở công xưởng cũng có tác dụng như sự nóng bức của khí hậu nhiệt đới và cũng như ở khí hậu ấy, người ta phát triển quá sớm thì tuổi già và sức yếu cũng đến quá sớm. Nhưng cũng thường thấy sự phát triển về giới tính của phụ nữ bị trở ngại: vú nở nang chậm hay hoàn toàn không nở; Cau-en dẫn ra những ví dụ như thế ở tr. 35; kinh nguyệt nhiều khi đến mười bảy, mười tám tuổi, có khi đến hai mươi tuổi, mới bắt đầu có, thường là hoàn toàn không có (bác sĩ Hô-kin-xơ, Văn kiện, tr. 11; bác sĩ Lao-đơn, Văn kiện, tr. 14 và các tr. khác; ngài Ba-ri, Văn kiện, tr. 5 và các tr. khác). Kinh nguyệt thường rất không đều, kèm theo chứng đau dữ dội và khó chịu,  nhất là chứng thiếu máu rất thường gặp; đó là điều mà tất cả các bản báo cáo y học đều nhất trí chứng minh.

Những phụ nữ như vậy, đặc biệt là trong điều kiện đã có mang mà vẫn phải làm việc, không thể sinh ra những đứa con khoẻ mạnh được. Theo những bản báo cáo, nhất là báo cáo về Man-se-xtơ thì những đứa con của họ đều rất yếu ớt, chỉ có một mình Ba-ri cho là chúng khỏe mạnh, nhưng ông ta cũng nói rằng ở Xcốt-len, nơi ông ta kiểm tra, thì hầu như không có một phụ nữ đã kết hôn nào làm việc ở công xưởng; hơn nữa, phần lớn những công xưởng ở đây - trừ những công xưởng ở Gla-xgô - đều ở ngoài thành phố, điều đó giúp không ít cho sức khoẻ của trẻ con. Ở những vùng phụ cận Man-se-xtơ, hầu hết con công nhân đều mặt mũi hồng hào và hớn hở, còn con công nhân ở chính trong thành phố thì xanh xao và còm cõi. Nhưng đến chín tuổi thì trẻ con đột nhiên mất hết sắc mặt hồng hào vì khi ấy chúng bị đưa vào công xưởng, và chẳng bao lâu người ta không còn phân biệt được chúng với những trẻ con ở thành phố nữa.

Ngoài ra, trong lao động công xưởng còn có mấy ngành đặc biệt có hại cho sức khoẻ. Ví dụ, ở những công xưởng kéo sợi bông và sợi lanh, trong không khí thường dày đặc những bụi xơ, làm cho công nhân, nhất là công nhân ở phân xưởng chải và phân xưởng chải tuyết, dễ mắc bệnh phổi. Ở một số người có thể chịu đựng được thứ bụi xơ ấy, một số thì không chịu nổi. Nhưng người công nhân không được lựa chọn, anh ta tìm được việc ở bộ phận nào thì phải ở đấy, bất kể điều đó có ảnh hưởng gì đến phổi của anh. Hít thở thứ bụi ấy vào phổi thì có những hậu quả phổ biến là khạc ra máu, thở khó và khò khè, đau ngực, ho, mất ngủ, tóm lại là các triệu chứng của bệnh hen, những trường hợp nghiêm trọng nhất thì trở thành bệnh lao (xem Stu-ác, tr. 13, 70, 101; Ma-kin-tô-sơ, tr.24 và các tr. khác; Báo cáo của Pau-ơ về Nốt-tinh-hêm và Lít-xơ; Cau-en, tr.33 và các tr. khác; Ba-ri, tr. 12 - năm trường hợp xảy ra trong một công xưởng - tr. 17, 44, 52, 60 và các tr. khác và ngay cả trong báo cáo của ông; Lao-đơn, tr. 13, v.v. và v.v.). Nhưng đặc biệt có hại là công việc kéo sợi lanh bằng phương pháp ẩm, do thiếu nữ và trẻ con làm. Nước bắn từ các ống suốt vào người họ, nên quần áo họ phía trước lúc nào cũng ướt đẫm, và mặt đất lúc nào cũng đọng nước. Tình hình ở các phân xưởng sợi của công xưởng kéo sợi bông cũng vậy, mặc dù ở một mức độ thấp hơn, và những hậu quả của nó cũng là cảm mạo thường xuyên và bệnh phổi. Giọng nói khàn khàn, the thé là đặc điểm chung cho tất cả những công nhân công xưởng, nhưng mắc nặng nhất là những thợ kéo sợi bằng phương pháp ẩm và thợ đấu sợi. Stu-ác, Ma-kin-tô-sơ và ngài Đ.Ba-ri đều phát biểu về những tác hại của loại công việc ấy bằng những lời hết sức gay gắt và cũng tỏ thái độ như vậy đối với việc đại đa số chủ xưởng bỏ mặc không quan tâm đến sức khoẻ của những thiếu nữ làm công việc ấy. Một hậu quả khác của việc kéo sợi lanh là những biến dạng đặc biệt của vai, tức là xương bả vai bên phải nhô ra trước do bản thân tính chất của quá trình lao động gây ra. Việc kéo sợi lanh cũng giống như việc kéo sợi bông với máy sợi con, thường gây nên những bệnh ở xương bánh chè vì phải dùng đầu gối để giữ các cọc sợi khi nối sợi đứt. Làm hai loại công việc ấy, người công nhân phải luôn luôn cúi xuống, và máy lại đặt quá thấp khiến thân thể phát triển không đầy đủ. Tôi đã từng làm việc trong một công xưởng sợi bông ở Man-se-xtơ, theo tôi nhớ thì trong các phân xưởng dùng máy sợi con không có một người con gái nào vóc người cao và cân đối; họ đều thấp bé, cằn cỗi, ngực lép, thân hình rất khó coi. Ngoài những bệnh tật và dị hình ấy, công nhân còn bị những thương tật khác nữa. Làm việc giữa máy móc thường gây nên nhiều sự rủi ro ít nhiều nghiêm trọng, kết quả là làm cho công nhân tạm thời hoặc vĩnh viễn mất năng lực lao động. Trường hợp thường gặp nhất là bị cụt một đốt ngón tay, trường hợp cả ngón tay, cả bàn tay hoặc cả cánh tay bị bánh xe nghiến nát thì ít thấy hơn. Sau khi bị các vết thương ấy, thậm chí bị vết thương có khi không quan trọng, thường cũng mắc phải bệnh uốn ván làm cho chết người. Ở Man-se-xtơ ngoài nhiều người tàn tật, người ta còn thấy một số rất lớn người cụt chân tay; người này mất một nửa hoặc cả cánh tay, người kia mất một bàn chân, người thứ ba mất một nửa chân, người ta tưởng như sống giữa một toán thương binh từ chiến trận trở về. Nhưng chỗ nguy hiểm nhất trên máy là những dây cu-roa truyền động lực từ trục đến các máy, nhất là khi chúng có những khoá nối, song bây giờ đã hiếm có. Người nào bị dây cu-roa ngoắc phải thì trong nháy mắt đã bị cuốn đi, bị quật vào trần nhà hoặc quật xuống sàn nhà với một sức mạnh đến nỗi một cái xương cũng không còn nguyên vẹn và chết ngay lập tức. Từ ngày 12 tháng Sáu đến 3 tháng Tám 1843, báo "Manchester Guardian" đã đăng tin về những trường hợp tai nạn nghiêm trọng như sau (về những tai nạn nhẹ thì báo không nói đến). Ngày 12 tháng Sáu, một em trai ở Man-se-xtơ, do một cánh tay bị máy nghiến nát, mắc bệnh uốn ván chết. - Ngày 16 tháng Sáu, một thiếu niên ở thành phố Xét-đơn-ước-tơ bị bánh xe cuốn đập chết. - Ngày 29 tháng Sáu ở gần Man-se-xtơ, một thanh niên làm việc trong nhà máy chế tạo máy ở Gri-nê-cơ-rơ-Mua ngã xuống dưới một phiến đá mài, bị gãy hai xương sườn và bị thương nặng toàn thân. - Ngày 24 tháng Bảy, một người con gái ở Ôn-đêm chết vì bị dây cu-roa cuốn đi năm mươi vòng, quật nát không còn một cái xương nào toàn vẹn. - Ngày 27 tháng Bảy, một người con gái ở Man-se-xtơ ngã vào cái máy bật bông (cái máy đầu tiên nhận bông thô) bị thương và chết. - Ngày 3 tháng Tám một công nhân tiện ống chỉ ở Đa-kin-phin-đơ chết vì bị dây cu-roa cuốn, tất cả các xương sườn đều gẫy. - Chỉ trong năm 1843, số người bị thương và tàn tật do máy gây nên, đến điều trị ở bệnh viện Man-se-xtơ là 962 người, còn tổng số những người bị tai nạn khác điều trị ở bệnh viện lên tới 2 426, như vậy cứ năm tai nạn do những nguyên nhân khác gây nên thì có hai tai nạn do máy. Đấy là chưa kể những tai nạn xảy ra ở Xôn-phoóc, và những người do thày thuốc tư điều trị. - Khi xảy ra những tai nạn ấy, nếu người bị nạn không mất năng lực lao động, chủ xưởng nhiều nhất cũng chỉ chịu tiền thuốc; trong thời gian điều trị mà vẫn được tiếp tục lĩnh lương thì rất hiếm; còn như tình hình người công nhân không thể làm việc được sau này sống ra sao, thì chẳng liên quan gì đến họ.

Về những sự tình ấy, bản báo cáo về công xưởng viết rằng trong bất cứ trường hợp nào, chủ xưởng vẫn phải chịu trách nhiệm; bởi vì trẻ con không thể tự mình giữ gìn cẩn thận, còn người lớn, đương nhiên vì lợi ích bản thân, họ đã đề phòng rồi. Nhưng viết bản báo cáo ấy là những người tư sản cho nên họ không tránh khỏi sự mâu thuẫn với mình, và sau đó lại tuôn ra hàng tràng những câu nói nhảm về sự "sơ suất đáng tội" (culpable temerity) của công nhân. Điều đó đương nhiên không thể thay đổi được sự thực. Thực chất của sự việc là thế này: nếu trẻ con không thể tự mình giữ gìn cẩn thận thì phải cấm việc sử dụng lao động trẻ con; nếu người lớn thường không giữ gìn cẩn thận đầy đủ thì hoặc là họ cũng giống như trẻ con, tức là họ còn ở vào một trình độ giáo dục không cho phép họ hoàn toàn hiểu được nguy hiểm ấy, - ai là người phải chịu trách nhiệm về tình hình ấy nếu không phải là giai cấp tư sản đã đặt họ vào hoàn cảnh không thể học tập và phát triển được? - hoặc là tại máy móc xếp đặt không được tốt, đáng lẽ phải đặt thêm rào chắn hay lan can quanh máy, cái ấy đương nhiên cũng là trách nhiệm của giai cấp tư sản, - hoặc là có những động cơ khác chi phối người công nhân còn mãnh liệt hơn cả sự sợ hãi trước những nguy hiểm đang đe doạ họ, - vì muốn kiếm thêm ít tiền, anh ta phải làm vội và không có thì giờ chú ý cẩn thận, v.v., - cả trường hợp ấy nữa, giai cấp tư sản cũng vẫn phải chịu trách nhiệm. Nhiều tai nạn xảy ra là do người công nhân bắt đầu lau chùi máy khi máy còn chạy. Tại sao ? Bởi vì người tư sản bắt công nhân lau chùi máy trong giờ nghỉ, khi máy móc dừng không chạy, thì người công nhân tất nhiên là không muốn cắt xén bớt chút thời gian nghỉ nào của họ. Đối với anh ta mỗi giờ nghỉ đều quý báu đến nỗi anh ta mỗi tuần hai lần liều nguy hiểm đến tính mạng chứ không muốn hy sinh giờ ấy cho người tư sản. Nếu chủ xưởng dành thời gian cần thiết cho việc lau chùi máy nằm trong thời gian lao động thì sẽ không còn một công nhân nào nghĩ đến việc lau chùi máy lúc máy đang chạy. Nói tóm lại, trong mọi trường hợp xảy ra tai nạn, phân tích đến cùng thì tội lỗi vẫn thuộc chủ xưởng, ít nhất cũng phải đòi họ phải cấp dưỡng suốt đời cho người công nhân mất sức lao động và trong trường hợp người công nhân bị chết thì phải cấp dưỡng cho gia đình anh ta. Ở bước đầu của giai đoạn phát triển công nghiệp, tỷ lệ tai nạn còn cao hơn ngày nay nhiều vì máy móc bấy giờ xấu hơn, nhỏ hơn, xếp đặt sát nhau hơn và hầu như hoàn toàn không có thiết bị che chắn. Nhưng, như những tài liệu dẫn ra trên kia đã chứng tỏ, con số tai nạn hiện nay còn rất nhiều, khiến người ta không thể không suy nghĩ một cách nghiêm túc về sự thật là: chỉ vì lợi ích của một giai cấp mà rốt cuộc có bao nhiêu người thành tàn tật hoặc tàn phế, có bao nhiêu công nhân cần cù yêu lao động phải chịu đói rét, khổ cực vì một tai nạn xảy ra do tội lỗi của giai cấp tư sản khi họ phục vụ cho chúng.

Tính tham lam bỉ ổi của giai cấp tư sản đã tạo nên bao nhiêu là bệnh tật! Phụ nữ mất khả năng sinh đẻ, trẻ con tàn tật, đàn ông yếu đuối xanh xao, nhiều người tàn phế, toàn bộ nhiều thế hệ có nguy cơ bị diệt vong, bị kiệt sức và ốm yếu, - mà tất cả chỉ là để nhét cho đầy túi của giai cấp tư sản ! Và khi người ta đọc đến từng việc tàn bạo dã man như trẻ con bị đốc công kéo dậy từ trên giường, thân thể còn trần truồng, tay cầm quần áo, bị đẩy vào công xưởng bằng đấm đá (ví dụ: Stu-ác, tr.39 và các tr. khác); khi trẻ con đang ngủ bị những qua đấm của chúng xua đuổi như thế nào; trong khi làm việc chúng lại gục xuống ngủ như thế nào; một đứa trẻ đáng thương đã ngủ thiếp ngay sau khi máy móc vừa dừng lại, bị đốc công quát gọi giật mình tỉnh dậy, cứ nhắm mắt mà lặp lại những thao tác thường ngày như thế nào; khi người ta đọc thấy những trẻ con kiệt sức quá không thể đi về nhà được, nấp trốn dưới đống len trong phòng sấy mà ngủ, và chỉ lấy roi da quật cho thì mới có thể đuổi được chúng ra khỏi xưởng máy; khi thấy hàng trăm đứa trẻ hàng ngày về đến nhà mệt mỏi và buồn ngủ quá đến nỗi không nuốt trôi được bữa ăn chiều và cha mẹ chúng thấy chúng ngủ thiếp đi trong khi quỳ trước giường để cầu nguyện; khi người ta đọc thấy tất cả những điều ấy và hàng trăm sự việc đê tiện ghê gớm khác ở trong một bản báo cáo mà tất cả mọi bằng chứng đều được đưa ra có tuyên thệ và được xác nhận bởi nhiều người làm chứng mà bản thân các uỷ viên thừa nhận là có thể tin cậy được; khi người ta suy nghĩ rằng đó là một bản báo cáo của "Đảng tự do", một bản báo cáo của giai cấp tư sản nhằm bác bỏ bản báo cáo trước của đảng To-ri, và để chứng minh tâm địa trong sạch của các chủ xưởng, khi người ta nhớ rằng bản thân những uỷ viên tiểu ban đều đứng về phía giai cấp tư sản, và họ phải ghi lại tất cả những chứng cớ ấy là điều bất đắc dĩ, thì lẽ nào người ta lại không cảm thấy tức giận và căm thù cái giai cấp tự vỗ ngực là từ bi và không vụ lợi, nhưng thực tế chỉ có một khát vọng duy nhất là nhét đầy túi với bất cứ một giá nào. Nhưng bây giờ chúng ta hãy nghe chính giai cấp tư sản nói lên qua cái mồm của tên đầy tớ mà họ đã cử ra, là bác sĩ I-u-rơ.

Trong cuốn "Triết lý về công xưởng" tr. 277 và các tr. sau ông này viết là có người bảo với công nhân rằng dường như tiền lương của họ không tương xứng với những hy sinh của họ, và như thế là người ta đã phá hoại quan hệ tốt giữa chủ và thợ. Tốt hơn hết là công nhân nên cố gắng biểu hiện sự chăm chỉ và tận tuỵ với công việc của mình và nên vui mừng phấn khởi về những thành công của chủ, như vậy họ sẽ có thể trở thành đốc công quản lý, và cuối cùng thậm chí có thể trở thành cổ đông, do đó (ôi ! khôn ngoan làm sao, nói ngây thơ như chim bồ câu gù gù vậy !) " họ sẽ làm tăng thêm nhu cầu của thị trường về nhân công" ! ! - "Nếu các công nhân không quá hiếu động như thế thì sự phát triển của chế độ công xưởng còn có những kết quả hữu ích hơn nữa". Tiếp theo đó là một đoạn dài những câu ca thán về sự bướng bỉnh của công nhân, và, khi nói đến một cuộc bãi công của những người công nhân lương cao nhất - công nhân kéo sợi nhỏ - thì ông ta thốt ra những câu ngây thơ như sau:

"Đúng, chính tiền lương cao của họ khiến họ có thể duy trì được một uỷ ban được hưởng lương, và làm cho họ mắc chứng thần kinh hết sức căng thẳng do ăn uống quá tẩm bổ và quá kích thích đối với loại công việc ấy !" (tr.298).

Chúng ta hãy nghe tay tư sản ấy mô tả lao động của trẻ con:

"Tôi đã tham quan nhiều công xưởng ở Man-se-xtơ và những vùng phụ cận, tôi không bao giờ nhìn thấy một đứa trẻ bị ngược đãi, hoặc bị nhục hình hay tâm tình không thoải mái: tất cả bọn chúng đều vui vẻ (cheerful) nhanh nhẹn, cảm thấy thích thú (taking pleasure) với sự hoạt động nhẹ nhàng của bắp thịt của chúng, và có đầy đủ tính hoạt bát tự nhiên của lứa tuổi chúng. Cảnh tượng sản xuất không hề gây ra trong lòng tôi một chút cảm xúc buồn rầu, trái lại, bao giờ cũng làm cho tôi thấy phấn chấn. Nhìn chúng nối sợi đứt nhanh nhẹn như thế nào mỗi khi bộ ống suốt lùi lại, và nhìn chúng, sau khi dùng những ngón tay nhỏ nhắn của mình hoạt động trong mấy giây đồng hồ, đã  đùa nghịch với mọi tư thế trong mấy giây rỗi rãi cho đến tận lúc công việc lên suốt hay tháo chỉ lại sẵn sàng trở lại cảnh tượng ấy thật khiến người ta vô cùng khoan khoái (delightful). Công việc của những chú bé hoạt bát (lively) ấy giống như một thứ trò chơi, bởi vì chúng đã quen rồi nên làm rất nhẹ nhàng. Bản thân chúng cũng có ý thức về sự khéo léo của mình nên rất muốn phô ra cho mọi người đến tham quan xem. Không có một tí dấu vết của sự mệt nhọc, bởi vì hễ chúng ra khỏi xưởng là đã đùa nghịch nhẩy nhót trên một bãi chơi gần nhất, giống như những đứa trẻ vừa tan học" (tr.310).

(Đương nhiên rồi ! Làm như là cử động toàn bộ những bắp thịt một chút không phải là nhu cầu trực tiếp của cơ thể đã bị công việc làm cho cứng đờ và mệt lử ! Nhưng đáng lẽ tác giả phải chờ một chút xem sự kích thích trong chốc lát ấy có phải là mấy phút sau đã mất ngay không. Hơn nữa, tác giả cũng chỉ có thể nhìn thấy tình hình ấy vào buổi trưa, nghĩa là sau khi các em mới làm việc được năm - sáu giờ, chứ không phải là vào buổi chiều !). Còn như về sức khoẻ của công nhân thì tay tư sản ấy, vì muốn chứng minh rằng tình hình rất tốt, nên đã hết sức trâng tráo dẫn ra bản báo cáo năm 1833 mà tôi đã dẫn chứng và trích nhiều lần. Ông ta mưu toan trích dẫn mấy câu cắt xén để chứng minh rằng trong công nhân không có một tí vết tích của bệnh tràng nhạc, rằng chế độ công xưởng làm cho công nhân tránh khỏi các loại bệnh cấp tính (điều đó hoàn toàn đúng, nhưng chế độ công xưởng đồng thời cũng đưa lại cho công nhân các loại bệnh kinh niên, về điểm này đương nhiên là tác giả tuyệt đối không nói đến). Muốn hiểu xem ngài I-u-rơ đáng kính ấy của chúng ta đã nói láo toét một cách vô liêm sỉ với công chúng Anh như thế nào, thì nên biết rằng bản báo cáo gồm tất cả ba quyển dày khổ lớn, và một người tư sản Anh bụng phệ thì không bao giờ nghĩ đến việc nghiên cứu cẩn thận bản báo cáo ấy. Chúng ta hãy nghe ý kiến của ông ta đối với đạo luật về công xưởng do phái tư sản tự do công bố năm 1833, và sau đây chúng ta sẽ thấy rằng đạo luật chỉ bắt chủ xưởng chịu những hạn chế cần thiết nhất. Thế mà đối với ông ta thì đạo luật ấy, nhất là về giáo dục cưỡng bách ở trường, lại là một biện pháp phi lý và độc đoán dùng để đối phó với chủ xưởng. Đạo luật ấy đã đuổi tất cả trẻ con dưới 12 tuổi ra đường phố, và ông I-u-rơ hỏi kết quả là gì ? Bị gạt khỏi những công việc nhẹ nhàng và bổ ích, các em bây giờ không được tiếp thụ một sự giáo dục nào; bị đuổi từ gian xưởng kéo sợi ấm áp ra ngoài thế giới lạnh giá, chúng chỉ sống được là nhờ ăn xin và ăn cắp; theo I-u-rơ thì lối sống này thực là bi thảm tương phản với tình hình không ngừng cải thiện của chúng ở công xưởng và ở trường ngày chủ nhật! I-u-rơ than phiền là đạo luật ấy, dưới mặt nạ tự nhiên, làm tăng thêm nỗi đau khổ của người nghèo, và làm cho công việc hữu ích của những chủ xưởng có lương tâm, nếu không hoàn toàn đình đốn, thì cũng gặp rất nhiều trở ngại (tr. 404, 406 và các tr. sau).

Những tác dụng tai hại của chế độ công xưởng từ lâu đã được mọi người chú ý. Chúng tôi đã nói đến đạo luật về thợ học việc năm 1802. Sau đó, vào khoảng năm 1817, một chủ xưởng ở Niu-La-nác-cơ (Xcốt-len) là Rô-bớt Ô-oen - sau này trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội Anh - đã bắt đầu gửi những đơn thỉnh nguyện và những bản điều trần, khuyên chính phủ phải dùng pháp luật mà bảo hộ sức khoẻ cho công nhân, đặc biệt cho trẻ con. Ngài Rô-bớt Pin đã quá cố và nhiều nhà từ thiện khác đã tán thành ông và đã kế tiếp nhau đòi chính phủ thông qua những đạo luật về công xưởng năm 1819, 1825 và 1831; hai đạo luật trước căn bản không được người nào tuân theo 108, còn đạo luật sau cùng chỉ được người ta tuân theo một phần mà thôi. Đạo luật được thông qua năm 1831 căn cứ vào đề nghị của ngài Gi.C.Hốp-hau-dơ đã cấm các xưởng sợi bông dùng công nhân dưới 21 tuổi làm việc đêm từ bảy giờ rưỡi tối đến năm giờ rưỡi sáng, ngoài ra còn quy định rằng trong bất cứ công xưởng nào, thời gian làm việc của công nhân dưới 18 tuổi mỗi ngày không được vượt quá 12 giờ, thứ bảy không được vượt quá 9 giờ. Nhưng công nhân không dám ra mặt làm chứng chống lại chủ của mình để tránh nguy cơ bị sa thải, cho nên đạo luật ấy không phục vụ công nhân được bao nhiêu. Trong những thành phố lớn, công nhân ít khó bảo hơn, thì các chủ xưởng lớn nhất cùng nhau quyết định tuân theo đạo luật ấy, nhưng ở đó cũng có không ít chủ xưởng, noi gương những chủ xưởng ở nông thôn, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến đạo luật ấy. Bây giờ trong công nhân trẻ đã lan tràn phong trào đòi hỏi một dự luật mười giờ, tức là một đạo luật quy định thời gian lao động của công nhân trẻ dưới 18 tuổi mỗi ngày không được vượt quá 10 giờ. Các công liên đã tuyên truyền làm cho yêu cầu ấy trở thành yêu cầu phổ biến của toàn thể cư dân công xưởng, còn phái bác ái của đảng To-ri bấy giờ do Mi-sen Xát-lơ cầm đầu đã nắm lấy kế hoạch ấy và đưa ra thảo luận ở nghị viện, Xát -lơ đã đạt được mục đích là cử một tiểu ban nghị viện để điều tra về chế độ công xưởng, và tiểu ban này đã trình bản báo cáo trong kỳ họp nghị viện năm 1832. Đó là một bản báo cáo có sự thiên vị nhất định do những kẻ thù công khai của chế độ công xưởng thảo ra để phục vụ lợi ích đảng phái. Xát-lơ đã để cho nhiệt tình cao quý của ông dẫn đến những điều khẳng định không có căn cứ và không xác thực; do cách đặt vấn đề của ông, ông đã rút ra ở những người làm chứng những câu trả lời dù không phải là giả dối nhưng cũng đã xuyên tạc và bóp méo sự thật. Các chủ xưởng hoảng sợ vì bản báo cáo đã mô tả họ như những con ác quỷ, liền tự động thỉnh cầu các nhà chức trách tiến hành điều tra chính thức; họ hiểu rằng một bản báo cáo chân thực, bấy giờ chỉ có lợi cho họ, họ biết rằng những người đang cầm quyền là những người thuộc đảng Vích, vốn có xu hướng thân thiện với họ, là những người tư sản thực thụ và nguyên tắc là phản đối sự hạn chế công nghiệp. Quả nhiên, họ đã đạt mục đích là thành lập một tiểu ban hoàn toàn gồm có những người tư sản tự do, và báo cáo của tiểu ban này chính là báo cáo mà tôi thường trích dẫn. Bản báo cáo ấy gần với sự thật hơn bản báo cáo của tiểu ban Xát-lơ một chút, nhưng nó lại xa rời tình hình chân thực theo chiều hướng đối lập. Trang nào cũng biểu lộ sự đồng tình với chủ xưởng, sự ngờ vực đối với bản báo cáo của Xát-lơ, thù hằn với những hành động độc lập của công nhân và những người ủng hộ dự luật mười giờ. Trong bản báo cáo ấy, không có một chỗ nào thừa nhận công nhân có quyền sống một đời sống của con người, có quyền hoạt động độc lập, và có kiến giải riêng của mình. Bản báo cáo ấy chê trách công nhân rằng trong khi cổ động cho dự luật mười giờ, họ không những chỉ nghĩ đến con em họ, mà còn nghĩ đến cả bản thân họ; báo cáo ấy gọi những người công nhân tuyên truyền là những kẻ mị dân, là những người nham hiểm, có ác ý v.v., nói tóm lại, tất cả mọi sự đồng tình của bản báo cáo ấy đều hướng về phía giai cấp tư sản. Nhưng bản báo cáo ấy vẫn không rửa sạch tội được cho bọn chủ xưởng; nó cũng phải thú nhận rằng những việc xấu xa do chủ xưởng chịu trách nhiệm vẫn còn rất nhiều, thậm chí xem bản báo cáo ấy thì thấy rằng việc cổ động cho dự luật mười giờ, sự oán hận của công nhân đối với chủ xưởng, và những lời lẽ thoá mạ nặng nề nhất của tiểu ban Xát-lơ đối với chủ xưởng đều là hoàn toàn chính đáng. Toàn bộ sự khác nhau là bản báo cáo của Xát-lơ thì lên án bọn chủ xưởng về những hành động tàn khốc công khai, không che đậy, còn bản báo cáo này thì lại cho thấy rằng những hành động tàn khốc ấy phần nhiều được che đậy dưới mặt nạ thông minh và nhân đạo. Ví dụ bác sĩ Hô-kin-xơ, người thầy thuốc được tiểu ban giao cho đi điều tra ở Lan-kê-sia, đã tuyên bố kiên quyết ủng hộ dự luật mười giờ ngay từ mấy dòng đầu tiên của bản báo cáo của ông! Uỷ viên Ma-kin-tô-sơ cũng tuyên bố rằng bản báo cáo của ông chưa nói hết tình hình chân thực, bởi vì rất khó thuyết phục nhân dân để họ đưa ra những chứng cớ bất lợi cho chủ họ, vả lại các chủ xưởng, do sự khích động của công nhân, chúng đã bắt buộc phải nhượng bộ nhiều hơn, đối với cuộc đi thăm của tiểu ban, thường đã chuẩn bị kỹ, đã cho quét dọn công xưởng, giảm tốc độ vận hành của máy, v.v.. Ví dụ, ở Lan-kê-sia, họ đã dùng mưu kế này: họ đưa bọn đốc công giả danh là "công nhân" ra giới thiệu với tiểu ban, để chúng thao thao bất tuyệt kể lại lòng nhân đạo của chủ xưởng, những ảnh hưởng tốt của lao động đối với sức khoẻ, sự thờ ơ thậm chí còn chán ghét của công nhân đối với dự luật mười giờ. Nhưng bọn đốc công ấy đã không còn là công nhân chân chính nữa, chúng là những kẻ phản bội giai cấp mình, đã vì chút lương cao mà ra sức phục dịch giai cấp tư sản và chống lại công nhân nhằm bảo vệ lợi ích của bọn tư bản. Lợi ích của chúng nhất trí với lợi ích của giai cấp tư sản, cho nên công nhân căm ghét chúng hơn bọn chủ xưởng nữa. Mặc dù vậy, bản báo cáo ấy vẫn nói lên một cách hoàn toàn đầy đủ thái độ đáng phẫn nộ và tàn khốc của giai cấp tư sản công nghiệp bỉ ổi và không chút nhân tính. Còn cái gì làm cho người ta phẫn nộ hơn khi thấy báo cáo ấy đối chiếu hai tình hình, một bên là bao nhiêu bệnh hoạn tàn tật do lao động quá sức gây nên; một bên là khoa kinh tế chính trị lạnh lùng tính toán chi ly của bọn chủ xưởng là kẻ định dùng những con số trong tay để chứng minh rằng nếu không cho phép họ mỗi năm làm cho bao nhiêu trẻ con thành tàn tật, thì toàn nước Anh sẽ phải cùng phá sản với họ! Có lẽ chỉ có những lời bậy bạ vô liêm sỉ của I-u-rơ mà tôi vừa dẫn mới có thể làm cho người ta phẫn nộ hơn, nếu những lời bậy bạ ấy không quá lố bịch đến thế.

Kết quả của bản báo cáo ấy là đạo luật về công xưởng năm 1833 cấm thuê trẻ con dưới 9 tuổi làm việc (trừ những công xưởng dệt lụa), quy định thời gian lao động mỗi tuần của trẻ con từ 9 tuổi đến 13 tuổi là 48 giờ, hoặc tối đa là mỗi ngày 9 giờ, thời gian lao động mỗi tuần của thiếu niên từ 14 đến 18 tuổi là 69 giờ hoặc mỗi ngày không được vượt quá 12 giờ, quy định mỗi ngày nhất thiết phải có thời gian nghỉ để ăn uống ít nhất một giờ rưỡi, và cấm làm đêm đối với tất cả các công nhân nam nữ dưới 18 tuổi. Đồng thời đạo luật ấy lại quy định tất cả các trẻ con dưới 14 tuổi bắt buộc phải đi học mỗi ngày hai giờ, nếu chủ xưởng thuê những trẻ con chưa có giấy chứng nhận vào học ở trường do giáo viên cấp, thì sẽ bị phạt. Ngược lại, chủ xưởng có quyền trừ vào lương của trẻ con mỗi tuần 1 pen-ni để trả lương cho giáo viên. Ngoài ra, người ta còn bổ nhiệm những thày thuốc và thanh tra công xưởng, những người này có quyền vào công xưởng bất cứ lúc nào để nghe công nhân làm chứng có tuyên thệ, và có trách nhiệm truy tố trước toà án hoà giải những chủ xưởng vi phạm pháp luật. Đó là đạo luật và bác sĩ I-u-rơ không kiềm chế nổi mình nên đã chửi rủa không tiếc lời!

Do việc thi hành đạo luật ấy, đặc biệt là sự bổ nhiệm các thanh tra, cho nên ngày lao động bình quân rút xuống 12-13 giờ, và trẻ con đã được thay thế bằng người lớn trong phạm vi có thể. Vì thế mà mấy tai hoạ kinh sợ nhất hầu như đã hoàn toàn biến mất, chỉ có những người cơ thể hết sức yếu mới thành tật và những hậu quả tai hại của lao động công xưởng nói chung bớt lộ liễu. Mặc dù như vậy, vẫn có thể tìm thấy trong bản báo cáo đủ chứng cớ nói lên rằng ngay cả trong những công xưởng và ở những công nhân nào mỗi ngày làm việc 12 giờ, nhiều nhất là 13 giờ, theo quy định của đạo luật của ngài Gi.C.Hốp-hau-dơ, cũng vẫn luôn luôn xuất hiện những chứng bệnh không đến nỗi nặng lắm như: sưng phù chân, suy yếu và đau ở chân, ở hông và cột sống, giãn tĩnh mạch, lở loét ở các chi, toàn thân suy nhược, đặc biệt là suy nhược đường ruột, nôn oẹ, ăn không ngon miệng, có khi lại đói cồn cào, tiêu hoá không tốt, chứng ưu uất, cùng các bệnh phổi do bụi bậm và không khí xấu của công xưởng gây nên, v.v. và v.v.. Về mặt này, nên chú ý đặc biệt đến những bản báo cáo về công xưởng ở Gla-xgô và Man-se-xtơ. Những chứng bệnh ấy vẫn hãy còn sau khi thi hành đạo luật năm 1834, và đến bây giờ chúng vẫn còn tiếp tục phá hoại sức khoẻ của giai cấp công nhân. Điều người ta quan tâm chỉ là làm cho tính tham lợi nhuận một cách thô bỉ của giai cấp tư sản được khoác một hình thức văn minh giả nhân giả nghĩa, làm cho chủ xưởng do bị đạo luật ấy hạn chế mà không làm được những việc đê mạt quá lộ liễu, để giúp cho họ càng có nhiều lý do lừa bịp hơn, và vỗ ngực tự phụ về cái chủ nghĩa nhân đạo giả dối của họ - chỉ có thế thôi! Nếu ngày nay lại cử một tiểu ban mới để điều tra về công xưởng thì tiểu ban ấy sẽ thấy tình hình phần lớn vẫn như xưa. Còn việc cưỡng bức đi học mà đạo luật đề ra không có chuẩn bị gì trước, thì chưa có tác dụng gì, vì chính phủ không đồng thời nghĩ cách xây dựng những nhà trường tốt. Bọn chủ xưởng đã thuê một số công nhân mất năng lực lao động để giữ trẻ mỗi ngày hai tiếng đồng hồ, cho như vậy là đã theo đúng pháp luật, những trẻ không học được gì hết. Ngay đến cả những báo cáo của các thanh tra công xưởng, - dù họ chỉ tự hạn chế ở chỗ thi hành trực tiếp phận sự của họ, tức là kiểm tra xem chủ xưởng có tuân theo đạo luật về công xưởng không, - cũng đưa ra nhiều tài liệu đủ chứng minh rằng những tệ hại trên kia vẫn tiếp tục tồn tại không thể tránh được. Các viên thanh tra Hoóc-nơ và Xan-đớc, trong những bản báo cáo tháng Mười và tháng Chạp 1843 của họ, có nói rằng ở trong các ngành có thể không dùng trẻ con hoặc có thể thay chúng bằng những người lớn thất nghiệp, nhiều chủ xưởng vẫn bắt công nhân làm việc mỗi ngày 14-16 giờ, thậm chí nhiều hơn. Ở những nơi ấy, người ta gặp rất nhiều những người vừa mới vượt quá tuổi được pháp luật bảo hộ. Nhiều chủ xưởng khác thì có ý vi phạm đạo luật, họ rút ngắn giờ nghỉ, bắt trẻ con làm việc quá thời gian pháp luật cho phép, sẵn sàng ra toà án chịu phạt, vì họ có bị phạt cũng chẳng thấm gì, so với món lợi mà họ thu được do vi phạm pháp luật. Nhất là hiện nay, trong lúc đang kinh doanh tốt, thì chủ xưởng lại càng bị cám dỗ mạnh.

Nhưng việc cổ động cho dự luật mười giờ trong công nhân không dừng lại. Năm 1839, việc tuyên truyền ấy lại sôi nổi lên, khi lên thay Xát-lơ đã quá cố ở hạ nghị viện là huân tước Ê-sli và ở ngoài nghị viện là Ri-sác Ô-xtơ-lơ, cả hai người này đều thuộc đảng To-ri. Nhất là Ô-xtơ-lơ luôn cổ động trong những khu công nhân, và đã nổi tiếng ngay từ khi Xát-lơ còn sống, và đã trở thành người được công nhân đặc biệt yêu mến. Họ vẫn gọi ông là "ông vua già tốt bụng" của họ, "ông vua của trẻ con công xưởng"; ở trong tất cả các khu công xưởng, không có đứa trẻ con nào là không biết ông, không quý trọng ông, và mỗi khi ông đến thành phố thì không có em nào là không cùng với các em khác họp thành đoàn người đi đón ông. Ô-xtơ cũng kiên quyết phản đối đạo luật mới về người nghèo; do đó, ông bị một người thuộc đảng Vích nào đó tên là Toóc-nơ-hin đưa vào nhà tù nợ, vì ông đã làm quản lý cho những trang trại của hắn, và đã nợ hắn một món tiền. Những người thuộc đảng Vích đã nhiều lần bảo ông là chỉ cần ông đừng công kích đạo luật về người nghèo nữa thì họ sẽ trả món nợ cho ông và nói chung sẽ bảo lĩnh cho ông. Nhưng vô hiệu! Ông cứ ở tù, và hàng tuần còn phát ra những tờ "Fleetpapers"109 chống chế độ công xưởng và đạo luật về người nghèo.

Chính phủ của đảng To-ri lên nắm chính quyền năm 1841 lại chú ý đến các đạo luật về công xưởng. Bộ trưởng Bộ nội vụ, ngài Giêm-xơ Grê-hêm, năm 1843 đã đưa ra một dự luật hạn chế thời gian lao động của trẻ con xuống 6 giờ rưỡi và tăng cường việc cưỡng bách đi học; những điểm chủ yếu của dự luật ấy là yêu cầu lập những trường học tốt hơn. Tuy nhiên, dự luật ấy không được thông qua do sự cuồng tín của những người không theo quốc giáo - những người phản đối giáo hội chính thức: mặc dù giáo dục cưỡng bách không yêu cầu con em của những người không theo quốc giáo phải học chương trình giáo dục tôn giáo, nhưng nhà trường phải chịu sự kiểm soát của giáo hội chính thức và vì kinh thánh là sách đọc cho mọi người, do đó tôn giáo đã trở thành cơ sở của toàn bộ nền giáo dục: cho nên những người không theo quốc giáo cho đó là nguy hiểm cho mình. Bọn chủ xưởng và nói chung là những người thuộc Đảng tự do đều ủng hộ họ; công nhân bị chia rẽ về vấn đề giáo hội nên dửng dưng; phe phản đối dự luật, mặc dù không được sự ủng hộ ở những thành phố công xưởng lớn như Xôn-phoóc và Xtốc-poóc, mặc dù ở những thành phố khác như Man-se-xtơ, thì vì sợ công nhân, họ chỉ công kích mấy điểm của dự luật, nhưng họ vẫn thu thập được chữ ký của gần hai triệu người cho những đơn thỉnh nguyện của họ, điều ấy làm cho Grê-hêm hoảng sợ đến nỗi phải rút dự luật của ông về.

Năm sau, Grê-hêm đã gạch đi tất cả những điều khoản về nhà trường, và để thay thế những đề nghị trước kia, ông chỉ đề nghị hạn chế thời gian lao động của trẻ con từ tám đến mười ba tuổi xuống mỗi ngày 6 giờ rưỡi và để cho chúng hoàn toàn nghỉ cả buổi sáng hoặc buổi chiều; hạn chế thời gian lao động của thiếu niên từ 13 đến 18 tuổi và của toàn thể nữ công nhân là 12 giờ; ngoài ra, ông còn đề nghị thực hành một số hạn chế cho chủ xưởng không giở được những hành vi lẩn tránh pháp luật thường xảy ra trước kia. Ông vừa đưa ra đề nghị ấy thì việc cổ động đòi ngày lao động mười giờ lại lên cao. Ô-xtơ-lơ được ra tù, vì được bạn bè giúp đỡ và công nhân quyên góp, đã trả được hết nợ; ông đem toàn lực lao vào cuộc vận động ấy. Số người ủng hộ dự luật mười giờ ở Hạ nghị viện đã tăng lên, hàng loạt đơn thỉnh nguyện từ các địa phương gửi về lại đưa đến cho bản dự luật sự ủng hộ mới. Ngày 19 tháng Ba 1844, với đa số là 179 phiếu chống 170 phiếu, huân tước Ê-sli đã thành công trong việc thông qua một quyết nghị quy định rằng danh từ "đêm" trong dự luật về công xưởng là chỉ khoảng thời gian từ sáu giờ chiều đến sáu giờ sáng hôm sau; vì vậy, do chỗ cấm làm đêm cho nên ngày lao động không thể vượt quá mười hai giờ, nếu tính cả giờ nghỉ vào trong đó, và thực tế chỉ là mười giờ, nếu không tính giờ nghỉ. Nhưng nội các không đồng ý như vậy. Ngài Giêm-xơ Grê-hêm liền lấy việc nội các từ chức để đe doạ, và trong lần biểu quyết sau về một điều khoản của dự luật, Hạ nghị viện với đa số rất nhỏ, đã bác cả ngày lao động mười giờ lẫn ngày lao động mười hai giờ! Sau đó, Grê-hêm và Pin tuyên bố rằng hai ông sẽ đưa ra một dự luật mới, và nếu lại không được thông qua, thì hai ông sẽ từ chức. Bản dự luật mới ấy vốn là bản dự luật mười hai giờ cũ, chẳng qua chỉ sửa đổi hình thức một chút mà thôi, nhưng cũng vẫn cái Hạ nghị viện ấy hồi tháng Ba đã bác những điểm chủ yếu của đạo luật, thì bây giờ, vào tháng Năm lại thông qua đạo luật ấy với nguyên văn không thay đổi tí gì! Nguyên nhân của việc ấy là đa số những người ủng hộ đạo luật mười giờ đều thuộc đảng To-ri, họ thà chịu để đạo luật đổ chứ không muốn nội các đổ. Nhưng, vô luận vì nguyên nhân gì, việc biểu quyết hai lần trước sau mâu thuẫn ấy của Hạ nghị viện cũng vẫn làm cho nó mất hết uy tín với toàn thể công nhân, và làm cho chủ trương cần phải cải tổ hạ nghị viện của phái Hiến chương được chứng minh rõ rệt. Ba hạ nghị sĩ, trước kia bỏ phiếu phản đối nội các, bây giờ lại bỏ phiếu ủng hộ, do đó đã cứu vãn được nội các. Trong tất cả mọi lần bỏ phiếu, số đông phái đối lập đều bỏ phiếu ủng hộ nội các, còn những người thuộc đảng cầm quyền thì lại bỏ phiếu phản đối nội các1). Như vậy, đề nghị của Grê-hêm về hai loại công nhân lao động 6 giờ rưỡi và 12 giờ đã có hiệu lực pháp luật, nhờ đó và đồng thời cũng nhờ những hạn chế về sự giữ công nhân ở lại làm thêm để bù vào những trường hợp mất thì giờ (trong trường hợp hỏng máy, hoặc vì nước đóng băng, hay vì hạn hán mà sức nước không đủ) và một số hạn chế không quan trọng khác, mà hầu như không thể kéo dài được ngày lao động quá 12 giờ. Không còn nghi ngờ rằng trong một thời gian ngắn nữa, dự luật mười giờ sẽ được thông qua. Đương nhiên hầu hết các chủ xưởng đều phản đối nó, chưa chắc tìm được trong họ được đến mười người tán thành; họ dùng đủ mọi thủ đoạn chính đáng và không chính đáng để chống lại đạo luật mà họ ghét cay ghét đắng ấy, nhưng điều đó chẳng giúp ích gì cho họ mà chỉ càng khơi sâu thêm lòng căm thù của công nhân đối với họ. Mặc dù thế nào, đạo luật ấy vẫn sẽ được thông qua. Công nhân muốn cái gì thì họ có thể giành được cái ấy, và mùa xuân năm ngoái họ đã tỏ ra rằng họ thực sự muốn có dự luật mười giờ. Những luận cứ về kinh tế chính trị học của chủ xưởng là "luật mười giờ sẽ làm tăng chi phí sản xuất, do đó công nghiệp Anh sẽ không đủ sức chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài, vì vậy, tiền lương nhất định sẽ phải hạ xuống, v.v. đương nhiên, những luận cứ ấy đúng một nửa, nhưng điều đó chỉ chứng minh rằng uy lực của công nghiệp Anh chỉ có thể giữ vững được bằng cách dựa vào sự đối đãi dã man với công nhân, đưa vào sự huỷ hoại sức khoẻ, khinh thường sự phát triển của cả nhiều thế hệ về các mặt xã hội, thể chất và tinh thần. Đành rằng nếu vấn đề không đi xa hơn dự luật mười giờ thì nước Anh sẽ có nguy cơ bị phá sản; nhưng đạo luật ấy tất sẽ kéo theo những biện pháp khác và những biện pháp này nhất định sẽ làm cho nước Anh đi vào con đường hoàn toàn khác với con đường mà hiện nay nó đang đi, cho nên đạo luật ấy là một sự tiến bộ.

Bây giờ chúng ta hãy xem một mặt khác của chế độ công xưởng mà những hậu quả của nó khó khắc phục bằng những biện pháp pháp luật hơn những bệnh tật mà chế độ ấy gây ra. Chúng ta đã nói chung về tính chất của lao động công xưởng, hơn nữa, đã nói khá tỉ mỉ để có thể từ đó rút ra những kết luận rộng rãi hơn. Trông coi máy, nối sợi đứt - tất cả những việc đó không đòi hỏi đến trí óc của người công nhân, nhưng đồng thời nó cũng có đặc điểm là cản trở họ suy nghĩ đến những việc khác. Chúng ta còn thấy thứ lao động ấy không cần đến sự gắng sức của các bắp thịt và không cho phép tự do hoạt động thể lực. Cho nên đó không phải là một thứ lao động chân chính, đó là một hành động đơn điệu nguy hại nhất và làm cho người ta mệt mỏi nhất trên đời. Nhưng công nhân công xưởng bị bắt buộc phải để cho toàn bộ thể lực và trí lực của mình tiêu phí trong hành động đơn điệu ấy; số phận của anh ta là phải chịu để cho sự buồn chán hành hạ suốt ngày, từ năm anh ta lên tám tuổi. Ngoài ra, anh ta không được lơ đễnh một phút nào: máy hơi nước chạy cả ngày; bánh xe, dây cu-roa và cọc sợi suốt ngày kêu rầm rầm bên tai, nếu chỉ nghỉ một tí là tên đốc công cầm sổ phạt đã xuất hiện ngay lập tức ở sau lưng. Cái hình phạt khắc nghiệt tự chôn sống trong công xưởng, bất cứ lúc nào cũng phải liên tục theo dõi cái máy làm việc không biết mệt mỏi ấy, là một thứ khổ hình tàn khốc nhất đối với người công nhân. Loại hình phạt ấy làm cho người công nhân suy nhược và ngu muội nhất về thể xác cũng như về tinh thần. Quả thật khó nghĩ được một cách nào khác có thể làm cho người ta ngu muội hơn là lao động ở công xưởng, và nếu như người công nhân công xưởng không những giữ được lý trí của mình, mà còn làm cho nó phát triển hơn người khác, thì đó chỉ vì họ đã đứng dậy chống lại vận mệnh của mình, chống lại giai cấp tư sản; - đó là tình cảm duy nhất và tư tưởng duy nhất mà họ còn giữ được trong thời gian lao động. Nếu sự phẫn nộ của người công nhân đối với giai cấp tư sản còn chưa trở thành tình cảm mạnh nhất, thì anh ta ắt sẽ uống rượu và nói chung sẽ làm những việc mà người ta quen gọi là truỵ lạc. Theo ý kiến của uỷ viên tiểu ban chính thức là bác sĩ Hô-ki-xơ, thì riêng thể lực suy yếu và những bệnh tật do chế độ công xưởng gây ra đã đủ làm cho người công nhân không thể tránh khỏi truỵ lạc. Vả lại truỵ lạc phải là tất yếu khi mà thêm vào đó còn có sự suy nhược về tinh thần và tất cả những điều kiện làm cho từng người công nhân bị truỵ lạc mà chúng ta đã nói đến ở trên! Cho nên không có gì lạ khi chính ở những thành phố công xưởng, thói uống rượu và tình dục thái quá đã đạt đến quy mô mà tôi đã mô tả trên kia1)

Sau nữa, xiềng xích nô lệ mà giai cấp tư sản dùng để trói buộc giai cấp vô sản thì bất luận ở đâu cũng không lộ rõ bằng trong chế độ công xưởng. Ở đây, tất cả mọi tự do về mặt pháp luật cũng như về mặt thực tế đều không còn nữa. Người công nhân phải đến công xưởng buổi sáng sớm vào năm giờ rưỡi. Đến chậm vài phút thì bị phạt; đến chậm mười phút thì dứt khoát không được phép vào cho đến hết giờ nghỉ ăn sáng, như vậy là anh ta mất một phần tư ngày công (mặc dù trong mười hai giờ, anh ta chỉ không làm việc có 2 giờ rưỡi). Bất luận ăn, uống, ngủ, anh ta đều phải theo mệnh lệnh. Đến cả thời gian đi tiểu tiện, đại tiện cũng ít đến mức không thể ít hơn được nữa. Dù anh ta đi từ nhà đến công xưởng phải mất nửa giờ hay một giờ, chủ xưởng cũng chẳng quan tâm tới. Tiếng chuông chuyên chế luôn luôn lôi anh ta khỏi giấc ngủ, khỏi bữa ăn sáng hay bữa ăn trưa.

Khi đã vào chính trong công xưởng thì tình hình như thế nào? Ở đây, chủ xưởng là nhà lập pháp tuyệt đối. Hắn ban hành quy chế công xưởng tuỳ theo ý muốn; hễ muốn là tự ý sửa chữa và bổ sung bản quy chế tự hắn đặt ra; dù cho nó có thêm những điều phi lý nhất thì toà án cũng vẫn nói với công nhân rằng:

"Chính các anh là chủ bản thân mình kia mà, nếu các anh không thích thì không ai bắt phải ký hợp đồng, nhưng bây giờ các anh đã tự nguyện ký hợp đồng ấy rồi thì các anh phải thực hiện nó".

Thế là công nhân lại còn phải chịu thêm sự chế nhạo của viên thẩm phán hoà giải mà chính bản thân hắn cũng thuộc giai cấp tư sản, và chịu sự chế giễu của pháp luật, cũng do giai cấp tư sản đặt ra. Nhưng việc kết án như vậy của toà án là việc rất thường gặp. Tháng Mười 1844, công nhân công xưởng Ken-nơ-đi ở Man-se-xtơ đã bãi công. Chủ xưởng liền kiện họ, vin vào một quy chế đã niêm yết trong công xưởng: không cho phép hai người công nhân trở lên, trong cùng một phân xưởng, đồng thời bỏ công việc! Thẩm phán cho chủ xưởng là làm đúng, và dùng câu nói dẫn ở trên kia để trả lời công nhân (báo "Manchester Guardian" ngày 30 tháng Mười). Những quy chế của công xưởng thường như thế nào - các bạn hãy tự phán đoán lấy: 1) cổng ra vào công xưởng đóng sau khi bắt đầu làm việc 10 phút, và không người nào được vào xưởng nữa trước bữa ăn sáng; người nào vắng mặt trong thời gian ấy thì cứ theo số máy người ấy trông coi mà phạt mỗi máy là 3 pen-ni; 2) trong thời gian khác, người công nhân dệt (dệt bằng máy có động cơ), nếu vắng mặt trong lúc máy đang chạy thì cứ theo số máy người ấy trông coi mà phạt mỗi máy, mỗi giờ 3 pen-ni; trong thời gian làm việc, người nào tự tiện rời khỏi phân xưởng mà không được đốc công cho phép thì cũng bị phạt 3 pen-ni; 3) người công nhân dệt không tự mình mang theo kéo thì bị phạt mỗi ngày 1 pen-ni; 4) tất cả mọi thứ như con thoi, bàn chải, bình dầu, bánh xe, kính cửa sổ, v.v. nếu bị hỏng hay vỡ thì công nhân dệt phải đền; 5) công nhân dệt không được bỏ việc nếu không báo trước một tuần; chủ xưởng có thể thải bất cứ người công nhân nào, vì làm việc không tốt hoặc vì cư xử không đúng mà không phải báo trước; 6) người công nhân nào bị bắt quả tang nói chuyện, hát hoặc huýt sáo miệng thì bị phạt 6 pen-ni; người nào trong lúc làm việc mà rời khỏi chỗ của mình cũng phạt 6 pen-ni 1). - Tôi còn có trong tay một bản quy chế khác, theo bản này thì người nào đến chậm ba phút bị trừ mười lăm phút tiền công, còn đến chậm hai mươi phút bị trừ một phần tư ngày công; người nào vắng mặt trước bữa ăn sáng, vào ngày thứ hai thì bị phạt 1 si-linh, vào những ngày khác thì bị phạt 6 pen-ni v.v.. Đó là quy chế của xí nghiệp Phi-ních, phố Giớc-xi ở Man-se-xtơ. - chắc có người nói rằng những loại quy chế ấy rất cần thiết để đảm bảo cho các thao tác khác nhau có thể phối hợp tốt trong một công xưởng lớn có thiết bị đầy đủ, rằng ở đây cũng như ở quân đội, thứ kỷ luật nghiêm ngặt đó là cần thiết. Thì cũng cứ cho là thế, nhưng một chế độ xã hội mà không thể tồn tại được nếu không có sự thống trị bạo ngược ô nhục ấy thì gọi là chế độ xã hội gì? Trong hai điều này phải chọn một: hoặc là lấy mục đích để bào chữa cho thủ đoạn, hoặc là lấy sự ti tiện của thủ đoạn mà chứng minh rằng mục đích là  ti tiện. Phàm người đã đi lính đều biết mùi sống dưới kỷ luật quân sự là thế nào dù chỉ trong một thời gian ngắn. Thế mà những người công nhân ấy, cả về tinh thần lẫn thể xác, đã bắt buộc phải sống dưới ngọn roi từ năm nên chín tuổi cho đến tận lúc chết. Họ còn nô lệ hơn những người da đen nước Mỹ, vì họ bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Thế mà người ta vẫn đòi họ sống, suy nghĩ và cảm giác như con người! Đúng, họ chỉ có thể được như vậy nếu họ nghiến răng căm thù những kẻ áp bức họ, căm thù cái chế độ làm cho họ rơi vào tình cảnh ấy và biến họ thành những cái máy! Nhưng còn có việc nhục nhã hơn: theo lời chứng phổ biến thu được trong công nhân thì có nhiều chủ xưởng dùng những biện pháp hà khắc tàn khốc nhất để bòn rút những khoản tiền phạt giáng vào đầu công nhân, cướp giật từng xu của những người vô sản xác xơ để làm tăng thêm lợi nhuận của chúng. Li-sơ còn xác nhận rằng, buổi sáng khi công nhân đến công xưởng, họ thường thấy đồng hồ của xưởng nhanh lên mười lăm phút, do đó cửa lớn đã khoá khiến họ không vào được, trong khi đó tên nhân viên văn phòng tay cầm sổ phạt đi qua các phân xưởng và biên phạt một số lớn công nhân vắng mặt. Một lần, chính mắt Li-sơ đã trông thấy 95 công nhân đứng trước cổng khoá của công xưởng; đồng hồ của xưởng này thì buổi chiều chậm mười lăm phút, buổi sáng nhanh mười lăm phút so với đồng hồ thành phố. Bản báo cáo về công xưởng cũng thuật lại những sự việc tương tự. Có công xưởng, sau khi bắt đầu làm việc, thì gạt kim đồng hồ trở lại, cho nên thời gian lao động dài hơn so với thời gian quy định, nhưng không phải vì vậy mà công nhân được thêm tí tiền công nào. Có công xưởng bắt công nhân làm thêm hẳn mười lăm phút. Lại có công xưởng có một cái đồng hồ thường và một cái đồng hồ máy ghi con số những vòng quay của trục chính. Nếu trục chạy chậm thì người ta làm việc theo cái đồng hồ máy, cho đến lúc máy quay đủ con số những lần quay đã định trong mười hai giờ đồng hồ; nếu công việc làm nhanh và số lần quay của máy đã đạt mức trước thời gian quy định thì công nhân vẫn phải làm đủ mười hai giờ. Có một người làm chứng nói thêm rằng ông ta quen mấy cô con gái kiếm được đồng lương khá, do làm thêm giờ, nhưng họ thà đi làm đĩ chứ không muốn chịu cái chế độ bạo ngược ấy (dẫn ra từ Đrin-cơ-oa-tơ, Văn kiện, tr. 80). - Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề tiền phạt. Li-sơ kể lại rằng ông ta nhiều lần thấy nhiều nữ công nhân có mang gần đẻ vì ngồi nghỉ một lát trong thời gian làm việc, mà bị phạt 6 pen-ni, - sự phạt tiền do làm không tốt cũng được tuỳ tiện thi hành. Những hàng hoá đến kho rồi mới được kiểm tra, và người quản lý khi kiểm tra xong cứ việc ghi khoản phạt vào sổ, thậm chí không cần gọi người công nhân đến; người công nhân mãi đến lúc đốc công trả lương cho mới biết là mình bị phạt, mà lúc ấy thì hàng hoá có lẽ đã bán đi rồi hoặc ít nhất cũng đã được cất đi rồi. Li-sơ dẫn ra một bản ghi phạt tiền dài tới mười phút, và tổng số tiền phạt lên tới 35 pao xtéc-linh, 17 si-linh, 10 pen-ni. Ông nói rằng ở công xưởng có bản ghi phạt ấy, có một người quản lý khi vừa mới nhận việc đã bị thải vì biên phạt ít quá, làm cho thu nhập của xưởng mỗi tuần giảm đi 5 pao xtéc-linh (34 ta-le). ("Những sự thực không thể bác bỏ được", tr. 13 - 17).

Tôi nhắc lại một lần nữa rằng tôi cho Li-sơ là một người hoàn toàn có thể tin cậy được và không biết nói dối.

Về nhiều mặt khác, công nhân cũng là nô lệ của chủ. Nếu lão chủ giàu có thích vợ hoặc con gái công nhân, nó chỉ cần ra lệnh hoặc ra hiệu là họ chẳng có cách gì chống cự được. Nếu chủ xưởng muốn có người ký tên vào đơn thỉnh nguyện nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, thì nó chỉ cần cho chuyển cái đơn thỉnh nguyện ấy vào công xưởng của nó là được. Nếu nó muốn đưa một người nào đó vào nghị viện thì nó cứ gọi tất cả những công nhân có quyền bầu cử đi bỏ phiếu, và, không kể họ muốn hay không, họ đều phải bỏ phiếu cho người tư sản. Nếu nó muốn được đa số trong một cuộc hội họp công cộng thì nó cho tan việc sớm nửa giờ và tìm sẵn cho họ chỗ ngồi ngay gần diễn đàn để có thể kiểm soát được họ.

Còn có hai biện pháp nữa để tăng cường đặc biệt sự nô dịch của chủ xưởng đối với công nhân, đó là truck-systemcottages-system. Công nhân gọi cách trả công lao động bằng hàng hoá là truck, và cách trả công ấy trước kia rất thịnh hành ở Anh. "Để tiện lợi cho công nhân, và để tránh cho họ khỏi bị tiểu thương nâng giá cao", chủ xưởng đã mở một cửa hàng riêng bán tất cả các loại hàng hoá. Và, để ngăn cản không cho công nhân đến các cửa hàng khác bán rẻ hơn, vì giá hàng trong tommy-shop 1* thường đắt hơn các nơi khác từ 25 đến 30%, khi trả tiền công, người ta không trả bằng tiền mặt mà trả bằng một cái phiếu mua hàng chỉ có giá trị ở cửa hàng của công xưởng. Chế độ ô nhục ấy đã gây công phẫn rộng khắp, cho nên năm 1831 đã công bố Truck Act, đạo luật ấy đã tuyên bố cách trả lương bằng hàng hoá cho đa số công nhân là vô hiệu lực và phi pháp, ai làm như vậy sẽ bị phạt tiền. Nhưng cũng như đa số các đạo luật ở Anh, đạo luật ấy chỉ có hiệu lực thực tế ở những địa phương cá biệt. Đương nhiên, ở các thành phố thì luật ấy được chấp hành tương đối đúng đắn, nhưng ở nông thôn thì chế độ cũ vẫn được áp dụng đầy đủ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngay cả ở thành phố Lê-xtơ, chế độ ấy cũng vẫn còn lưu hành nhiều. Trong tay tôi có hàng chục bản án về vi phạm luật ấy, từ tháng Mười một 1843 đến tháng Sáu 1844, những bản án ấy một phần được đăng trên báo "Manchester Guardian", một phần được đăng trên báo "Northern Star" 110. Đương nhiên chế độ ấy bây giờ không được thực hành công khai như trước nữa; công nhân phần lớn được lĩnh tiền mặt, nhưng chủ xưởng vẫn có đủ biện pháp cưỡng bách công nhân phải mua hàng ở cửa hàng của xưởng chứ không được mua ở chỗ khác. Chính vì thế mà hiện nay rất khó mà chộp được loại chủ xưởng phạm pháp ấy; chỉ cần họ cấp tiền tận tay cho công nhân là họ có thể che giấu hành động tội lỗi của họ dưới sự che chở của pháp luật. Báo "Northern Star" số ra ngày 27 tháng Tư 1844 đăng bức thư của một công nhân ở Hôn-mphớc, gần Hát-đơ-xphin thuộc Y-oóc-sia. Bức thư ấy nói đến một chủ xưởng tên là Bau-ơ-xơ:

"Người ta sẽ kinh ngạc ngay khi thấy cái chế độ trả lương bằng hàng hoá chết tiệt ấy lại có thể tồn tại được một cách đại quy mô như ở Hôn-mphớc, mà không một ai có đủ can đảm chấm dứt sự lạm dụng ấy. Ở đây một số đông thợ dệt thủ công thật thà đã chịu khổ sở vì cái chế độ chết tiệt ấy. Đây là ví dụ trong bao nhiêu ví dụ về hành động của phái mậu dịch tự do1) khoan dung ấy. Ở đây có một chủ xưởng đối đãi với những thợ dệt đáng thương của nó tàn ác đến nỗi cả khu gần đấy không ai là không chửi rủa nó. Một tấm hàng dệt trị giá từ 34 đến 36 si-linh, nó chỉ trả 20 si-linh bằng tiền mặt, còn bao nhiêu thì nó trả bằng dạ hoặc bằng quần áo may sẵn, và định giá đắt hơn ở những cửa hàng khác 40 - 50%, mà lại thường là những hàng đã mục. Những tờ báo "Mercury" 2) của phái mậu dịch tự do lại nói rằng: công nhân không bị bắt buộc phải nhận hàng hoá, điều đó hoàn toàn tuỳ ý họ. Ôi, đúng thế, nhưng họ không nhận thì phải chết đói. Nếu muốn lấy trên 20 si-linh bằng tiền mặt thì khi lĩnh sợi dọc, họ phải chờ từ 8 đến 14 ngày; nếu họ lĩnh 20 si-linh kèm thêm hàng hoá, thì họ luôn luôn có đủ sợi dọc cho mình. Tự do buôn bán là thế đấy. Huân tước Brum nói rằng khi còn trẻ chúng ta phải để dành một chút để đến lúc già khỏi phải đi xin cứu tế. Chúng tôi có thể để dành những thứ hàng mục nát ấy không? Nếu lời khuyên ấy không phải là do một vị huân tước nói ra, thì người ta phải cho rằng đầu óc con người ấy cũng mục nát như những hàng hoá mà người ta trả cho lao động của chúng tôi. Hồi các báo còn xuất bản phi pháp không nộp tiền đăng ký thì còn có nhiều người tố cáo việc ấy với cảnh sát ở Hôn-mphớc, còn có những người như Blai-tơ, I-xtơ-vút, v.v., nhưng bây giờ họ đi đâu mất cả? Đương nhiên bây giờ tình hình đã khác: chủ xưởng của chúng tôi đã thành người thuộc phái mậu dịch tự do ngoan đạo rồi: mỗi ngày chủ nhật hắn ta đi nhà thờ hai lần, và còn rất thành tâm đọc theo lời linh mục rằng: "Chúng con đã bỏ qua những việc đáng lẽ phải làm, và chúng con đã làm những việc đáng lẽ không nên làm, chúng con không đáng cứu vớt; nhưng hỡi đức Chúa từ bi, xin Người tha thứ cho chúng con" (lời cầu nguyện ở nhà thờ Anh). "Vâng, tha thứ cho chúng con đến ngày mai, để chúng con lại bắt đầu trả lương cho thợ dệt của chúng con bằng hàng hoá mục nát".

Chế độ cốt-ta-giơ thoạt nhìn thấy ít hại hơn nhiều, và nó diễn ra dưới hình thức ít khó chịu hơn nhiều, mặc dù tác dụng nô dịch của nó không kém gì chế độ trả lương bằng hàng hoá. Ở nông thôn, gần công xưởng thường thiếu nhà ở cho công nhân. Cho nên chủ xưởng thường phải xây dựng nhà ấy, và nó cũng rất vui lòng làm như vậy, vì tư bản bỏ vào xây dựng những nhà ấy sẽ mang lại lợi nhuận rất lớn. Nếu nói chung những chủ nhà của công nhân hàng năm có thể thu được 6% toàn bộ tiền vốn thì có thể tính là thứ nhà ở ấy sẽ đem lại cho chủ xưởng món lợi nhuận gấp đôi, bởi vì chỉ cần công xưởng không đóng cửa là nó vẫn có người thuê nhà, mà là những người trả tiền đúng kỳ hạn. Như vậy hắn khỏi phải chịu hai loại thiệt hại chủ yếu mà các chủ nhà khác có thể phải chịu: những cốt-ta-giơ ấy không bao giờ bỏ trống và nó không gặp nguy cơ không thu được tiền nhà. Thế mà tiền thuê nhà thường vẫn tính cả những sự thiệt hại có thể xảy ra vào đấy, cho nên, nếu chủ xưởng cũng lấy tiền nhà bằng các chủ nhà khác, thì nó có thể bòn rút ở công nhân món lợi nhuận bằng 12 - 14% số vốn đầu tư. Chủ xưởng cho công nhân thuê nhà đã kiếm lợi hơn, thậm chí gấp đôi so với những người cạnh tranh, và đồng thời khiến những người ấy căn bản không thể cạnh tranh được với nó, đương nhiên như thế là bất công rồi. Song rút cái lợi ấy từ túi tiền của giai cấp không có một tí gì, phải quý từng xu thì lại còn bất công bội phần; nhưng đối với chủ xưởng thì việc ấy quen như cơm bữa: toàn bộ tài sản của hắn là bòn rút ở công nhân. Nhưng sự bất công ấy lại trở thành đê tiện khi chủ xưởng lấy việc doạ đuổi ra khỏi xưởng để cưỡng bức công nhân phải ở nhà của nó, phải trả tiền nhà cao hơn tiền thuê bình thường, thậm chí phải trả tiền nhà mà họ không ở, đó là việc thường xảy ra. Báo "Sun" 1) của Đảng tự do đã trích dẫn ở báo "Halifax Guardian" và xác nhận rằng ở A-xtơn - An-dơ - Lai-nơ, Ô-đêm, Rô-sđên, v.v., nhiều chủ xưởng bắt hàng trăm công nhân của chúng trả tiền thuê nhà không kể là họ có ở hay không. Chế độ cốt-ta-giơ rất thịnh hành trong những công xưởng ở các vùng nông thôn; nó đã đẻ ra những xóm thợ hoàn chỉnh, và vì trong đa số trường hợp rất ít hoặc không có người cạnh tranh, cho nên chủ xưởng không việc gì phải định tiền nhà theo tiêu chuẩn chung, mà chỉ tuỳ theo ý muốn. Khi có xung đột với công nhân, thì chế độ cốt-ta-giơ ấy lại cho chủ xưởng quyền lực to lớn biết chừng nào! Nếu công nhân bãi công thì nó liền đuổi họ ra khỏi nhà, và thời hạn dời đi chỉ có một tuần lễ. Quá kỳ hạn ấy công nhân không những không có bánh ăn, mà cũng không có nhà ở, và biến thành người lang thang mà theo pháp luật thì sẽ bị tống vào nhà giam một cách tàn nhẫn trong một tháng.

Chế độ công xưởng là như vậy đó! Tôi đã cố mô tả chế độ ấy hết sức tường tận trong khuôn khổ sách này cho phép và cố hết sức vô tư trong khi miêu tả những sự tích anh hùng của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh của nó chống công nhân tay không, - những sự tích mà nói đến là không người nào có thể dửng dưng được, vì dửng dưng là tội ác. Chúng ta hãy so sánh tình cảnh của người Anh tự do năm 1845 với tình cảnh của người nông nô Dắc-den dưới sự áp bức của bọn quý tộc Noóc-măng năm 1145. Người nông nô là glebae adscriptus, bị trói buộc vào ruộng đất; người công nhân tự do cũng bị trói buộc như vậy vào chế độ cốt-ta-giơ. Người nông nô phải hiến cho ông chủ cái jus primae noctis, quyền hưởng đêm đầu tiên; người công nhân tự do không những phải hiến cho chủ cái quyền hưởng đêm đầu tiên, mà cả cái quyền hưởng mọi đêm. Người nông nô không có quyền tậu tài sản, tất cả mọi cái họ kiếm được, địa chủ có thể lấy đi; người công nhân tự do cũng không có tài sản, anh ta không tậu được tài sản vì có sự cạnh tranh. Chủ xưởng đã làm những việc mà chính người Noóc-măng không làm; thông qua chế độ trả lương bằng hàng hoá, chủ xưởng hàng ngày lại xâm chiếm cả những thứ mà công nhân trực tiếp dùng để duy trì cuộc sống. Quan hệ giữa nông nô và địa chủ đã được quy định bằng pháp luật được người ta tuân theo vì phù hợp với tập tục, đồng thời được quy định bởi bản thân tập tục; quan hệ giữa người công nhân tự do và ông chủ cũng được pháp luật quy định, nhưng những pháp luật ấy không được tuân theo, vì không phù hợp với tập tục, và cũng không phù hợp với lợi ích của chủ. Địa chủ không thể bắt nông nô tách rời ruộng đất, không thể bán nông nô mà không bán ruộng đất, và vì tất cả ruộng đất hầu như không thể mua bán được và lúc đó chưa có tư bản cho nên địa chủ hầu như không thể bán được nông nô: giai cấp tư sản hiện đại thì lại buộc công nhân phải tự bán mình. Người nông nô là nô lệ của mảnh đất chôn rau cắt rốn của họ; người công nhân là nô lệ của những tư liệu sinh hoạt cần thiết nhất và của đồng tiền dùng để mua những tư liệu ấy. Cả hai hạng người ấy đều là nô lệ của vật. Sự sinh tồn của người nông nô được chế độ xã hội phong kiến đảm bảo; trong chế độ xã hội ấy, mỗi người đều có vị trí nhất định, người công nhân tự do thì lại không được đảm bảo chút nào, bởi vì họ chỉ có một vị trí nhất định trong xã hội khi nào giai cấp tư sản cần đến họ, nếu không thì họ chẳng được ai biết đến, bị xem như là không có họ trên đời này. Người nông nô hy sinh thân mình cho ông chủ trong chiến tranh; người công nhân công xưởng hy sinh thân mình cho chủ trong hoà bình. Chủ của nông nô là một kẻ dã man, nó coi nông nô như súc vật; chủ của công nhân là một kẻ văn minh, nó coi công nhân như cái máy. Nói tóm lại, tình cảnh của hai hạng người ấy giống nhau về đại thể; nếu có bên nào tình cảnh có xấu hơn một chút, thì đương nhiên là tình cảnh của người công nhân tự do. Hai hạng người ấy đều là nô lệ, chỉ có khác là sự nô dịch đối với hạng người thứ nhất không phải là giả đạo đức, mà là rõ ràng, công khai, còn sự nô dịch đối với hạng người thứ hai thì lại giả đạo đức, bị che giấu một cách xảo quyệt đối với bản thân họ và đối với người khác; đó là chế độ nô lệ có tính thần học xấu hơn chế độ nô lệ cũ. Những nhà từ thiện thuộc đảng To-ri đã đúng khi gọi những công nhân công xưởng là white slaven, người nô lệ da trắng. Nhưng chế độ nô lệ giả đạo đức được che giấu ấy thừa nhận quyền tự do dù chỉ là ngoài miệng; nó phải cúi đầu trước dư luận yêu chuộng tự do, và do đó, so với chế độ nô lệ cũ thì nó là một sự tiến bộ lịch sử: ít nhất nguyên tắc tự do đã được thừa nhận, và bản thân những người bị áp bức đã quan tâm đến việc làm thế nào cho nguyên tắc ấy được thực hiện.

Sau cùng, để kết luận, tôi trích dẫn mấy đoạn trong bài thơ nói lên cách nhìn của bản thân những công nhân đối với chế độ công xưởng. Bài thơ do E-đu-a P.Mi-đơ ở Bớc-minh- hêm viết, và đã diễn đạt được một cách đúng đắn tâm trạng phổ biến trong công nhân111.

Trên đời này có một tên vua dữ.

Không hiền lành như truyền thuyết nói đâu

Hắn làm bao nô lệ da trắng rơi đầu.

Tên vua ấy chính là Hơi nước.

 

Nó có một tay, tay bằng sắt,

Dù chỉ có một cánh tay thôi.

Nhưng sức mạnh không ai địch nổi

Có thể gieo tai hoạ cho triệu người.

 

Như tổ phụ hắn là Nô-lốc,

Gieo đau thương và tàn khốc nơi nơi.

Ghê gớm thực! Ruột gan đầy lửa bốc

Khát máu trẻ con, ăn cả thịt người.

 

Lũ mục sư của hắn hung tàn,

Khát máu người và rất đỗi tham lam,

Chuyên thống trị bằng bàn tay sắt,

Hút máu tươi đem đúc lấy tiền vàng.

 

Bọn quỷ sứ đạp nhân quyền nhân loại,

Để thờ thần ác quái là vàng,

Khổ nhục của đàn bà khiến chúng hân hoan,

Và nước mắt đàn ông làm chúng sướng.

 

Tiếng rên xiết của kẻ nghèo giẫy chết,

Chúng cho là âm nhạc nghe sướng tai;

Xương trắng cụ già, con trẻ, gái, trai,

Địa ngục của vua Hơi đầy rẫy.

 

Địa ngục chính ở thế gian này,

 Hơi nước khắp nơi gieo chết chóc

Làm linh hồn lẫn thể xác người ta

Bị huỷ hoại tiêu ma một lúc.

 

Đả đảo vua Hơi, tên vua hung ác!

Muôn triệu người lao động đứng lên!

Hãy trói chặt bàn tay nó lại

Cứu nhân dân khỏi hoạ diệt vong!

 

Dân chúng ta đùng đùng phẫn nộ,

Vứt xuống vực sâu lũ ký sinh đê tiện

Bụng nứt vàng, tay bê bết máu tươi,

Cùng với hung thần của chúng đi thôi 1)

 



1)  "The Cotton Manufacture of Great Britain". By Dr. A. Ure. 1836 [Bác sĩ A. I-u-rơ, "Công nghiệp bông sợi của Đại Bri-ten", 1836].

2)  "History of the Cotton Manufacture of Great Britain". By E. Baines, Esq. [E.Bai-nơ. "Lịch sử công nghiệp bông sợi của Đại Bri-ten"].

1)  "Stubborn Facts from the Factories", By a Manchester Operative. Published and dedicated to the Working Classes by Wm. Rashleigh. M. P. London, Ollivier, 1844, p. 28 ff. ["Những sự thực không thể bác bỏ về các công xưởng do một công nhân ở Man-se-xtơ vạch ra". Do nghị sĩ V.Ra-sli xuất bản và tặng giai cấp công nhân, Luân Đôn, Ôn-li-vơ, 1844, tr. 28 và các tr. sau].

1) Chẳng hạn ông Xai-mơn-xơ đã đặt câu hỏi như thế trong cuốn sách "Nghề thủ công và thợ thủ công".

1) Xem, chẳng hạn, bác sĩ I-u-rơ trong tác phẩm "Triết lý về công xưởng" của ông.

1)  "Tình hình tiền lương ở một số ngành của công nghiệp dệt bông ở Lan-kê-sia rất rắc rối: mấy trăm năm nam thanh niên từ hai mươi đến ba mươi tuổi làm công việc của thợ phụ nối sợi đứt hoặc công việc khác, nhiều nhất chỉ kiếm được 8 - 9 si-linh một tuần, thế mà một trẻ con 13 tuổi trong cùng công xưởng ấy thì lại kiếm được 5 si-linh một tuần, và các thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi thì kiếm được từ 10 đến 12 si-linh một tuần". Báo cáo của viên thanh tra công xưởng L. Hoóc-nơ, tháng Mười 1844.

1)  Năm 1843 trong những tai nạn mà bệnh viện Man-se-xtơ ghi được có 189 - một trăm tám mươi chín ! - vụ bị bỏng. Có bao nhiêu người chết thì không nói rõ.

1) Về con số phụ nữ đã kết hôn làm việc trong công xưởng thì qua tài liệu của bản thân các chủ xưởng, chúng ta có thể thấy: trong 412 công xưởng ở Lan-kê-sia, có 10 721 phụ nữ đã kết hôn làm việc; trong số chồng họ, chỉ có 5 314 người cũng làm việc trong công xưởng; 3 927 người làm công việc khác, 821 người không có việc làm, còn 659 người thì không rõ. Như vậy có thể thấy rằng mỗi công xưởng đều có hai hoặc ba người đàn ông phải sống nhờ vào lao động của vợ.

1* -  quyền hưởng đêm đầu tiên.

107 Đạo luật năm 1802 hạn chế thời gian làm việc của trẻ em học nghề là 12 giờ và cấm sử dụng những trẻ em đó làm những công việc ban đêm. Đạo luật này chỉ thi hành trong công nghiệp dệt bông và dệt len, nó không quy định việc thanh tra các công xưởng để đôn đốc mà trên thực tế bọn chủ xưởng cũng không tuân theo.

1) Trong phân xưởng kéo sợi của một công xưởng ở thành phố Lít-xơ, người ta đã đặt ghế ngồi (Drin-cơ-oa-tơ, Văn kiện, tr. 80).

1) Những nhà phẫu thuật (surgeons) là những nhà y học có học thức, như những thày thuốc có học vị (physicians), vì vậy không những họ chỉ chuyên làm nghiệp vụ phẫu thuật, mà còn làm công việc thực hành chữa bệnh nói chung. Do nhiều nguyên nhân thậm chí người ta còn thích tìm đến họ chữa bệnh.

1) Câu này không phải trích trong bản báo cáo về công xưởng.

1) Tất cả những sự thực đó đều trích dẫn trong bài diễn văn của huân tước Ê-sli (đọc tại phiên họp của Hạ nghị viện ngày 15 tháng Ba 1844).

108 Đạo luật năm 1919 cấm các xưởng kéo sợi và dệt bông thuê trẻ em dưới 9 tuổi cũng như cấm trẻ em và thiếu niên dưới 16 tuổi làm đêm; đối với những người đó cũng như người khác, ngày làm việc giới hạn là 12 giờ không kể thời gian ăn cơm; vị chủ xưởng có thể tuỳ tiện bố trí thời gian ấy cho nên ngày làm việc thực tế lên tới 14 giờ hoặc hơn thế nữa.

Đạo luật năm 1825 quy định thời gian ăn cơm mỗi ngày không được quá 1 giờ rưỡi để cho tổng số thời gian của mỗi ngày làm việc không vượt quá 13 giờ rưỡi.

Cũng như đạo luật năm 1819 , đạo luật năm 1825 không quy định việc thanh tra các công xưởng để đôn đốc và không được bọn chủ xưởng tuân theo.

109 "The Fleet papers" ("Bút ký Phlít") là tờ tuần báo được viết dưới dạng là một tập thư tín, do Ô-xtơ xuất bản trong nhà giam những người mắc nợ ở Phlít, từ 1841 đến 1844.

1) Người ta biết rằng trong cùng kỳ họp ấy, khi thảo luận vấn đề đường, Hạ nghị viện lại làm một việc khó coi là đầu tiên nó phản đối nội các, sau đó do việc dùng "cái roi chính phủ" nó lại ủng hộ nội các.

1) Chúng ta hãy nghe lời nói của một viên thẩm phán có thẩm quyền: "Nếu chúng ta lấy ảnh hưởng xấu của người Ai-rơ-len đem gộp với lao động không ngừng của toàn thể công nhân công nghiệp bông sợi thì chúng ta sẽ không lấy làm lạ về sự truỵ lạc đáng sợ của họ. Lao động kiệt sức thường xuyên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, nhất định không làm cho người ta phát triển được về mặt trí lực và đạo đức. Hành động đơn điệu buồn chán trong cái khổ dịch vô tận của lao động (drudgery), ở đó người ta lắp đi lắp lại không ngừng cùng một động tác một cách máy móc, khổ dịch ấy thực giống như khổ hình của Xi-di-phơ: sự nặng nhọc của lao động cũng giống như tảng đá lớn, hết chuyến này đến chuyến khác, rơi mãi xuống lưng người công nhân đã mệt lử. Trong điều kiện hoạt động liên tục của cùng một số bắp thịt thì đầu óc không thể thu được tri thức, cũng không thể suy nghĩ được, trí tuệ ngày càng bị cùn đi, trái lại, mặt thô lỗ nhất trong tính người thì lại được phát triển rất mạnh. Buộc người ta vào thứ lao động như thế, tức là bồi dưỡng những thú tính cho họ. Họ dần dần trở nên thờ ơ đối với mọi việc, vứt bỏ hết những khát vọng tự nhiên về tinh thần. Họ coi nhẹ những tiện nghi và những niềm vui cao thượng của cuộc sống, họ sống trong tình cảnh nghèo khổ bẩn thỉu, ăn uống thiếu thốn, và đem chút tiền lương cuối cùng của họ ra tiêu xài phung phí" (Bác sĩ Gi.J. P. Cây, cũng cuốn sách nói trên).

1)  "Những sự thực không thể bác bỏ được", tr. 9 và tr . sau.

1* - cửa hàng của công xưởng

110 "The Northern Star"  ("Sao Bắc đẩu") là một tờ tuần báo Anh, cơ quan trung ương của phái Hiến chương được sáng lập năm 1837, đình bản năm 1852, ban đầu xuất bản ở Lít-xơ và từ tháng Mười một 1844 thì xuất bản ở Luân Đôn. Người sáng lập và chủ bút là Ph. Ô' Côn-no, trong những năm 49 G. Hác-ni cũng đã biên tập báo này. Ph. Ăng-ghen viết bài cho báo này từ tháng Chín 1845 đến tháng Ba 1848.

1) là những người ủng hộ Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc.

2) "Leeds Mercury" là tờ báo của phái tư sản cấp tiến.

1) Báo "Sun" (báo hàng ngày xuất bản ở Luân Đôn) cuối tháng Mười một 1844.

111 Bản dịch ra tiếng Đức bài thơ của E. Mi-đơ "Vua Hơi nước" ("The Steam-King") là do Ph.Ăng-ghen dịch; nguyên văn tiếng Anh của bài thơ ấy đăng trên tờ "The Northern Star", số 274, 11 tháng Hai 1843, còn có hai đoạn nữa; người dịch bài thơ ấy ra tiếng Nga cho lần xuất bản này là X. Mác-sắc.

1)  Tôi không có thì giờ, cũng không có đủ giấy để nói tỉ mỉ về những lời cãi lại của các chủ xưởng đối với những lời kết tội họ từ mười hai năm nay. Không có gì dạy bảo được loại người ấy, vì lợi ích riêng đã làm loá mắt họ. Một số lời cãi lại của họ, tôi đã tiện dịp bác bỏ trên kia, cho nên ở đây tôi chỉ còn nói thêm chút ít nữa:

Các bạn đến Man-se-xtơ, và muốn nghiên cứu tình hình sinh hoạt Anh. Hẳn là các bạn đã được giới thiệu tử tế với một số nhân vật "đáng kính". Các bạn đề ra một số ý kiến về tình cảnh của công nhân. Các bạn sẽ được quen mấy chủ xưởng lớn nhất thuộc Đảng tự do, ví dụ: Rô-bớt Hai-đơ Grê-gơ, Ét-mơn Át-sơ-ước-tơ, Tô-mát A-stơn, v.v.. Các bạn đem ý muốn của mình nói với họ. Chủ xưởng hiểu các bạn, họ biết nên làm gì. Họ đưa các bạn đến công xưởng của họ ở nông thôn, ông Grê-gơ đưa các bạn đến Qui-ri Ban-cơ ở Si-sia; ông Át-sơ-ước-tơ đưa các bạn đến Tớc-tơn, gần Bôn-tơn, ông A-stơn đưa các bạn đến Hai-đơ. Họ dẫn các bạn vào những toà nhà thiết bị rất tốt, có thể còn có cả thiết bị thông gió nữa. Họ lưu ý các bạn đến những phân xưởng cao rộng, thoáng khí, những máy móc đẹp đẽ, và người công nhân trông rất khoẻ mạnh. Họ thết các bạn một bữa ăn sáng thịnh soạn, sau đó, họ mời các bạn đi xem chỗ ở của công nhân. Họ đưa các bạn đến những cốt-ta-giơ trông còn mới, sạch sẽ và dễ coi; bản thân họ cũng cùng với các bạn vào nhà này, nhà nọ. Đương nhiên, họ chỉ đưa các bạn đến những nhà đốc công, thợ cơ khí, v.v. để các bạn "xem những gia đình chỉ dựa vào công xưởng mà sống". Trong những cốt-ta-giơ khác các bạn sẽ có thể thấy được chỉ có vợ và con làm việc ở công xưởng, còn chồng thì ngồi vá bít tất. Vì chủ xưởng ở ngay đó, các bạn không tiện đề ra những câu hỏi quá thóc mách, và hình như công nhân có lương khá, sinh hoạt dễ chịu, tương đối khoẻ mạnh nhờ không khí ở nông thôn. Các bạn bắt đầu từ bỏ các ý niệm của mình về sự nghèo khổ và đói khát, coi đó chỉ là quá cường điệu. Nhưng tình hình chế độ cốt-ta-giơ biến công nhân thành nô lệ ra sao, và cạnh đó chỉ có một cửa hàng của công xưởng thì các bạn lại không biết một tí gì, công nhân không thể tỏ cho các bạn thấy họ căm ghét chủ xưởng như thế nào, vì chủ xưởng ở ngay bên cạnh các bạn, thậm chí chủ xưởng còn xây trường học, nhà thờ, phòng đọc sách, v.v.. Nhưng họ lợi dụng nhà trường để dạy cho trẻ con phục tùng kỷ luật, họ chỉ cho bày ở các phòng đọc sách những sách báo bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản; họ thải những công nhân đọc sách báo của phái Hiến chương và sách báo xã hội chủ nghĩa, - tất cả những cái ấy họ đều giấu các bạn. Các bạn thấy những quan hệ gia trưởng dễ chịu, các bạn thấy đời sống của các đốc công, các bạn thấy giai cấp tư sản hứa hẹn với công nhân cái gì, nếu về mặt tinh thần công nhân cũng chịu trở thành nô lệ của chúng. Đã từ lâu, bọn chủ xưởng đã lấy khẩu hiệu "công xưởng nông thôn" làm tôn chỉ hoạt động, vì ở nông thôn những tai hại của chế độ công xưởng, đặc biệt là về phương diện vệ sinh, đã được loại trừ, một phần nhờ không khí trong lành và môi trường xung quanh, đồng thời cũng là vì ở đây sự nô dịch của chế độ gia trưởng đối với công nhân được giữ lâu nhất. Bác sĩ I-u-rơ đã hết lời ca tụng tình hình ấy. Nhưng khốn khổ thay cho người công nhân, nếu họ lại lăm le muốn suy nghĩ độc lập và trở thành những người theo phái Hiến chương, thì đối với họ sự yêu mến và săn sóc như cha mẹ của chủ xưởng, sẽ tiêu tan ngay trong chốc lát. - Nhưng nếu các bạn lại muốn đến khu công nhân ở Man-se-xtơ để xem những ảnh hưởng của chế độ công xưởng trong một thành phố công xưởng thì các bạn phải đợi chán mới được các nhà tư sản giàu có giúp cho việc ấy! Các ngài ấy không biết công nhân muốn gì, tình cảnh của họ thế nào. Họ không muốn, và cũng không thể biết những điều đó, vì họ sợ biết được những sự việc làm cho họ không được yên lòng, hoặc thậm chí buộc họ phải hành động trái ngược với lợi ích của họ. Nhưng cái ấy không quan trọng gì cả, những gì công nhân muốn, thì họ sẽ đạt được bằng sức mạnh của chính họ.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt