Phần thứ nhất: TRIẾT HỌC XIV. KẾT LUẬN
FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)
C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004. | Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh.
Chúng ta đã kết thúc phần triết học; còn đối với những điều bịa đặt khác về tương lai trong tập "Bài giảng", chúng ta sẽ nói tới khi xem xét việc ông Đuy-rinh đảo lộn chủ nghĩa xã hội. Ông Đuy-rinh đã hứa với chúng ta cái gì? Đủ mọi thứ. Và ông ta đã giữ được những lời hứa nào? Chẳng có gì hết. "Những nhân tố của một triết học hiện thực, và do đó cũng hướng về hiện thực của tự nhiên và đời sống", "một thế giới quan hết sức khoa học", "những tư tưởng sáng tạo ra hệ thống", và tất cả những thành tích khác của ông Đuy-rinh mà chính ông ta đã làm rùm beng bằng những lời lẽ hoa mỹ, bất cứ về mặt nào cũng đều chỉ tỏ ra là một sự bịp bợm thuần tuý thôi. Đồ thức luận vũ trụ, "quy định một cách chắc chắn những hình thức cơ bản của tồn tại mà không hề làm tổn hại chút nào đến tính chất sâu sắc của tư tưởng", hoá ra chỉ là một bản sao lại vô cùng hời hợt lô-gích học của Hê-ghen, và cùng với lô-gích học của Hê-ghen, nó tán thành cái thiên kiến mê muội cho rằng dường như những "hình thức cơ bản" ấy hay những phạm trù lô-gích đều tồn tại bí ẩn ở một chỗ nào đó, trước khi có thế giới và ở bên ngoài thế giới, và phải được "ứng dụng" vào thế giới. Triết học về tự nhiên đã cung cấp cho chúng ta một môn học về nguồn gốc vũ trụ mà điểm xuất phát là "một trạng thái đồng nhất với bản thân nó của vật chất", một trạng thái mà người ta chỉ có thể quan niệm được là khi nào đã sa vào một sự lẫn lộn không thể cứu vãn được về mối liên hệ giữa vật chất và vận động, và hơn nữa, là khi nào người ta thừa nhận phải có một ông Thượng đế nhân cách hoá, đứng bên ngoài thế giới, và chỉ có ông đó mới có thể làm cho trạng thái ấy chuyển sang vận động được. Trong khi nghiên cứu giới tự nhiên hữu cơ, triết học hiện thực đã gạt bỏ thuyết cạnh tranh sinh tồn và thuyết đào thải tự nhiên của Đác-uyn, cho đó là "một liều thú tính khá lớn để chống lại nhân tính", nhưng rồi lại buộc phải đưa những thuyết ấy vào bằng cửa sau, thừa nhận nó là những nhân tố tác động trong giới tự nhiên, mặc dầu đó là những nhân tố thứ yếu. Ngoài ra, nền triết học hiện thực ấy lại tìm được dịp để chứng tỏ, trong lĩnh vực sinh vật học, một sự ngu dốt đến mức là hiện nay, - kể từ khi người ta không thể tránh không nghe những bản báo cáo khoa học phổ thông được người ta phải đốt đuốc lên ban ngày mới có thể tìm thấy được một sự ngu dốt như thế ngay trong số những cô tiểu thư "thuộc các tầng lớp có học thức". Trong lĩnh vực đạo đức và pháp quyền, việc tầm thường hoá học thuyết của Rút-xô, cũng chẳng đem lại cho triết học hiện thực có được những kết quả tốt hơn việc tầm thường hoá Hê-ghen trong những mục trước đó. Và về mặt luật học, triết học hiện thực đó, mặc dầu có mọi lời quả quyết trái ngược của tác giả, đã bộc lộ ra một sự ngu dốt mà chỉ họa hoằn lắm người ta mới thấy được trong số những nhà luật học tầm thường nhất kiểu cũ ở nước Phổ. Nền triết học ấy "không thừa nhận một chân trời nào có thể nhìn thấy được một cách giản đơn", song về mặt pháp luật, thì triết học ấy lại lấy làm thoả mãn với một chân trời hiện thực, phù hợp với khu vực mà bộ luật Phổ đang được thi hành. Còn "những đất và trời của tự nhiên bên ngoài và bên trong" mà nền triết học ấy hứa hẹn sẽ vạch ra cho chúng ta thấy trong sự vận động cách mạng hùng mạnh của triết học đó, thì chúng ta vẫn còn đang chờ đợi, cũng như chúng ta vẫn còn đang chờ đợi "những chân lý tuyệt đỉnh cuối cùng" và cái "cơ sở tuyệt đối". Nhà triết học vốn có cái phương pháp tư tưởng là "gạt bỏ mọi khuynh hướng thiên về một thế giới quan bị hạn chế một cách chủ quan", thì đã tỏ ra là bị hạn chế về mặt chủ quan, không những vì sự hiểu biết rất thiếu sót như chúng ta đã thấy, không những vì phương pháp tư tưởng siêu hình thiển cận và vì tính tự phụ lố bịch của ông ta, mà còn vì cả những ý kiến ngông cuồng ngây ngô của cá nhân ông ta nữa. Ông ta không thể nào dựng lên được cái triết học hiện thực của mình mà lại không bắt toàn thể nhân loại còn lại, kể cả người Do Thái, phải tuân theo ông ta, như tuân theo một quy luật phổ biến, tức là phải ghê tởm sự hút thuốc, ghê tởm những con mèo và những người Do Thái. "Quan điểm phê phán thực sự" của ông ta đối với kẻ khác là ở chỗ khăng khăng gán cho người khác những điều mà họ không bao giờ nói đến, những điều mà bản thân ông Đuy-rinh bịa đặt ra. Những ý kiến cóp nhặt dông dài của ông ta92 về những đề mục tiểu tư sản, như giá trị của đời sống và phương pháp tốt nhất để hưởng đời sống, đều sặc cái mùi phi-li-xtanh, cái mùi giải thích cho ta rõ tại sao ông ta căm giận nhân vật Phau-xtơ của Gơ-tơ. Nhất định là không thể nào tha thứ cho Gơ-tơ được, vì Gơ-tơ đã chọn cái tên Phau-xtơ vô đạo đức ấy chứ không chọn nhà triết học hiện thực nghiêm túc như Vác-ne-rơ làm nhân vật chính. Tóm lại, nói theo lối nói của Hê-ghen, nền triết học hiện thực, nhìn về toàn bộ, là "cái cặn bã nhạt nhẽo nhất của nền triết học khai sáng của nước Đức"; sự nghèo nàn và tầm thường trong suốt của cái cặn bã ấy sở dĩ đã trở nên dày đặc và đục ngầu lên chỉ vì tác giả đã nhét vào trong đó những mẩu tu từ nhảm nhí. Và khi chúng ta đọc hết quyển sách, chúng ta vẫn thấy mình chẳng hơn gì trước, và chúng ta buộc phải thú nhận rằng "phương pháp tư duy mới", "những kết luận và những quan điểm căn bản là độc đáo" và "những tư tưởng sáng tạo ra hệ thống" chắc chắn là đã đem lại cho chúng ta nhiều điều phi lý mới, nhưng không đem lại được một dòng nào cho chúng ta có thể học được một cái gì. Vậy mà con người ấy lại khua chiêng gióng trống chẳng khác bất cứ một anh bán hàng rao tầm thường nào để khoe khoang những trò vè và món hàng của mình, nhưng những tiếng to lớn ầm ĩ ấy đều là rỗng tuếch, thật hoàn toàn rỗng tuếch, - chính cái con người ấy lại có can đảm gọi những người như Phi-xtơ, Sê-linh và Hê-ghen là bịp bợm, thế mà người kém nhất trong ba người này so với anh ta thì cũng là một khổng lồ rồi đấy. Quả thật là có kẻ bịp bợm - Nhưng là ai kia chứ? |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC