Chủ nghĩa Marx

Chống Đuy-rinh - Lời tựa năm 1885

CHỐNG ĐUY-RINH - MỤC LỤC

 

CHỐNG ĐUY-RINH

ÔNG OI-GHEN ĐUY-RINH ĐẢO LỘN KHOA HỌC

 

II

LỜI TỰA NĂM 1885

 

FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)

 


C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004. | Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh.


 

 

Việc cần phải in lại cuốn sách này đối với tôi thật là một điều bất ngờ. Đối tượng mà trước kia nó phê phán thì hiện nay hầu như đã bị lãng quên rồi; bản thân cuốn sách này không những đã được đăng thành từng phần trên tờ "Vorwӓrts" ở Lai-pxích năm 1877 và năm 1878 cho hàng nghìn độc giả, mà còn được xuất bản toàn bộ thành sách riêng, với một số lượng in lớn. Vậy tại sao ngày nay lại còn có người quan tâm đến những điều tôi đã nói về ông Đuy-rinh cách đây hàng bao nhiêu năm?

Điều đó chắc chắn trước hết là do quyển sách này, cũng giống như hầu hết những sách khác của tôi còn lưu hành hồi đó, đã bị cấm trong đế chế Đức liền ngay sau khi ban hành đạo luật đặc biệt chống những người xã hội chủ nghĩa[1]. Bất cứ ai không bị cột chặt vào những thành kiến quan liêu cha truyền con nối của các nước trong Liên minh thần thánh[2], đều phải thấy rõ rằng biện pháp ấy chỉ có thể có kết quả là: số lượng các sách bị cấm được tiêu thụ tăng lên gấp đôi, gấp ba và sự tiêu thụ như thế đang phơi trần sự bất lực của các ngài ở Béc-lin đã ban bố những lệnh cấm nhưng không thể thực hiện được những lệnh ấy. Thật vậy, phải nhờ sự nhã ý của chính phủ đế chế mà những tác phẩm nhỏ của tôi được in lại nhiều lần hơn là trong trường hợp tôi tự đứng ra đảm nhiệm lấy; tôi không có thì giờ xem lại một cách thích đáng văn bản của chúng và trong phần lớn trường hợp tôi buộc phải cho in lại nguyên văn như cũ mà thôi.

Nhưng thêm vào đó lại còn có một hoàn cảnh khác nữa. "Hệ thống" của ông Đuy-rinh được phê phán trong quyển sách này bao trùm một lĩnh vực lý luận rất rộng; tôi buộc phải dõi theo ông khắp nơi và đem những quan điểm của tôi ra đối lập lại những quan điểm của ông ta. Vì vậy, sự phê phán tiêu cực đã trở thành tích cực; cuộc bút chiến chuyển thành một sự trình bày ít nhiều có hệ thống về phương pháp biện chứng và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa mà Mác và tôi đã đại biểu, - và trình bày như thế trên một loạt khá nhiều lĩnh vực. Thế giới quan đó của chúng tôi, xuất hiện trên thế giới lần đầu tiên trong cuốn "Sự khốn cùng của triết học" của Mác và trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", đã trải qua một thời kỳ ấp ủ trong hơn 20 năm, và cho đến khi bộ "Tư bản" ra đời thì nó ngày càng tranh thủ được các giới rộng rãi một cách nhanh chóng[3]. Ngày nay, vượt xa ra ngoài biên giới của châu Âu, nó đang gây được sự chú ý và tìm được những môn đệ trong tất cả những nước, mà ở đó, một mặt, có những người vô sản, và mặt khác, có những nhà lý luận khoa học dũng cảm. Vì vậy, chắc là có một số công chúng quan tâm khá nhiều đến thực chất của vấn đề, đến mức vì nội dung chính diện của cuốn sách mà vui lòng thừa nhận cả cuộc bút chiến chống lại những luận điểm của Đuy-rinh, một cuộc bút chiến về nhiều mặt nay đã không còn đối tượng nữa.

Tiện đây tôi cũng xin nói rằng: vì thế giới quan trình bày trong cuốn sách này một phần hết sức lớn là do Mác đặt cơ sở và phát triển, còn tôi chỉ tham dự vào đó một phần hết sức nhỏ, cho nên đối với chúng tôi một điều rất dĩ nhiên là bản trình bày của tôi không thể ra đời mà Mác lại không biết đến. Tôi đã đọc cho Mác nghe toàn bộ bản thảo trước khi đưa in, và chính Mác đã viết chương thứ mười trong phần kinh tế chính trị học ("Trong quyển "Lịch sử phê phán""), và tiếc thay chỉ vì những nguyên nhân bên ngoài mà tôi đã phải rút ngắn nó lại một chút. Từ lâu chúng tôi đã có thói quen giúp đỡ lẫn nhau như vậy trong lĩnh vực chuyên môn.

Lần xuất bản này in lại nguyên văn bản in lần thứ nhất, chỉ trừ một chương. Một mặt, tôi không có thì giờ để xem lại bản ấy một cách cặn kẽ, mặc dầu tôi rất muốn sửa lại một số chỗ trong bản trình bày. Tôi có nghĩa vụ phải chuẩn bị để đưa in những di cảo của Mác, và việc đó quan trọng hơn nhiều so với bất kỳ một công việc nào khác. Ngoài ra, lương tâm tôi cũng chống lại mọi sự thay đổi văn bản. Tác phẩm này của tôi là một tác phẩm luận chiến và tôi cho rằng đối với đối thủ của tôi, tôi có nghĩa vụ không được sửa chữa gì cả ở những chỗ mà ông ta không thể sửa chữa gì được. Tôi chỉ có thể đòi quyền phát biểu ý kiến chống lại bài trả lời của ông Đuy-rinh mà thôi. Nhưng tôi đã không đọc và nếu không có một lý do nào đặc biệt thì tôi cũng sẽ không đọc những gì mà ông Đuy-rinh đã viết về bản luận chiến của tôi: Về phương diện lý luận tôi đã thanh toán với ông ta rồi. Vả lại, đối với ông ta, tôi càng phải tôn trọng những quy tắc danh dự trong luận chiến văn học, nhất là từ khi cuốn sách của tôi ra đời, trường đại học Béc-lin đã có một hành động bất công nhục nhã đối với ông ta. Thực ra trường này đã bị trừng phạt về điều đó. Một trường đại học mà đi đến chỗ tước quyền tự do giảng dạy của ông Đuy-rinh trong những tình hình như mọi người đã biết, thì trường đại học đó cũng không có gì phải ngạc nhiên khi bị người ta bắt phải nhận ông Sve-nin-gơ[4] trong những tình hình mà mọi người cũng đã biết rõ.

Chương duy nhất mà tôi đã mạn phép đưa thêm những đoạn bổ sung có tính chất giải thích vào, là chương thứ hai của phần thứ ba: "Tiểu luận về lý luận". ở đây, nơi mà vấn đề chỉ là trình bày một trong những điểm cơ bản của thế giới quan mà tôi bảo vệ, thì đối thủ của tôi không thể trách cứ tôi vì tôi cố gắng viết một cách đại chúng hơn và bổ sung thêm đôi chút. Hơn nữa, tôi lại có một lý do bên ngoài để làm như vậy. Tôi đã soạn lại ba chương trong tác phẩm (chương thứ nhất trong "Phần mở đầu", chương thứ nhất và thứ hai trong phần thứ ba) thành một quyển sách riêng để cho người bạn của tôi, ông La-phác-gơ, dịch ra tiếng Pháp, và sau khi bản tiếng Pháp đã được dùng làm cơ sở cho bản dịch tiếng I-ta-li-a và bản dịch tiếng Ba Lan, tôi đã xuất bản một bản bằng tiếng Đức dưới đầu đề: "Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học". Trong có vài ba tháng, tập sách này đã được xuất bản ba lần và cũng được dịch ra tiếng Nga và tiếng Đan Mạch[5]. Trong tất cả các bản in đó, chỉ có chương đã nói ở trên là có bổ sung thêm, và về phía tôi sẽ thật là cố chấp nếu khi in lại nguyên bản vẫn cứ khư khư bám lấy văn bản đầu tiên mà không theo bản viết sau là bản đã trở thành một bản in có tính chất quốc tế.

Những chỗ khác mà tôi muốn sửa thì chủ yếu là về hai điểm. Một là về lịch sử nguyên thuỷ của nhân loại mà mãi đến năm 1877, Moóc-gan mới cung cấp cho chúng ta cái chìa khoá để tìm hiểu[6]. Nhưng vì trong tác phẩm của tôi "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", (Xuy-rích, 1884)[7] tôi đã có dịp sử dụng những tài liệu mà tôi đã thu lượm được trong khoảng thời gian trước đó, cho nên ở đây chỉ cần dẫn tác phẩm viết về sau đó cũng đủ.

Và hai là, tôi cũng muốn thay đổi phần nói về khoa học tự nhiên lý thuyết. Phần này đã được trình bày rất vụng về, nhiều điểm bây giờ có thể diễn đạt dưới một hình thức rõ ràng hơn và chính xác hơn. Và nếu như ở đây tôi tự coi mình không có quyền sửa chữa, thì chính vì thế mà ở đây, tôi lại càng có nhiệm vụ phải tự phê bình mình.

Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử. Song muốn có một quan niệm vừa biện chứng vừa duy vật về tự nhiên thì người ta phải biết toán học và khoa học tự nhiên. Mác là một nhà toán học tinh thông, nhưng về khoa học tự nhiên thì chúng tôi chỉ có thể nghiên cứu một cách rời rạc, đứt đoạn, không thường xuyên. Vì thế, khi tôi có được thì giờ để làm việc đó, tức là sau khi từ bỏ công việc buôn bán và dời đến ở Luân Đôn[8], thì trong chừng mực có thể tôi đã cố tự "thay lông đổi cánh" hoàn toàn - theo cách nói của Li-bích[9] - trong lĩnh vực toán học và khoa học tự nhiên, và tôi đã dùng phần lớn thời gian của tôi trong tám năm vào việc đó. Đúng vào giữa quá trình thay lông ấy, tôi đã phải nghiên cứu cái gọi là triết học tự nhiên của ông Đuy-rinh. Vì vậy, nếu như trong lĩnh vực khoa học tự nhiên lý thuyết, đôi khi tôi không tìm được thuật ngữ thích đáng và nói chung là diễn đạt còn đôi chút nặng nề, thì đó là điều hoàn toàn tự nhiên. Nhưng mặt khác, việc ý thức được rằng mình chưa nắm vững đầy đủ tư liệu đã khiến tôi thận trọng; sẽ không có ai có thể vạch ra được những sự lầm lẫn thực sự của tôi về những sự kiện đã biết hồi đó, cũng như những điều sai lệch trong việc trình bày những lý thuyết đã được công nhận hồi đó. Về mặt này, chỉ có một nhà toán học lớn chưa được thừa nhận viết thư cho Mác, phàn nàn rằng tôi đã dám táo gan xúc phạm đến danh dự của [kí hiệu toán: căn bậc hai của -1].[10]

Lẽ dĩ nhiên, khi tôi tổng kết những thành tựu của toán học và khoa học tự nhiên như vậy thì vấn đề cũng là để thông qua những cái riêng, thấy rõ thêm cái chân lý mà nói chung tôi đã không nghi ngờ chút nào cả, cụ thể là: Cũng những quy luật biện chứng ấy của sự vận động, mà ngay cả trong lịch sử chúng cũng chi phối tính ngẫu nhiên bề ngoài của sự kiện, đang mở đường cho mình trong giới tự nhiên thông qua sự hỗn độn của vô số biến đổi; cũng những quy luật ấy, những quy luật như sợi chỉ đỏ xuyên qua cả lịch sử phát triển của tư duy loài người, đang dần dần đi vào ý thức của con người tư duy. Đó là những quy luật mà Hê-ghen lần đầu tiên đã phát triển một cách bao quát, nhưng dưới một hình thức thần bí. Và một trong những nguyện vọng của chúng tôi là tách những quy luật đó ra khỏi cái vỏ thần bí ấy và trình bày chúng một cách rõ ràng với tất cả tính đơn giản và tính phổ biến của chúng. Lẽ dĩ nhiên là nền triết học tự nhiên cũ - dầu có chứa đựng nhiều điều tốt thật sự và nhiều mầm mống có sức đâm chồi nẩy lộc như thế nào chăng nữa1* - vẫn không thể thoả mãn được chúng ta. Như đã được trình bày tường tận hơn trong tác phẩm này, khuyết điểm của nền triết học tự nhiên ấy, nhất là dưới hình thức của Hê-ghen, là ở chỗ không thừa nhận sự phát triển trong thời gian "nối tiếp nhau” của giới tự nhiên, mà chỉ thừa nhận sự tồn tại của "cái nọ bên cạnh cái kia". Sở dĩ như thế một mặt là do bản thân hệ thống của Hê-ghen chỉ thừa nhận có sự phát triển lịch sử của "tinh thần", nhưng mặt khác cũng là do tình trạng chung của khoa học tự nhiên thời ấy. Như vậy là trong trường hợp này Hê-ghen đã thụt lùi lại xa đằng sau Can-tơ là người, bằng thuyết tinh vân của mình, đã tuyên bố sự phát sinh của hệ thống mặt trời, mà bằng việc phát hiện ra tác dụng kìm hãm của thuỷ triều đối với sự quay của trái đất, đã tuyên bố về sự tiêu vong tất yếu của hệ thống ấy. Sau cùng, đối với tôi, vấn đề là ở chỗ không thể đưa những quy luật biện chứng từ bên ngoài vào giới tự nhiên, mà là phát hiện ra chúng trong giới tự nhiên và rút chúng ra từ giới tự nhiên.

Song, thực hiện điều đó một cách có hệ thống và trong từng lĩnh vực riêng biệt là một công việc khổng lồ. Không những lĩnh vực phải nắm thì hầu như vô tận, mà trên toàn bộ lĩnh vực đó, bản thân khoa học tự nhiên cũng đang trải qua một quá trình đảo lộn mạnh mẽ đến mức một người bỏ hết thì giờ nhàn rỗi của mình ra để làm việc ấy cũng không thể nào theo dõi xiết được. Nhưng từ khi Các Mác qua đời, thời giờ của tôi phải dành cho nhiều nhiệm vụ cấp bách hơn, và tôi đã phải ngừng công việc nghiên cứu của tôi trong lĩnh vực khoa học tự nhiên lại. Lúc bấy giờ tôi đành tạm bằng lòng với những phác thảo đã đưa ra trong sách này và đợi sau này có dịp thì sẽ tập hợp và công bố những kết quả đã thu nhận được, có thể là cùng một lúc với những bản thảo toán học rất quan trọng do Mác để lại[11].

Tuy nhiên, cũng có thể là tiến bộ của khoa học tự nhiên lý thuyết sẽ làm cho đại bộ phận hoặc toàn bộ công trình của tôi trở thành thừa, bởi vì chỉ một sự cần thiết phải sắp xếp lại những phát hiện thuần tuý có tính chất kinh nghiệm, đã tích luỹ lại rất nhiều, cũng buộc phải đưa đến một cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên lý thuyết, khiến cho nhà kinh nghiệm chủ nghĩa ngoan cố nhất phải ngày càng nhận thức được tính chất biện chứng của các quá trình tự nhiên. Những sự đối lập cứng nhắc cũ, những ranh giới dứt khoát và không thể vượt qua được ngày càng biến mất. Từ khi biến được bản thân những chất khí "thật” cuối cùng thành chất lỏng, trong đó hình thức giọt và hình thức khí là không phân biệt, thì những trạng thái kết tụ đã mất hết mọi tàn dư cuối cùng của tính tuyệt đối trước kia của chúng[12]. Khi thuyết khí động học xác lập được rằng trong các chất khí hoàn hảo, với một nhiệt độ như nhau, bình phương của tốc độ chuyển động của các phân tử khí riêng biệt đều tỷ lệ nghịch với trọng lượng phân tử, - thì bản thân nhiệt cũng được liệt trực tiếp vào hàng những hình thức vận động có thể đo được trực tiếp với tính cách là những hình thức vận động. Nếu cách đây chỉ mới mười năm, định luật cơ bản lớn, mới được phát hiện của sự vận động, chỉ được hiểu là định luật bảo toàn năng lượng là biểu hiện nói lên rằng sự vận động là không thể tiêu diệt và không thể tạo ra được, nghĩa là chỉ được hiểu về mặt số lượng thôi, thì bây giờ biểu hiện hạn chế, tiêu cực ấy ngày càng nhường chỗ cho biểu hiện tích cực của sự chuyển hoá năng lượng, trong đó lần đầu tiên người ta thừa nhận nội dung chất lượng của quá trình, và trong đó ký ức cuối cùng về đấng tạo hoá siêu nhân không còn nữa. Ngày nay đã không cần phải tuyên truyền như một điều mới mẻ về cái ý kiến cho rằng số lượng của sự vận động (cái gọi là năng lượng) không thay đổi khi nó huyển hoá từ động năng (từ cái gọi là lực cơ học) thành điện, nhiệt, thế năng v.v., cũng như khi chuyển hoá ngược lại; ý kiến này đã thành cơ sở chắc chắn cho sự nghiên cứu - một sự nghiên cứu mà nội dung ngày nay phong phú hơn nhiều - về bản thân quá trình chuyển hoá, về cái quá trình cơ bản vĩ đại mà việc nhận thức nó bao quát toàn bộ nhận thức về tự nhiên. Và từ khi việc nghiên cứu sinh vật học được tiến hành dưới ánh sáng của thuyết tiến hoá thì trong lĩnh vực giới hữu cơ, những tuyến ranh giới cứng nhắc của việc phân loại đã lần lượt biến mất; những khâu trung gian hầu như không thể phân loại được mỗi ngày một nhiều thêm, một sự nghiên cứu chính xác hơn đang ném những cơ thể từ loại này sang loại khác, và những dấu hiệu phân biệt hầu như đã trở thành những tín điều thì nay lại mất hết giá trị tuyệt đối của chúng: ngày nay, chúng ta đã biết rằng có những loài có vú đẻ trứng và nếu tin tức mà đúng thì có cả những con chim đi bốn chân nữa[13]. Nếu trước đây nhiều năm, do sự phát hiện ra tế bào, Viếc-sốp đã buộc phải phân giải-điều này có tính chất tiến bộ hơn là có tính chất khoa học tự nhiên và biện chứng - sự thống nhất của cá thể động vật thành một liên bang của các quốc gia tế bào[14], thì ngày nay, khái niệm về cá thể động vật (và do đó, cả cá thể con người nữa) đã trở nên phức tạp hơn nhiều, do phát hiện ra những bạch huyết cầu di chuyển giống như những a-míp trong cơ thể các động vật cao cấp. Nhưng chính những sự đối lập hoàn toàn đó trước kia được coi là không thể điều hoà được và không thể giải quyết được, chính những đường phân ranh giới và những dấu hiệu phân biệt các loài được quy định một cách vũ đoán đó đã làm cho khoa học tự nhiên lý thuyết hiện đại mang tính chất hạn chế và siêu hình. Nhận thức cho rằng trong giới tự nhiên, cố nhiên là có những sự đối lập và khác biệt ấy, nhưng chỉ có với một ý nghĩa tương đối thôi, rằng trái lại, tính bất động tưởng tượng và giá trị tuyệt đối của chúng chỉ là do sự suy nghĩ của chúng ta đưa vào giới tự nhiên mà thôi - nhận thức đó là trung tâm điểm của quan điểm biện chứng về tự nhiên. Người ta có thể đạt đến quan điểm biện chứng đó do những sự kiện thực tế đang tích luỹ lại của khoa học tự nhiên bắt buộc; nhưng người ta có thể đạt tới nó một cách dễ dàng hơn nếu đưa nhận thức về những quy luật của tư duy biện chứng vào việc tìm hiểu tính chất biện chứng của những sự kiện ấy. Dù sao, khoa học tự nhiên cũng đã tiến xa đến mức nó không thể tránh được sự tổng hợp biện chứng. Nhưng nó sẽ thực hiện được sự tổng hợp ấy một cách dễ dàng hơn nếu nó không quên rằng kết quả trong đó những kinh nghiệm của nó được khái quát, là những khái niệm; rằng nghệ thuật vận dụng những khái niệm không phải bẩm sinh mà có, cũng không phải là do ý thức bình thường hàng ngày đem lại, mà đòi hỏi một tư duy thực sự, tư duy này có một lịch sử kinh nghiệm lâu dài, cũng lâu dài như lịch sử nghiên cứu tự nhiên mang tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa. Chỉ có khi nào khoa học tự nhiên tiếp thu được những kết quả của hai nghìn năm trăm năm phát triển của triết học thì nó mới có thể, một mặt, thoát khỏi mọi thứ triết học tự nhiên đứng tách riêng, đứng ngoài và đứng trên nó, và mặt khác, thoát khỏi cái phương pháp tư duy hạn chế của chính nó, do chủ nghĩa kinh nghiệm Anh để lại.

Luân Đôn, ngày 23 tháng Chín 1885

 



[1] Đạo luật đặc biệt chống những người xã hội chủ nghĩa do chính phủ Bi-xmác ban hành với sự ủng hộ của đa số trong quốc hội ngày 21 tháng Mười 1878 nhằm mục đích đấu tranh chống phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa. Đạo luật này đặt Đảng dân chủ - xã hội Đức vào tình trạng bất hợp pháp; nó cấm tất cả các tổ chức của đảng, các tổ chức quần chúng công nhân, các báo chí công nhân và xã hội chủ nghĩa; nó tịch thu các sách báo xã hội chủ nghĩa; những người dân chủ - xã hội bị truy nã. Nhưng Đảng dân chủ - xã hội, nhờ sự giúp đỡ tích cực của Mác và Ăng-ghen, đã đủ sức khắc phục cả những phần tử cơ hội chủ nghĩa, lẫn những phần tử "cực tả" trong hàng ngũ của mình, và trong thời gian đạo luật đặc biệt còn có hiệu lực, đã kết hợp đúng đắn công tác bất hợp pháp với việc sử dụng những khả năng hợp pháp, đã hết sức củng cố và mở rộng ảnh hưởng của mình trong quần chúng. Dưới áp lực của phong trào quần chúng công nhân, đạo luật đặc biệt đã bị bãi bỏ ngày 1 tháng Mười 1890. Ăng-ghen đã đánh giá đạo luật đó trong bài "Bi-xmác và Đảng công nhân Đức" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tiếng Nga, Nhà xuất bản sách chính trị, xuất bản lần thứ 2, Mát-xcơ-va, 1961, t. 19, tr. 289-291).

[2] Liên minh thần thánh là một liên hợp phản động của bọn vua chúa châu Âu, do các nước quân chủ Nga, áo và Phổ thành lập năm 1815 để đàn áp các phong trào cách mạng từng nước riêng và bảo vệ chế độ phong kiến - quân chủ ở các nước đó.

[3] K. Marx. "Misère de la philosophie". Paris - Bruxelles, 1847. Xem C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987, t. 4,  tr. 107. | "Manifest der Kommunistischen Partei". London, 1848. Xem lần xuất bản trên. t. 4, tr. 563 - 611. Năm 1872 "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" được tái bản dưới nhan đề "Tuyên ngôn cộng sản". | K. Marx. "Das Kapital". Bd. I, Hamburg, 1867. Xem Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn  tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23.

[4] 10 Đuy-rinh (từ 1863, ông là phó giáo sư của trường đại học tổng hợp Béc-lin và từ 1873 là phó giáo sư đại học tại trường nữ trung học tư), trong các tác phẩm của mình, bắt đầu từ 1872, đã công kích thậm tệ các giáo sư đại học. Chẳng hạn ngay trong xuất bản phẩm đầu tiên "Lịch sử phê phán các nguyên lý chung về cơ học" (1872), ông buộc tội H. Hem-hôn-txơ cố ý lờ không nói đến trước tác của R. May - ơ. Đuy-rinh cũng lên tiếng phê phán kịch liệt chế độ đại học. Vì những lời phát biểu đó của ông, Đuy-rinh đã bị các giáo sư phản động truy tố. Theo sáng kiến của các giáo sư đại học vào năm 1876, ông đã không được giảng dạy ở trường nữ trung học. Trong lần xuất bản thứ hai về lịch sử cơ học (1877) và trong cuốn sách nhỏ nói về giáo dục phụ nữ (1877), Đuy-rinh lặp lại những lời buộc tội của ông dưới hình thức còn gay gắt hơn. Tháng Bảy 1877, theo yêu cầu của khoa triết, ông bị tước quyền dạy ở trường đại học. Việc Đuy-rinh bị thải hồi đã gây nên một chiến dịch phản đối om sòm của những người ủng hộ ông ta, hành động chuyên quyền đó cũng vấp phải sự kết án cả trong các giới dân chủ rộng r•i.

E. Svê-nin-gơ, từ năm 1881 là bác sĩ riêng của Bi-xmác, đã được bổ nhiệm làm giáo sư trường đại học tổng hợp Béc-lin vào năm 1884.

[5] Bản dịch đầu tiên ra tiếng Pháp tác phẩm của Ăng-ghen, do La-phác-gơ dịch, dưới nhan đề "Socialisme utopique et socialisme scientifique" ("Chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học"), được đăng trên tạp chí "Revue socialiste" số 3-5 tháng Ba - tháng Năm 1880; một bản in riêng của cuốn sách được phát hành ở Pa-ri cũng cùng năm đó. Bản tiếng Ba Lan của cuốn sách xuất bản ở Giơ-ne-vơ năm 1882 và bản tiếng I-ta-li-a xuất bản ở Bê-nê-ven-tô năm 1883. Bản in đầu tiên bằng tiếng Đức của tác phẩm, dưới nhan đề "Die Entwicklung des Sozialismus von der Utopie zur Wissenshaft" ("Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học") được xuất bản ở Hốt-tin-hen - Xuy-rích năm 1882, bản in lần thứ hai và thứ ba bằng tiếng Đức cũng được xuất bản vào năm 1883. Tác phẩm của Ăng-ghen được đăng lần đầu tiên bằng tiếng Nga, dưới nhan đề "Chủ nghĩa xã hội khoa học" trên tạp chí bất hợp pháp "Giới sinh viên" số 1 vào tháng Chạp 1882; một bản in riêng của cuốn sách dưới nhan đề "Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học" được nhóm "Giải phóng lao động" xuất bản ở Giơ-ne-vơ năm 1884. Bản dịch ra tiếng Đan Mạch đã được xuất bản ở Cô-pen-ha-ghen vào năm 1885.

[6] Ăng-ghen muốn nói đến tác phẩm của L. H. Moóc-gan "Xã hội cổ đại, hay là Nghiên cứu những tuyến tiến bộ của loài người từ mông muội qua dã man đến văn minh", in ở Luân Đôn vào năm 1877.

[7] F. Engels, "Der Ursprung der Familie, des Privateigenthums und des Staats". Hottingen - Ziirich, 1884. Xem C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tiếng Nga, Nhà xuất bản sách chính trị, Mát-xcơ-va, 1961, t.21, tr. 23 - 178.

[8] Ăng-ghen không làm việc ở hãng thương nghiệp Man-se-xtơ ngày 1 tháng Bảy 1869 và chuyển đến Luân Đôn ngày 20 tháng Chín 1870.

[9] Trong lời nói đầu cho tác phẩm cơ bản của ông về hoá nông, khi nói về sự phát triển của những quan điểm khoa học của mình, I. Li-bích nhận xét: "Hoá học có những thành tựu hết sức nhanh, và những nhà hoá học mong muốn đi kịp nó đã ở vào tình trạng không ngừng đổi lốt. Những lông vũ cũ không bay nổi đã rụng khỏi cánh, nhưng chúng đã được thay bằng những lông mới để bay mạnh hơn và dễ dàng hơn". Xem J. Liebig. "Die Chemie in ihrer Anwendung auf Agricultur und Physiologie". 7. Aufl., Braunschweig, 1862, Th. I. S. 26 (I. Li-bích, "Hoá học áp dụng vào nông nghiệp và sinh lý học", xuất bản lần thứ 7, Brao-svai-gơ, 1862, ph. I, t. 26).

[10] 16 Đây là nói đến bức thư của nhà dân chủ - xã hội Đức H. V. Pha-bi-an gửi Mác ngày 6 tháng Mười một 1880 (xem thư của Ăng-ghen gửi Cau-xky ngày 11 tháng Tư 1884, gửi Béc-stanh ngày 13 tháng Chín 1884 và gửi Dooc-gơ ngày 3 tháng Sáu 1885). Về , Ăng-ghen đã nói trong chương XII của phần thứ nhất cuốn "Chống Đuy-rinh" (Xem tập này, tr. 174-175).

1* 1) Hùa theo bọn người tầm thường thiếu suy nghĩ theo kiểu Các Phô-gtơ để đả kích triết học tự nhiên cũ thì dễ dàng hơn việc đánh giá ý nghĩa lịch sử của nó rất nhiều. Nó chứa đựng nhiều điều vô lý và không tưởng, nhưng cũng không nhiều bằng những lý luận phi triết học của các nhà khoa học tự nhiên kinh nghiệm chủ nghĩa đương thời, và từ khi thuyết tiến hoá được truyền bá thì người ta bắt đầu nhận thấy rằng nó cũng chứa đựng nhiều điều có ý nghĩa và hợp lý. Vì vậy Hếch-ken đã hoàn toàn có lý khi thừa nhận công lao của Tơ-rê-vi-ra-nút và Ô-ken17. Trong quan niệm của mình về chất nhầy nguyên thuỷ và tiểu bào nguyên thuỷ, Ô-ken đã coi là định đề của sinh vật học cái mà sau này người ta đã thật sự phát hiện ra là chất nguyên sinh và tế bào. Còn riêng về Hê-ghen, thì trên nhiều phương diện, ông ta cũng đứng cao hơn nhiều so với những nhà kinh nghiệm chủ nghĩa đương thời, những người này tưởng đã giải thích được tất cả các hiện tượng chưa được giải thích bằng cách ghép cho chúng một lực - trọng lực, lực nổi, lực tiếp xúc điện, v.v. - hoặc nếu không hợp thì gán cho chúng một chất mà chưa ai biết: chất sáng, chất nhiệt, chất điện, v.v.. Những chất tưởng tượng ấy ngày nay hầu như đã bị loại bỏ, nhưng cái trò bịp về các lực mà Hê-ghen công kích thì vẫn tiếp tục xuất hiện một cách vui vẻ như một bóng ma, ví dụ như trong bài diễn văn của Hem-hôn-txơ ở In-xbrúc năm 1869 (Hem-hôn-txơ, "Tập bài giảng phổ thông", q.II, 1871, tr.190)18. Ngược lại với việc thần thánh hoá - do người Pháp thế kỷ XVIII để lại - đối với Niu-tơn, người được nước Anh dành cho mọi sự danh giá và giàu sang, Hê-ghen đã vạch ra rằng Kê-plơ, người mà nước Đức đã để cho chết đói, mới đúng là người sáng lập ra môn cơ học hiện đại của các thiên thể, rằng định luật vạn vật hấp dẫn của Niu-tơn đã nằm trong tất cả ba định luật của Kê-plơ rồi, thậm chí trong định luật thứ ba thì lại càng rõ. Điều mà Hê-ghen chứng minh trong "Triết học tự nhiên", mục 270 và những phần bổ sung (Hê-ghen, "Toàn tập", 1842, t. VII, tr.98 và 113-115), bằng một vài phương trình đơn giản thì chúng ta lại tìm thấy một lần nữa với tư cách là một thành quả của môn cơ học toán học mới nhất trong tác phẩm của Gu-xta-vơ Kiếc-shốp "Những bài giảng về vật lý toán học", in lần thứ 2, Lai-pxích, 1877, tr.10) và về cơ bản thì cũng dưới cái hình thức toán học đơn giản mà Hê-ghen đã trình bày lần đầu tiên. Những nhà triết học về tự nhiên quan hệ với khoa học tự nhiên biện chứng - tự giác cũng giống như những nhà không tưởng quan hệ với chủ nghĩa cộng sản hiện đại.

[11] Đây muốn nói về "Biện chứng của tự nhiên" của Ăng-ghen và về bản thảo toán học của Mác. Những bản thảo của Mác về toán học, với khối lượng trên 1000 tờ, được viết vào cuối những năm 50 đến đầu những năm 80 thế kỷ XIX; các bản thảo đó, một phần nào, đã được công bố trên tạp chí "Dưới lá cờ của chủ nghĩa Mác", 1933, số 1, tr. 73-25.

[12] Ăng-ghen muốn nói đến các công trình nghiên cứu của nhà vật lý học Anh T. En-đriu (1869), của nhà vật lý học Pháp L. P. Cay-ơ-tê và nhà vật lý học Thuỵ Sĩ R. P. Pích-tết (1877).

[13] Đây muốn nói: trong trường hợp thứ nhất là giống thú mỏ vịt, và trong trường hợp thứ hai, chắc là thuỷ tổ loài chim.

[14] Theo quan niệm của R. Viếc-sốp, trình bày trong cuốn "Bệnh lý học xen-lu-lô" của ông, xuất bản phẩm lần thứ nhất của cuốn đó phát hành vào năm 1858, - cá thể động vật bị phân tách ra thành những mô, những mô bị phân tách ra thành những lãnh địa tế bào, những lãnh địa tế bào lại bị phân tách ra thành những tế bào riêng lẻ, như vậy kết cục lại cá thể động vật là tổng số cơ học các tế bào riêng lẻ (xem R. Virchow. "Die Cellularpathologie". 4. Aufl., Berlin, 1871, S.17).

Nói về tính chất "tiến bộ" của quan niệm đó. Ăng-ghen ám chỉ vấn đề Viếc-sốp là đảng viên đảng tư sản cấp tiến Đức, mà Viếc-sốp là một trong những người sáng lập và nhà hoạt động nổi tiếng của đảng này. Đảng đó được thành lập vào tháng Sáu 1861. Cương lĩnh của đảng đó có đề ra những yêu sách cụ thể như sự thống nhất nước Đức dưới bá quyền của Phổ và sự thực hiện nguyên tắc tự trị địa phương.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt