Chủ nghĩa Marx

Chống Đuy-rinh - Nhận xét chung

CHỐNG ĐUY-RINH - MỤC LỤC

 

CHỐNG ĐUY-RINH

ÔNG OI-GHEN ĐUY-RINH ĐẢO LỘN KHOA HỌC

 

Phần mở đầu

 

I. NHẬN XÉT CHUNG

 

FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)

 


C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004. | Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh.


 

 

Xét về nội dung của nó, chủ nghĩa xã hội hiện đại trước hết là kết quả của việc nghiên cứu một mặt là những đối lập giai cấp đang thống trị trong xã hội hiện đại giữa những người có của và những người không có của, giữa công nhân làm thuê và các nhà tư sản, và mặt khác là tình trạng vô chính phủ đang ngự trị trong sản xuất. Nhưng xét về hình thức lý luận của nó thì lúc đầu chủ nghĩa xã hội hiện đại xuất hiện chỉ như là một sự phát triển tiếp tục và dường như triệt để hơn của những nguyên lý mà các nhà khai sáng vĩ đại Pháp hồi thế kỷ XVIII đã nêu lêna. Cũng như mọi học thuyết mới, chủ nghĩa xã hội trước hết phải xuất phát từ những tài liệu tư tưởng đã tích luỹ từ trước, mặc dù gốc rễ của nó nằm sâu trong những sự kiện kinh tế.

Những vĩ nhân ở Pháp đã soi sáng đầu óc mọi người để chuẩn bị cho cuộc cách mạng sắp đến gần thì bản thân họ cũng rất cách mạng. Họ không thừa nhận bất kỳ một thứ uy quyền bên ngoài nào. Tôn giáo, quan niệm về tự nhiên, xã hội, chế độ nhà nước, tất cả đều phải được đem ra phê phán một cách thẳng tay nhất, tất cả đều phải ra trước toà án của lý tính để biện hộ cho sự tồn tại của mình hoặc từ bỏ sự tồn tại của mình. Lý tính đang tư duy là thước đo duy nhất để đánh giá mọi cái đang tồn tại. Đó là thời đại mà như Hê-ghen nói, thế giới đã đứng bằng đầu[1], trước hết theo ý nghĩa là đầu óc của con người và những luận điểm đã phát hiện được thông qua tư duy của nó, đòi hỏi phải được dùng làm cơ sở cho mọi hoạt động của con người và cho mọi quan hệ xã hội; và sau đó theo ý nghĩa rộng hơn tức là: cái hiện thực, mâu thuẫn với những luận điểm ấy, trên thực tế đã bị đảo lộn từ trên xuống dưới. Tất cả những hình thức xã hội và nhà nước từ trước đến nay, tất cả những quan điểm cổ truyền, đều bị coi là không hợp lý và bị vứt bỏ như những đồ cũ; từ trước đến nay thế giới chỉ do những thành kiến chỉ đạo, toàn bộ quá khứ đều chỉ đáng thương và đáng khinh mà thôi. Giờ đây, lần đầu tiên, mặt trời đã mọc; và từ nay sự mê tín, sự bất công, đặc quyền và sự áp bức phải nhường chỗ cho chân lý vĩnh cửu, cho chính nghĩa vĩnh cửu, cho bình đẳng bắt nguồn từ bản thân giới tự nhiên, và cho những quyền bất khả xâm phạm của con người.

Hiện nay, chúng ta biết rằng vương quốc của lý tính ấy chẳng qua chỉ là vương quốc được lý tưởng hoá của giai cấp tư sản; rằng chính nghĩa vĩnh cửu đã được thực hiện trong nền tư pháp tư sản; rằng sự bình đẳng quy lại là bình đẳng tư sản trước pháp luật; rằng một trong những nhân quyền cơ bản nhất của con người mà người ta đã tuyên bố, là quyền sở hữu tư sản. Nhà nước của lý tính - khế ước xã hội của Rút-xô[2] - đã thể hiện và chỉ có thể hiện ra như là nền cộng hoà dân chủ tư sản. Tất cả những nhà tư tưởng vĩ đại của thế kỷ XVIII, cũng như tất cả những tiền bối của họ, không thể vượt qua những khuôn khổ mà thời đại của họ đã quy định cho họ.

Nhưng bên cạnh sự đối lập giữa quý tộc phong kiến với giai cấp tư sản còn có sự đối lập chung giữa những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột, giữa những người giàu có lười biếng và những người lao động nghèo khổ. Chính tình hình đó đã làm cho các đại biểu của giai cấp tư sản có thể đóng vai trò đại biểu không phải của một giai cấp riêng biệt, mà là đại biểu của toàn thể nhân loại đau khổ. Không phải chỉ có thế. Từ lúc mới xuất hiện, giai cấp tư sản đã phải mang nặng cái đối lập với bản thân nó: các nhà tư bản không thể tồn tại nếu không có công nhân làm thuê; và tương ứng với việc người thợ cả phường hội thời trung cổ phát triển thành người tư sản cận đại, người thợ bạn phường hội và người làm công nhật không ở trong phường hội cũng phát triển thành người vô sản. Và mặc dầu xét về toàn bộ, trong cuộc đấu tranh chống giới quý tộc, giai cấp tư sản có chút quyền nhất định tự nhận mình cũng là đại biểu cả cho lợi ích của các loại giai cấp lao động khác nhau thời bấy giờ, nhưng trong mỗi phong trào lớn của giai cấp tư sản, lại xuất hiện những phong trào độc lập của giai cấp vốn là tiền thân ít nhiều phát triển của giai cấp vô sản hiện đại. Ví dụ, phong trào của Tô-mát Muyn-txơ trong thời kỳ Cải cách tôn giáo và Chiến tranh nông dân ở Đức; phái bình quân[3] trong cuộc đại cách mạng Anh; phong trào của Ba-bớp trong thời đại cách mạng Pháp. Cùng với những cuộc đấu tranh cách mạng vũ trang ấy của một giai cấp còn chưa trưởng thành là những biểu hiện lý luận tương ứng: trong thế kỷ XVI và XVII, có những sự miêu tả không tưởng về những chế độ xã hội lý tưởng[4], còn trong thế kỷ XVIII thì đã có những lý luận trực tiếp có tính chất cộng sản chủ nghĩa Mô-re-ly và Ma-bli. Yêu cầu bình đẳng không còn giới hạn trong những quyền chính trị nữa, mà đã mở rộng ra đến cả địa vị xã hội của mỗi cá nhân; sự tất yếu phải thủ tiêu chẳng những các đặc quyền giai cấp mà cả những sự khác biệt về giai cấp đã được luận chứng. Chủ nghĩa cộng sản khổ hạnh kiểu Xpác-tơ là hình thức biểu hiện đầu tiên của học thuyết mới ấy. Rồi ba nhà không tưởng vĩ đại xuất hiện: Xanh-Xi-mông, - ở ông, bên cạnh khuynh hướng vô sản thì khuynh hướng tư sản còn giữ một ý nghĩa nào đó, - Phu-ri-ê và Ô-oen sống trong một nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhất và dưới ấn tượng của những đối lập do nền sản xuất ấy đề ra, đã đưa ra những đề án của mình nhằm xoá bỏ những sự khác biệt về giai cấp, dưới hình thức một hệ thống trực tiếp gắn với chủ nghĩa duy vật Pháp.

Sự giống nhau giữa ba ông là ở chỗ họ không thể hiện ra là những đại biểu cho lợi ích của giai cấp vô sản mà lịch sử đã sản sinh ra trong thời kỳ đó. Cũng như những nhà khai sáng, họ muốn giải phóng toàn nhân loại, chứ không phải một giai cấp xã hội nhất định. Cũng như những nhà khai sáng, họ muốn xác lập vương quốc của lý tính và của chính nghĩa vĩnh cửu; nhưng vương quốc của họ khác một trời một vực với vương quốc của các nhà khai sáng Pháp. Thế giới tư sản được xây dựng theo những nguyên lý của các nhà khai sáng ấy cũng phi lý và bất công, và vì vậy cũng phải bị vứt vào sọt rác như chế độ phong kiến và mọi chế độ xã hội trước kia. Sở dĩ lý tính chân chính và chính nghĩa thật sự từ trước đến nay vẫn chưa ngự trị trên thế giới, chỉ vì người ta vẫn chưa nhận thức được chúng một cách đúng đắn. Chính vì đã thiếu một con người thiên tài, mà người đó giờ đây mới xuất hiện và đã nhận thức được chân lý. Thiên tài ấy giờ đây mới xuất hiện, chân lý chính giờ đây mới được nhận thức, - điều đó không phải là kết quả tất yếu của tiến trình phát triển chung của lịch sử, không phải là sự kiện không thể tránh được, mà chỉ là một sự ngẫu nhiên, may mắn. Con người thiên tài ấy cũng có thể xuất hiện như thế 500 năm trước đây và như thế thì nhân loại đã có thể tránh được 500 năm nhầm lẫn, đấu tranh và đau khổ.

Lối nhận thức này là lối nhận thức hết sức đặc trưng của tất cả những người xã hội chủ nghĩa Anh, Pháp và những người xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Đức, kể cả Vai-tling. Đối với tất cả bọn họ, chủ nghĩa xã hội là biểu hiện của chân lý tuyệt đối, lý tính tuyệt đối và chính nghĩa tuyệt đối, và chỉ cần phát hiện ra nó là nó có thể chinh phục toàn thế giới bằng sức mạnh của bản thân nó; và vì chân lý tuyệt đối không phụ thuộc vào thời gian, không gian và sự phát triển lịch sử của loài người, cho nên việc nó được phát hiện ra lúc nào và ở đâu, là một việc thuần tuý ngẫu nhiên. Đồng thời chân lý, lý tính và chính nghĩa tuyệt đối lại khác nhau ở mỗi người sáng lập ra một trường phái; và mỗi dạng đặc biệt của chân lý, lý tính và chính nghĩa tuyệt đối ở mỗi người sáng lập ra trường phái đó lại được quy định bởi trí tuệ chủ quan, điều kiện sinh hoạt, khối lượng kiến thức và trình độ phát triển tư duy của họ. Vì thế trong sự xung đột giữa các chân lý tuyệt đối ấy, cách giải quyết sự xung đột chỉ có thể bằng con đường để các mâu thuẫn tương hỗ của chúng mài giũa lẫn nhau. Do đó, không thể có được một cái gì khác hơn là một thứ chủ nghĩa xã hội trung bình có tính chất chiết trung; cho đến nay thứ chủ nghĩa xã hội này vẫn đang thực sự thống trị trong đầu óc của đa số công nhân xã hội chủ nghĩa ở Anh và Pháp. Thứ chủ nghĩa xã hội chiết trung đó là một mớ hỗn hợp gồm những nhận xét phê phán ôn hoà hơn, những luận điểm kinh tế và những quan niệm về xã hội tương lai của các nhà sáng lập ra các trường phái, một mớ hỗn hợp mà người ta lại càng dễ có hơn, chừng nào những góc cạnh sắc bén, những sự khác biệt của những bộ phận cấu thành của nó càng bị bào mòn đi trong cái dòng tranh cãi, giống như những hòn cuội trong dòng nước chảy. Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một khoa học thì trước hết phải đặt nó vào một cơ sở hiện thực.

Trong thời gian ấy, cùng với nền triết học Pháp thế kỷ XVIII và tiếp theo sau nó, nền triết học mới ở Đức đã ra đời và đã đạt tới đỉnh cao nhất của nó, thể hiện ở Hê-ghen. Công lao lớn nhất của nó là đã quay trở lại phép biện chứng, coi đó là hình thức cao nhất của tư duy. Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và A-ri-xtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứngb. Trái lại, nền triết học mới, mặc dầu nó cũng có những đại biểu xuất sắc của phép biện chứng (ví dụ như Đê-các-tơ và Xpi-nô-da), nhưng đặc biệt do ảnh hưởng của triết học Anh, nó ngày càng bị sa vào cái gọi là phương pháp tư duy siêu hình là phương pháp tư duy hầu như cũng hoàn toàn chi phối những người Pháp trong thế kỷ XVIII, ít nhất cũng là trong những công trình chuyên bàn về triết học của họ. Nhưng ngoài lĩnh vực triết học hiểu theo đúng nghĩa của nó ra, họ cũng để lại cho chúng ta nhiều tuyệt tác về phép biện chứng; chúng ta chỉ cần nhớ lại cuốn "Người cháu trai của Ra-mô" của Đi-đơ-rô[5] và cuốn "Bàn về nguồn gốc của tình trạng bất bình đẳng giữa con người "của Rút-xô. - ở đây, chúng tôi giới thiệu một cách vắn tắt thực chất của hai phương pháp tư duy ấy; chúng ta sẽ còn phải trở lại vấn đề ấy tỉ mỉ hơn.

Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự nhiên, lịch sử loài người, hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước nhất, chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua lại trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi. Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hê-ra-clít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong. Nhưng cách nhìn ấy, dù cho nó có nắm đúng tính chất chung của toàn bộ bức tranh về các hiện tượng, vẫn không đủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ, và chừng nào chúng ta chưa biết được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõ được bức tranh toàn bộ ấy. Muốn nhận thức được những chi tiết ấy, chúng ta buộc phải tách chúng ra khỏi mối liên hệ tự nhiên hay lịch sử của chúng, và phải nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính của chúng, theo nguyên nhân và kết quả riêng của chúng, v.v.. Đó trước hết là nhiệm vụ của khoa học tự nhiên và của việc nghiên cứu lịch sử, tức là của những ngành khoa học mà vì những lí do hoàn toàn dễ hiểu, những ngành đó chỉ giữ một địa vị thứ yếu ở người Hy Lạp thời cổ đại, bởi vì đối với họ, điều trước hết là phải thu thập được tài liệu cần thiết đã. Những bước đầu nghiên cứu một cách chính xác giới tự nhiên ở người Hy Lạp chỉ đến thời đại A-lếch-xan-đri[6] mới được tiếp tục phát triển và về sau, trong thời trung cổ, được người A-rập phát triển hơn nữa. Chỉ từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi mới có một nền khoa học tự nhiên thật sự và từ bấy đến nay, khoa học đó đã đạt được những tiến bộ ngày càng nhanh chóng. Việc phân chia giới tự nhiên ra thành những bộ phận riêng biệt, việc tách riêng các loại quá trình tự nhiên và các sự vật tự nhiên khác nhau thành những loại nhất định, việc nghiên cứu cấu tạo bên trong của những vật thể hữu cơ theo các hình thái giải phẫu nhiều vẻ của nó - tất cả những cái đó đã là những điều kiện cơ bản cho những tiến bộ khổng lồ mà 400 năm gần đây đã đem lại cho chúng ta trong lĩnh vực nhận thức giới tự nhiên. Nhưng phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời cũng để lại cho chúng ta một thói quen là xem xét những sự vật tự nhiên và quá trình tự nhiên trong trạng thái biệt lập của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó không xem xét chúng trong trạng thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh, không coi chúng về cơ bản là biến đổi, mà coi chúng là vĩnh viễn không biến đổi, không xem xét chúng trong trạng thái sống mà xem xét chúng trong trạng thái chết. Và khi phương pháp nhận thức ấy được Bê-cơn và Lốc-cơ đưa từ khoa học tự nhiên vào triết học thì nó tạo ra tính hạn chế đặc thù của những thế kỷ gần đây, - tức là phương pháp tư duy siêu hình.

Đối với nhà siêu hình học thì những sự vật và sự phản ánh của chúng trong tư duy, tức là những khái niệm, đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn, phải được xem xét cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia. Nhà siêu hình học suy nghĩ bằng những sự tương phản hoàn toàn trực tiếp; họ nói: "Có là có, không là không; ngoài cái đó ra chỉ là trò xảo quyệt"[7]. Đối với họ thì sự vật hoặc là tồn tại hoặc là không tồn tại; một sự vật không thể vừa là bản thân nó lại vừa là một sự vật khác. Cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau; nguyên nhân và kết quả cũng đối lập hẳn với nhau. Phương pháp tư duy ấy mới xem thì có vẻ hoàn toàn có thể chấp nhận được, bởi vì nó là phương pháp của cái mà người ta gọi là lý trí lành mạnh của con người. Nhưng lý trí lành mạnh của con người ta, tuy là một người bạn đường rất đáng kính trong bốn bức tường sinh hoạt của gia đình, cũng sẽ trải qua những cuộc phiêu lưu kỳ lạ nhất một khi nó mạo hiểm bước vào thế giới nghiên cứu rộng lớn. Phương pháp nhận thức siêu hình, dù được coi là chính đáng và thậm chí là cần thiết trong những lĩnh vực nhất định ít nhiều rộng lớn tuỳ theo tính chất của đối tượng nghiên cứu, nhưng chóng hay chầy nó cũng sẽ gặp phải một ranh giới mà nếu nó vượt quá thì nó trở thành phiến diện, hạn chế, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được, vì nó chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng. Thí dụ, trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta biết và có thể nói một cách chắc chắn rằng một con vật đang tồn tại hay không tồn tại, nhưng nghiên cứu kỹ hơn nữa thì chúng ta lại thấy rằng đôi khi đó lại là một vấn đề hết sức phức tạp, như các luật sư hiểu rất rõ điều đó khi phải vò đầu bứt tai để tìm ra một giới hạn hợp lý mà nếu vượt quá thì việc giết một cái thai trong bụng mẹ sẽ bị coi là tội giết người. Cũng như không thể xác định một cách chính xác lúc chết là lúc nào, bởi vì sinh lý học chứng minh rằng cái chết không phải là một sự kiện đột ngột và trong khoảnh khắc, mà là một quá trình rất dài. Cũng giống như trong mỗi giây lát, bất kỳ một vật hữu cơ nào cũng vừa là bản thân nó, vừa không phải là bản thân nó; trong mỗi giây lát, nó tiêu hoá những chất mà nó nhận được từ ngoài vào và bài tiết những chất khác ra khỏi nó; trong mỗi giây lát, một số tế bào trong cơ thể của nó chết đi và những tế bào khác được hình thành; sau một thời gian dài hay ngắn, những chất của cơ thể ấy đổi mới hoàn toàn và được những nguyên tử vật chất khác thay thế. Bởi thế mỗi vật hữu cơ bao giờ cũng là bản thân nó nhưng lại không phải là bản thân nó. Khi xem xét kỹ hơn, chúng ta cũng thấy rằng hai cực của một thể đối lập - thí dụ, cái khẳng định và cái phủ định-cũng không thể tách rời nhau giống như chúng không thể không đối lập với nhau, và mặc dầu tất cả sự đối lập giữa chúng với nhau, chúng vẫn thâm nhập lẫn nhau. Chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định; nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược lại.

Tất cả những quá trình ấy và tất cả những phương pháp tư duy ấy không nằm trong khuôn khổ của tư duy siêu hình. Trái lại, đối với phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng,- thì những quá trình kể trên chỉ chứng thực cho phương pháp nghiên cứu của bản thân nó mà thôi. Giới tự nhiên là hòn đá thử vàng đối với phép biện chứng, và cần phải nói rằng khoa học tự nhiên hiện đại đã cung cấp cho sự thử nghiệm ấy những vật liệu hết sức phong phú và mỗi ngày một tăng thêm, và do đó đã chứng minh rằng trong tự nhiên, rút cục lại, mọi cái đều diễn ra một cách biện chứng chứ không phải siêu hình. Nhưng vì cả cho đến nay, có thể đếm trên đầu ngón tay con số những nhà nghiên cứu tự nhiên đã học được cách suy nghĩ một cách biện chứng, cho nên sự xung đột giữa những kết quả đã đạt được và phương pháp tư duy lâu đời hoàn toàn giải thích được tình trạng hết sức lẫn lộn hiện nay đang thống trị trong ngành khoa học tự nhiên lý thuyết khiến cho cả thày lẫn trò, cả người viết lẫn người đọc, đều tuyệt vọng.

Như vậy, một quan điểm đúng đắn về vũ trụ, về sự phát triển của vũ trụ và sự phát triển của loài người, cũng như về sự phản ánh của sự phát triển ấy vào trong đầu óc con người chỉ có thể có được bằng con đường biện chứng, với sự chú ý thường xuyên đến những tác động qua lại phổ biến giữa sự phát sinh và sự tiêu vong, giữa sự biến đổi tiến bộ và sự biến đổi thụt lùi. Và nền triết học hiện đại Đức, ngay từ đầu, chính là đã được xác lập theo tinh thần đó. Can-tơ đã mở đầu sự nghiệp khoa học của ông bằng việc biến thái dương hệ vĩnh viễn và bất biến của Niu-tơn, - sau khi đã có cái hích đầu tiên nổi tiếng kia, -thành một quá trình lịch sử: đó là quá trình xuất hiện mặt trời và tất cả mọi hành tinh từ khối tinh vân đang xoay chuyển. Từ đó, ông đã rút ra được cái kết luận là sự nảy sinh của thái dương hệ cũng giả định sự tiêu vong tất yếu của nó trong tương lai. Nửa thế kỷ sau, quan điểm đó của ông được La-pla-xơ chứng minh bằng toán học, rồi một nửa thế kỷ sau nữa, kính quang phổ đã chứng minh rằng trong không gian của vũ trụ có những đám khí đỏ rực giống như thế, ở những mức độ ngưng tụ khác nhau[8].

Nền triết học mới của Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hê-ghen, trong đó lần đầu tiên - và đây là công lao to lớn của ông - toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là một quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động, biến đổi, biến hoá và phát triển, và ông đã cố vạch ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và sự phát triển ấyc. Theo quan điểm ấy, lịch sử loài người đã không còn thể hiện ra là một mớ hỗn độn ghê gớm của những hành vi bạo lực vô nghĩa, đáng phải kết tội trước toà án của lý tính triết học ngày nay đã trưởng thành, chẳng kém gì đáng phải quên đi cho thật nhanh; ngược lại, nó là một quá trình phát triển của bản thân loài người, và nhiệm vụ của tư duy hiện nay là phải theo dõi bước tiến tuần tự của quá trình ấy qua tất cả những khúc quanh co của nó và chứng minh tính quy luật bên trong của nó qua tất cả những cái ngẫu nhiên bề ngoài.

Việc Hê-ghen không giải quyết được nhiệm vụ ấy, thì điều đó ở đây đối với chúng ta cũng không quan trọng gì. Công lao lịch sử của ông là đã đề ra nhiệm vụ ấy. Nhiệm vụ ấy là một nhiệm vụ mà riêng một người thì không bao giờ có thể giải quyết được. Mặc dù Hê-ghen, cũng như Xanh-Xi-mông, là một khối óc bách khoa nhất của thời đại bấy giờ, song dù sao ông vẫn bị hạn chế, một là bởi những giới hạn không thể tránh được của những tri thức của bản thân ông, và hai là bởi những tri thức và những quan niệm của thời đại ông, những tri thức và những quan niệm này cũng bị hạn chế hệt như vậy về bề rộng và bề sâu. Ngoài ra còn có thêm một điều thứ ba nữa. Hê-ghen là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với ông thì những tư tưởng trong đầu óc của chúng ta không phải là những phản ánh ít nhiều trừu tượng của những sự vật và quá trình hiện thực, mà ngược lại, những sự vật và sự phát triển của chúng, đối với Hê-ghen, chỉ là những phản ánh thể hiện cái "ý niệm" nào đó tồn tại ở một nơi nào đó ngay trước khi có thế giới. Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của các hiện tượng của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược. Và mặc dầu Hê-ghen đã nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số mối liên hệ riêng biệt giữa các hiện tượng, nhưng vì những nguyên nhân nói trên, nên nhiều cái ngay cả trong các chi tiết của hệ thống Hê-ghen cũng không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc. Hệ thống Hê-ghen, với tính cách là một hệ thống như vậy, là một cái thai đẻ non khổng lồ, nhưng đó cũng là cái thai đẻ non cuối cùng trong loại của nó. Cụ thể là hệ thống ấy chứa đựng một mâu thuẫn bên trong không thể cứu chữa được: một mặt, tiền đề cơ bản của nó là một quan điểm cho rằng lịch sử nhân loại là một quá trình phát triển, quá trình ấy do chính bản chất của nó, không thể lấy việc phát hiện ra cái gọi là chân lý tuyệt đối mà coi đó là thành tựu trí tuệ được; nhưng mặt khác, hệ thống ấy lại có kỳ vọng rằng chính nó là cái tận cùng của chân lý tuyệt đối ấy. Một hệ thống nhận thức về tự nhiên và lịch sử bao quát tất cả và vĩnh viễn không còn thay đổi nữa, một hệ thống như thế là mâu thuẫn với những quy luật cơ bản của tư duy biện chứng; nhưng điều đó hoàn toàn không loại trừ mà trái lại còn giả định rằng sự nhận thức có hệ thống về toàn bộ thế giới bên ngoài có thể đạt được những thành tựu khổng lồ từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Việc hiểu được tính chất hoàn toàn sai lầm của chủ nghĩa duy tâm Đức hiện đang tồn tại, nhất định sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy vật, nhưng cần phải thấy rằng không phải chỉ giản đơn dẫn đến chủ nghĩa duy vật siêu hình, hoàn toàn có tính chất máy móc của thế kỷ XVIII. Ngược lại với việc vứt bỏ đơn thuần có tính chất cách mạng - ngây thơ, toàn bộ lịch sử đã có từ trước, chủ nghĩa duy vật hiện đại coi lịch sử là một quá trình phát triển của loài người và đặt cho mình nhiệm vụ là phát hiện ra những quy luật vận động của quá trình ấy. Ngược lại với quan niệm về tự nhiên thịnh hành ở người Pháp thế kỷ XVIII cũng như ở Hê-ghen, coi tự nhiên như là một chỉnh thể không thay đổi, vận động trong những vòng tuần hoàn chật hẹp, với những thiên thể vĩnh cửu như Niu-tơn đã dạy, với những loại sinh vật hữu cơ không thay đổi như Lin-nê đã dạy,- ngược lại với quan niệm về tự nhiên ấy, chủ nghĩa duy vật hiện đại tổng hợp những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, mà theo đó thì giới tự nhiên cũng có lịch sử của bản thân nó trong thời gian, những thiên thể cũng nảy sinh và diệt vong giống như tất cả những loài hữu cơ sống trên những thiên thể ấy trong những điều kiện thuận lợi, và những vòng tuần hoàn, trong chừng mực chúng nói chung có thể diễn ra, cũng có những quy mô vô cùng lớn hơn. Trong hai trường hợp ấy, chủ nghĩa duy vật hiện đại về bản chất là biện chứng, và nó không cần đến bất cứ một triết học nào đứng trên các khoa học khác. Một khi người ta đặt ra trước mỗi khoa học cái yêu cầu là phải làm sáng tỏ vị trí của nó trong mối liên hệ chung giữa các sự vật và những kiến thức về những sự vật ấy thì bất kỳ một khoa học đặc biệt nào về mối liên hệ chung ấy cũng đều trở nên thừa. Và khi đó trong toàn bộ môn triết học trước kia, chỉ còn lại có học thuyết về tư duy và những quy luật của tư duy- tức là lô-gích hình thức và phép biến chứng-là còn tồn tại được một cách độc lập. Mọi cái khác đều thuộc vào một khoa học cụ thể về tự nhiên và về lịch sử.

Nhưng trong khi bước ngoặt đó trong quan niệm về tự nhiên chỉ có thể diễn ra theo mức độ mà các công trình nghiên cứu cung cấp tài liệu thực tế tương ứng cho nhận thức, thì những sự kiện lịch sử dẫn tới một bước ngoặt quyết định trong quan niệm về lịch sử, lại diễn ra sớm hơn rất nhiều. Năm 1831, cuộc khởi nghĩa đầu tiên của công nhân đã nổ ra ở Li-ông; từ năm 1838 đến năm 1842, phong trào toàn quốc đầu tiên của công nhân, phong trào Hiến chương ở nước Anh, đã đạt đến điểm cao nhất của nó. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã nổi lên hàng đầu trong lịch sử các nước phát triển nhất ở châu Âu, một mặt, theo mức độ phát triển của đại công nghiệp, và mặt khác, theo mức độ phát triển của quyền thống trị chính trị mà giai cấp tư sản mới giành được ở những nước đó. Những học thuyết của khoa kinh tế chính trị tư sản về sự đồng nhất lợi ích của tư bản và lao động, về sự hoà hợp phổ biến và về phúc lợi phổ biến của nhân dân nhờ tự do cạnh tranh mà có, đã bị các sự kiện thực tế vạch trần ngày càng rõ là những lời giả dốid. Đã đến lúc không thể không biết đến toàn bộ những sự kiện ấy, cũng như không thể không biết đến chủ nghĩa xã hội Pháp và Anh, biểu hiện lý luận, - mặc dầu là hết sức không hoàn bị, - của những sự kiện ấy. Nhưng quan điểm duy tâm cũ về lịch sử, một quan niệm chưa bị đẩy lùi, lại không biết đến một cuộc đấu tranh giai cấp nào dựa trên lợi ích vật chất, và nói chung không biết đến những lợi ích vật chất nào cả; nền sản xuất cũng như tất cả mọi quan hệ kinh tế đều chỉ được họ nhân tiện nhắc đến với tư cách là những yếu tố thứ yếu của "lịch sử nền văn minh" mà thôi. Những sự kiện mới buộc người ta phải nghiên cứu lại toàn bộ lịch sử từ trước tới nay và khi đó người ta thấy rằng toàn bộ lịch sử đã qua đều là lịch sử đấu tranh giai cấp[9]; rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy lúc nào cũng là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là sản phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy; rằng do đó kết cấu kinh tế của xã hội, của mỗi thời đại nhất định tạo nên cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng, phải bằng cái cơ sở hiện thực ấy mà giải thích toàn bộ thượng tầng kiến trúc bao gồm những thể chế pháp luật và chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Do đó, chủ nghĩa duy tâm đã bị tống ra khỏi nơi ẩn náu cuối cùng của nó, tức là ra khỏi quan niệm về lịch sử, người ta đã có một quan niệm duy vật về lịch sử và đã tìm thấy con đường để giải thích ý thức của con người từ sự tồn tại của họ, chứ không phải lấy ý thức của họ để giải thích sự tồn tại của họ như từ trước đến nay người ta đã làm.

Nhưng chủ nghĩa xã hội cũ không thể tương dung với quan niệm duy vật lịch sử ấy, cũng giống như quan niệm về tự nhiên của chủ nghĩa duy vật Pháp không thể tương dung với phép biện chứng và khoa học tự nhiên cận đại. Chủ nghĩa xã hội trước kia tuy đã phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang tồn tại và những hậu quả của phương thức sản xuất ấy, nhưng không thể giải thích được và vì thế cũng không thắng được phương thức sản xuất ấy; nó chỉ có thể tuyên bố một cách giản đơn là phương thức sản xuất đó xấu mà thôi. Nhưng nhiệm vụ là, một mặt, phải giải thích sự tất yếu xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong mối liên hệ lịch sử của nó và tính tất yếu của nó đối với một thời kỳ lịch sử nhất định, và do đó cả sự tất yếu phải tiêu vong của nó nữa; nhưng mặt khác, cũng phải vạch trần tính chất bên trong, cho đến nay vẫn còn chưa phát hiện được, của phương thức sản xuất ấy, bởi vì sự phê phán từ trước tới nay đã nhằm vào những hậu quả có hại nhiều hơn là nhằm vào bản thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Điều này đã được thực hiện nhờ việc phát hiện ra giá trị thặng dư. Người ta đã chứng minh được rằng sự chiếm hữu lao động không được trả công là hình thức cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của sự bóc lột công nhân do phương thức sản xuất ấy thực hiện; rằng ngay cả khi nhà tư bản mua sức lao động của công nhân theo giá trị đầy đủ của nó, giá trị mà nó có với tư cách là hàng hoá ở trên thị trường hàng hoá, thì nhà tư bản cũng vẫn bóp nặn được của sức lao động ấy nhiều giá trị hơn số tiền bỏ ra để mua nó; rằng giá trị thặng dư ấy, rốt cuộc, họp thành tổng số giá trị đẻ ra cái khối tư bản ngày càng không ngừng lớn lên mãi, tích luỹ trong tay các giai cấp hữu sản. Như thế là đã giải thích được tiến trình của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như sự sản xuất ra bản thân tư bản.

Hai phát hiện vĩ đại ấy - quan niệm duy vật lịch sử và việc bóc trần bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nhờ giá trị thặng dư - là công lao của Mác. Nhờ hai phát hiện ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ tương hỗ của nó.

Tình hình trong lĩnh vực chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận và nền triết học hiện đã mai một đại thể là như vậy, lúc đó ông Oi-ghen Đuy-rinh nhảy lên sân khấu một cách khá ầm ĩ và báo tin là ông ta sẽ đảo lộn hoàn toàn triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội.

Chúng ta hãy xem ông Đuy-rinh hứa với chúng ta những gì và ... giữ lời hứa đó như thế nào.

 



a Trong bản phác thảo của "Phần mở đầu" những dòng này viết như sau: "Chủ nghĩa x• hội hiện đại, mặc dù về thực chất đã xuất hiện từ việc nghiên cứu những đối lập giai cấp tồn tại trong xã hội giữa những người có của và người không có của, giữa công nhân và những kẻ bóc lột, nhưng về hình thức lý luận của nó, thì lúc đầu chủ nghĩa xã hội hiện đại xuất hiện như là một sự phát triển triệt để hơn và là sự phát triển tiếp tục của những nguyên tắc do các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII đã nêu ra, - vì những đại biểu đầu tiên của chủ nghĩa x• hội - Mô-re-ly và Ma-bli - cũng thuộc về số những nhà khai sáng".

[1] Trong cuốn "Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học", Ăng-ghen đã viết chú thích cho chỗ này; trong chú thích này Ăng-ghen đã đưa ra một đoạn trích tương ứng rút từ tác phẩm của Hê-ghen "Triết học lịch sử", q. IV, ph. III, ch. 3, Xem G. W. F.Hegel. "Vorlesungen ỹber die Philosophie der Geschichte”; Werke, Bd. IX, 2 Aufl., Berlin, 1840, S. 535-536 (G. V. Ph. Hê-ghen, "Những bài giảng về lịch sử triết học", Toàn tập, t. IX, xuất bản lần thứ 2, Béc-lin, 1840, tr. 535-536).

[2] Theo thuyết của Rút-xô, ban đầu, con người sống trong điều kiện hoàn cảnh tự nhiên, trong đó tất cả đều bình đẳng. Sự phát triển của chế độ tư hữu và sự phát triển của sự bất bình đẳng về tài sản đã đề ra bước chuyển biến con người từ hoàn cảnh tự nhiên sang hoàn cảnh công dân và dẫn đến việc thành lập nhà nước trên cơ sở khế ước xã hội. Nhưng về sau sự phát triển của sự bất bình đẳng về chính trị dẫn tới chỗ vi phạm khế ước xã hội và làm nảy sinh ra tình trạng vô quyền mới. Nhà nước lý tính được xây dựng trên cơ sở một khế ước xã hội mới kêu gọi gạt bỏ cái tình trạng vô quyền mới này.

Thuyết đó được phát triển trong những tác phẩm của Rút-xô: "Discours sur l’origine et les fondemens de l'inégalité parmi les hommes". Amsterdam, 1755 "Bàn về nguồn gốc và những nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng giữa con người". Am-xtéc-đam, 1755) và "Du comtrat sosial; ou, Principes du droit politique". Amsterdam, 1762 ("Về khế ước xã hội, hay là Những nguyên lý của quyền chính trị". Am-xtéc-đam, 1762).

[3] Ăng-ghen muốn nói đến "phái bình quân chủ nghĩa chân chính" hay là "phái đào bới", đại biểu của trường phái cực tả trong thời kỳ cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII. "Phái đào bới" biểu thị cho những lợi ích của các tầng lớp nghèo khổ nhất ở nông thôn và thành thị, đưa ra yêu sách thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, tuyên truyền tư tưởng chủ nghĩa cộng sản bình quân cổ sơ và cố gắng thực hiện trên thực tế những điều đó bằng cách khai phá tập thể các ruộng đất công xã.

[4] Ăng-ghen, trước hết muốn nói đến các tác phẩm của các đại biểu cho chủ nghĩa cộng sản không tưởng: T. Mo-rơ ("Không tưởng", xuất bản năm 1516) và T. Kam-pa-nen-la ("Thành phố mặt trời", xuất bản năm 1623).

b Trong bản phác thảo của "Phần mở đầu", đoạn này đã được trình bày như sau: "Những nhà triết học cổ Hy Lạp đều là những nhà biện chứng bẩm sinh, tự phát, và A-ri-xtốt, Hê-ghen thời cổ đại-đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng".

[5] Chuyện đối thoại "Người cháu trai của Ra-mô" ("Le neveu de Rameau") của Đi-đơ-rô được viết vào khoảng 1762 và về sau được tác giả soạn lại hai lần. Lần đầu tiên nó được xuất bản, với bản dịch ra tiếng Đức của Gơ-tơ, ở Lai-pxích vào năm 1805. Nguyên bản tiếng Pháp nằm trong cuốn "Oeuvres inédites de Diderot". Paris, 1821 ("Tác phẩm chưa hề in của Đi-đơ-rô". Pa-ri, 1821), đã được xuất bản thực tế vào năm 1823.

[6] Thời đại A-lếch-xan-đri của sự phát triển khoa học thuộc về thời kỳ từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ VII sau công nguyên. Thời đại này lấy tên của thành phố A-lếch-xan-đri của Ai Cập (trên bờ Địa Trung Hải), thành phố này lúc bấy giờ là một trong những trung tâm giao dịch buôn bán quốc tế lớn nhất. Trong thời đại A-lếch-xan-đri, hàng loạt ngành khoa học đã rất phát triển: toán học và cơ học (Ơ-clít và Ác-xi-mét), địa lý học, thiên văn học, giải phẫu học, sinh lý học, v.v..

[7] Kinh thánh, sách Phúc âm của Ma-thi-ơ, chương 5, câu thơ 37.

[8] Thuyết tinh vân của Can-tơ, theo đó thái dương hệ được phát triển từ khối tinh vân (tiếng la-tinh nebula - tinh vân), được trình bày trong tác phẩm của ông: "Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels, oder Versuch von der Vergassung und dem mechanischen Ursprunge des ganzen Weltgebọudes nach Newtonischen Grundsọtzen abgehandelt". Kửnigsberg und Leipzig, 1755 ("Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời, hay là Thử trình bày kết cấu và nguồn gốc cơ học của toàn bộ vũ trụ theo những nguyên tắc của Niu-tơn". Khuê-ních-xbéc và Lai-pxích, 1755). Cuốn sách được xuất bản không có tên tác giả.

Thuyết của La-pla-xơ về sự hình thành của thái dương hệ được trình bày lần đầu tiên ở chương cuối cùng trong cuốn sách của ông: "Exposition du systême du monde". T. I - II, Paris, l'an IV de la République Francaise [1976] ("Trình bày về hệ thống vũ trụ". T. I-II, Pa-ri, Cộng hoà Pháp năm thứ IV [1796]. Trong lần xuất bản thứ sáu của cuốn sách, lần cuối cùng được chuẩn bị khi La-pla-xơ còn sống và được phát hành sau khi tác giả mất, thuyết đó đã được trình bày ở chú thích VII, chú thích cuối cùng cho tác phẩm.

Sự tồn tại trong không gian vũ trụ những đám khí bị nung nóng tương tự như đám tinh vân ban đầu là tiền đề cho thuyết tinh vân của Can-tơ - La-pla-xơ, đã được nhà thiên văn học Anh U. Hớt-ghin-xơ - người đã áp dụng rộng r•i trong thiên văn học sự nghiên cứu bằng quang phổ do G. Kiếc-shốp và R. Bun-đen tổ chức vào năm 1859. - dùng phép phân quang để chứng minh vào năm 1864. ở đây, Ăng-ghen sử dụng cuốn sách của A. Xếch-ki "Mặt trời" (xem A. Secchi. "Die Sonne". Braunschweig, 1872, S. 787, 789 - 790; xem tập này, tr. 780-781).

c Trong bản phác thảo của "Phần mở đầu", triết học của Hê-ghen được trình bày như sau: "Hệ thống của Hê-ghen là một hình thức triết học cuối cùng, hoàn chỉnh nhất, trong chừng mực triết học ấy được coi như là môn khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các môn khoa học khác. Cùng với nó, toàn bộ triết học đã sụp đổ. Chỉ còn lại có phương pháp tư duy biện chứng và quan niệm về toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và trí tuệ như là một thế giới không ngừng vận động, biến đổi, nằm trong một quá trình thường xuyên xuất hiện và huỷ diệt. Ngày nay không chỉ đứng trước triết học mà cả trước mọi khoa học đều đặt ra một yêu cầu là phát hiện ra các quy luật vận động của quá trình biến đổi vĩnh viễn đó trong mỗi lĩnh vực riêng biệt. Và chính đó là di sản mà triết học Hê-ghen đã để lại cho những người kế tục của mình."

d Trong bản phác thảo của "Phần mở đầu", sau những chữ này ghi tiếp như sau: ở Pháp, cuộc khởi nghĩa ở Li-ông năm 1834 cũng đ• nói lên cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Các lý luận xã hội chủ nghĩa của Anh và Pháp đã có ý nghĩa lịch sử và không thể không gây nên tiếng vang và sự phê phán cả ở Đức nữa, mặc dù ở đó, nền sản xuất chỉ mới bắt đầu vượt khỏi khuôn khổ của nền sản xuất nhỏ. Do đó, chủ nghĩa xã hội trên lý thuyết được hình thành hiện nay - không chỉ ở nước Đức mà chủ yếu là giữa những người Đức - phải nhập cảng hoàn toàn vật liệu cho nó...".

[9] Ngay từ lần xuất bản đầu tiên bằng tiếng Đức cuốn "Sự phát triển của chủ nghĩa x• hội từ không tưởng đến khoa học" (1882) Ăng-ghen đã thêm những lời giải thích căn bản, nói rõ luận điểm này như sau: "toàn bộ lịch sử đã qua, trừ x• hội nguyên thuỷ, đều là lịch sử đấu tranh giai cấp".

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt