Chủ nghĩa Marx

Cuộc chinh phạt thứ ba của sự phê phán tuyệt đối (a)

GIA ĐÌNH THẦN THÁNH – MỤC LỤC

 

CHƯƠNG VI

PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN TUYỆT ĐỐI,

HAY LÀ

SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN THỂ HIỆN

Ở ÔNG BRU-NÔ


C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 139-143.  Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn Nguyên văn tiếng Đức Bản dịch tiếng Anh | Bản dịch tiếng Pháp.


 

 

3) CUỘC CHINH PHẠT THỨ BA CỦA SỰ PHÊ PHÁN TUYỆT ĐỐI

 

a- Sự phê phán tuyệt đối tự biện hộ cho mình.

Quá khứ "chính trị" của nó

Cuộc chinh phạt thứ ba của sự phê phán tuyệt đối chống lại "quần chúng" mở đầu bằng những vấn đề sau đây:

"Hiện nay đối tượng của sự phê phán là gì?"43

Cũng trong số "Literatur-Zeitung" trên, chúng tôi lĩnh giáo được rằng:

"Ngoài việc nhận thức sự vật ra, s ự p h ê p h á n không muốn gì cả".

Căn cứ theo lời tuyên bố đó, mọi sự vật đều đã phải trở thành đối tượng của sự phê phán. Vấn đề đối tượng riêng biệt chuyên để phê phán nào đó không có ý nghĩa nữa. Nếu chú ý rằng mọi sự vật đều "hoá thành" sự vật phê phán, mà mọi sự vật phê phán lại "hoàn thành" quần chúng, tức "đối tượng" của sự phê phán tuyệt đối, thì mâu thuẫn đó sẽ được giải quyết dễ dàng.

Trước hết, ông Bru-nô trình bày sự đồng tình vô hạn của mình với "quần chúng". Ông coi "vực thẳm giữa mình với đám đông" là đối tượng của "sự nghiên cứu không ngừng". Ông muốn "biết ý nghĩa của vực thẳm đó đối với tương lai", (sự nhận thức nói trên về "mọi" sự vật cũng chính là ở chỗ đó) đồng thời cũng muốn "trừ bỏ nó". Do đó trên thực tế, ông đã hiểu được ý nghĩa của vực thẳm đó. Ý nghĩa của vực thẳm, chính là ở chỗ nó bị ông trừ bỏ đi.

Vì đối với bất cứ ai, vật tồn tại gần nhất cũng là bản thân mình cho nên "sự phê phán" trước hết phải trừ bỏ tính quần chúng của bản thân nó, cũng giống như người khổ hạnh Cơ Đốc giáo mở đầu cuộc chinh phạt của tinh thần đối với xác thịt từ chỗ hành hạ xác thịt của bản thân mình. "Xác thịt" của sự phê phán tuyệt đối là quá khứ văn học thực sự có tính quần chúng của nó (gồm 20 đến 30 quyển). Vì vậy, ông Bau-ơ phải làm cho lịch sử của sinh hoạt văn học của "sự phê phán", - lịch sử này hoàn toàn nhất trí với lịch sử hoạt động văn học của bản thân Bau-ơ, - thoát khỏi cái bề ngoài quần chúng của nó, sau đó lại cải tiến giải thích lịch sử đó và thông qua sự chú thích có tính biện hộ ấy mà "củng cố những tác phẩm trước kia của sự phê phán".

Nó thoạt đầu giải thích rằng sai lầm của quần chúng, - sai lầm cho rằng trước khi tờ "Deutsche Jahrbücher"44 và "Rheinische Zeitung”45 bị đóng cửa, thì ông Bau-ơ là người của mình, - có hai nguyên nhân. Một là quần chúng sai lầm ở chỗ không cho rằng hoạt động sáng tác là "hoạt động sáng tác thuần tuý". Đồng thời, quần chúng lại phạm một sai lầm ngược lại, cho rằng hoạt động sáng tác là hoạt động sáng tác "duy nhất" hoặc "thuần tuý". Không nghi ngờ gì, bất kể thế nào "quần chúng" cũng đều không đúng vì rằng họ đồng thời mắc hai sai lầm gạt bỏ lẫn nhau.

Sự phê phán tuyệt đối nhân cơ hội đó, liền kêu to lên với những người chế nhạo "dân tộc Đức" là "nhà văn hạ lưu" rằng:

"Anh hãy thử nói cho tôi xem có thời kỳ lịch sử nào mà lại không do "ngòi bút" uy nghiêm quy định từ trước, lại không do ngòi bút giải quyết vấn đề thanh toán nó !"

Trong sự ngây thơ có tính phê phán của mình, ông Bru-nô đem tách rời "ngòi bút" với chủ thể viết văn và tách rời chủ thể viết văn, coi là "người viết văn trừu tượng, với con người lịch sử sống đã tham gia viết văn. Bằng biện pháp đó, ông có thể bị sức mạnh thần kỳ của "ngòi bút" làm cho ngây ngất. Cũng vậy, ông có thể yêu cầu người khác chỉ cho mình xem một vận động lịch sử không phải do "gia cầm" và "cô gái chăn ngỗng" quyết định từ trước.

Sau cùng, chúng tôi được ông Bru-nô đó cho biết rằng cho tới nay, vẫn chưa có, căn bản chưa có thời đại lịch sử nào được nhận thức cả. Người ta hỏi lại rằng cái "ngòi bút" cho tới nay không thể nhìn về đằng sau mà vạch ra "bất cứ một" thời đại lịch sử nào làm thế nào lại đồng thời có thể vạch sẵn từ trước ra mọi thời đại nhỉ?

Tuy nhiên, trên thực tế, ông Bru-nô vẫn chứng minh rằng ý kiến của mình là đúng, vì ông dùng "bút tích" biện hộ "vạch sẵn từ trước ra" cho bản thân mình, "quá khứ" của bản thân mình.

Về tất cả mọi mặt, sự phê phán không những chỉ bị lôi cuốn vào tính hạn chế phổ biến của thế giới và của một thời đại nào

đó, mà còn bị lôi cuốn vào tính hạn chế cá nhân hoàn toàn đặc thù, nhưng từ xưa đến nay, trong tất thảy các tác phẩm của mình, nó đều tự xưng là sự phê phán "tuyệt đối, hoàn thiện, thuần tuý", nên rất rõ ràng là sự phê phán đó chỉ thích ứng với thiên kiến sức hiểu biết của quần chúng, giống như thượng đế thường làm khi phán bảo cho người trần.

Sự phê phán tuyệt đối tiên đoán rằng: "Điều đó tất nhiên sẽ đưa tới sự phân biệt giữa lý luận và người đồng minh tưởng tượng của nó".

Nhưng vì sự phê phán - ở đây có thể gọi nó là lý luận - không thể biến thành bất cứ cái gì, trái lại, nó là chỗ xuất phát của mọi sự vật; vì nó không phát triển bên trong thế giới mà phát triển bên ngoài thế giới, và với cái ý thức thần thánh trước sau như một của nó, nó quy định sẵn từ trước mọi sự vật, cho nên về phía nó, sự phân biệt với người đồng minh trước kia của nó là một "sự chuyển biến mới" không phải trong bản thân nó, không phải vì bản thân nó, mà chỉ là về bề ngoài, chỉ là vì người khác.

"Song nói cho đúng ra, sự chuyển biến đó cũng chẳng mới mẻ gì. Lý luận thường xuyên tự phê phán" (ai nấy đều biết rằng để buộc lý luận phải tự phê phán thì việc nghiêm khắc chỉ trích lý luận đó là cần thiết biết chừng nào), "nó xưa nay không nịnh nọt quần chúng" (nhưng lại càng nịnh nọt mình), "nó trước sau vẫn giữ gìn cẩn thận sao cho khỏi lúng túng trong những tiền đề của kẻ địch".

"Nhà thần học Cơ Đốc giáo phải hành động thận trọng" (Bru-nô Bau-ơ, "Đạo Cơ Đốc bị vạch trần"46 tr.99). Vậy tại sao sự phê phán "thận trọng" vẫn lúng túng và lúc bấy giờ không nói rành mạch quan điểm "thực sự" của mình ra ? Tại sao nó không nói thẳng ra ? Tại sao nó không xua tan ảo tưởng về sự hữu ái của nó đối với quần chúng?

"Tại sao người đối xử với ta như vây? - Pha-ra-ông hỏi A-bra-ham khi trao nàng Xa-ra, vợ của A-bra-ham cho A-bra-ham. - Tại sao người bảo ta rằng nàng là em gái của người ?" (Bru-nô Bau-ơ, "Đạo Cơ Đốc bị vạch trần", tr.100).

"Đả đảo lý tính ngữ ngôn  ! - Nhà thần học nói: trong tình hình đó, rõ ràng là A-bra-ham nói dối. Sự linh báo sẽ bị sỉ nhục chí tử" (Sách đã dẫn).

Đả đảo lý tính và ngữ ngôn ! - Nhà phê phán nói: nếu ngài Bau-ơ không phải chỉ là về bề ngoài mà thực sự hoà mình với quần chúng thì trong những lời linh báo của mình, sự phê phán tuyệt đối không còn là tuyệt đối nữa, do đó nó sẽ bị sỉ nhục chí tử.

"Sự phê phán tuyệt đối nói tiếp: "Sự cố gắng của nó" (tức sự cố gắng của sự phê phán tuyệt đối) "quả thực không được người ta chú ý, và ngoài ra còn có một giai đoạn mà sự phê phán đã từng buộc phải tính đến một cách thành khẩn những tiền đề của kẻ địch và tạm thời thực sự coi trọng những tiền đề đó, nói tóm lại, sự phê phán bấy giờ còn chưa có đầy đủ năng lực phá tan niềm tin của quần chúng cho rằng họ cũng có sự nghiệp và lợi ích chung với sự phê phán".

Cố gắng của "sự phê phán" quả thực không được người ta chú ý đến; do đó, tội lỗi là ở về phía quần chúng. Mà mặt khác, sự phê phán thừa nhận rằng cố gắng của nó không thể được chú ý vì bản thân nó còn chưa có "khả năng" làm cho những sự cố gắng đó được chú ý đến. Như vậy, tội lỗi dường như ở về phía sự phê phán.

Lạy Chúa tôi! Sự phê phán đã từng "buộc phải" (có một sức ép đè lên đầu nó) "tính đến một cách thành khẩn những tiền đề của kẻ địch và tạm thời thực sự coi trọng những tiền đề đó". Một sự thành khẩn tuyệt diệu, một sự thành khẩn thần học chân chính, một sự thành khẩn đã thực tế đối xử với sự vật một cách không nghiêm túc và chỉ "tạm thời coi trọng nó", một sự thành khẩn luôn luôn, nghĩa là từng giờ từng phút, đề phòng để khỏi phải lúng túng trong những tiền đề của kẻ địch, nhưng lại "tạm thời" tính đến "một cách thành khẩn" những tiền đề đó. Trong phần kết cấu của câu trích dẫn trên kia, chữ "thành khẩn" có một hàm ý còn rộng hơn nhiều. Sự phê phán "tính đến một cách thành khẩn những tiền đề của quần chúng" chính vào lúc mà "nó còn chưa có đầy đủ năng lực phá tan cái ảo tưởng về sự nhất trí giữa sự nghiệp của sự phê phán và sự nghiệp của quần chúng. Nó còn chưa có năng lực đó, nhưng đã có hy vọng ý nghĩ rồi. Ở bên ngoài, nó còn chưa có thể phân liệt với quần chúng, nhưng bên trong nó, trong linh hồn nó, sự phân liệt đó đã hoàn thành mà lại hoàn thành chính vào lúc nó thành khẩn đồng tình với quần chúng !

Tuy sự phê phán hoàn toàn tham dự vào những thiên kiến của quần chúng, nhưng trên thực tế lại không tham dự vào những thiên kiến đó: nói cho đúng ra, trái lại nó đã thoát khỏi tính hạn chế của bản thân nó, nhưng chẳng qua là "còn chưa có đầy đủ năng lực" chỉ ra điều đó cho quần chúng. Vì vậy, toàn bộ tính hạn chế của "sự phê phán" là một bề ngoài thuần tuý, - nếu không có tính hạn chế của quần chúng thì bề ngoài này sẽ là thừa, do đó cũng sẽ hoàn toàn không tồn tại. Do đó, tội lỗi lại ở về phía quần chúng.

Nhưng chừng nào bề ngoài đó còn được duy trì bởi "sự chưa có năng lực" và "sự chưa có sức" của sự phê phán trong việc diễn đạt một cách thực sự thì chừng đó bản thân sự phê phán còn chưa hoàn bị. Nó thú nhận điều đó theo cách thức riêng của nó, theo cách thức biện hộ đúng hơn là theo cách thức thành khẩn.

"Mặc dù bản thân nó" (sự phê phán) "đã phê phán chí tử chủ nghĩa tự do, nhưng nó còn có thể bị coi là hình thức riêng biệt của bản thân chủ nghĩa tự do đó, - có lẽ là biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa tự do đó: mặc dù kết luận chân thực và có tính chất quyết định của nó đã vượt ra ngoài phạm vi chính trị, nhưng trước con mắt người khác, nó tất nhiên còn phải giữ một bề ngoài dường như nó đang làm chính trị, mà bề ngoài không hoàn thiện đó khiến cho nó có thể chiếm được tuyệt đại bộ phận bạn bè nói trên".

Sự phê phán có được bạn bè là nhờ vào cái bề ngoài không hoàn thiện, cái bề ngoài dường như nó đang làm chính trị. Nếu bề ngoài đó hoàn thiện thì sự phê phán tất nhiên sẽ mất bạn bè chính trị của mình. Trong nguyện vọng biện hộ khiếp nhược của nó nhằm rửa sạch mọi tội lỗi, nó buộc tội bề ngoài lừa dối về chỗ bề ngoài ấy là một bề ngoài lừa dối không hoàn thiện chứ không phải là một bề ngoài lừa dối hoàn thiện. Trong khi lấy một bề ngoài này thay thế cho một bề ngoài khác, "sự phê phán" có thể tự an ủi rằng: nếu nó đã có được "cái bề ngoài hoàn thiện" là mong muốn làm chính trị thì trái lại, nó không thể có được ngay cả đến "cái bề ngoài không hoàn thiện" để nó tiêu diệt chính trị ở bất cứ lúc nào, nơi nào.

Sự phê phán tuyệt đối không hoàn toàn thoả mãn với "bề ngoài không hoàn thiện" lại tự hỏi lần nữa rằng:

"Tình hình ra sao mà sự phê phán bây giờ lại bị lôi cuốn vào trong lợi ích "chính trị của quần chúng", mà nó thậm chí" (!)... "phải"(!)... "làm chính trị" (!)

Theo nhà thần học Bau-ơ thì hình như hoàn toàn hiển nhiên là sự phê phán phải vĩnh viễn nghiên cứu thần học tư biện,, tức "sự phê phán" đã được nhân cách hoá, vốn là một nhà thần học ex professo. Còn như phải làm chính trị ? Điều này phải giải thích bằng những hoàn cảnh hoàn toàn riêng biệt, chính trị và cá nhân.

Tại sao "sự phê phán" thậm chí phải làm chính trị nhỉ? "Nó đã bị tố cáo - đó là câu giải đáp cho vấn đề". Ít ra lời giải cho "bí mật" của "chính trị của Bau-ơ" cũng là ở chỗ này, ít ra cũng sẽ không thể gọi cái bề ngoài đó - cái bề ngoài dùng liên từ "và" để gắn liền "sự nghiệp tự do" của quần chúng với "sự nghiệp của bản thân Bau-ơ trong "Sự nghiệp chính nghĩa của tự do và sự nghiệp của bản thân tôi" của Bru-nô Bau-ơ - là phi chính trị. Nhưng nếu sự phê phán tiến hành không phải "sự nghiệp của mình" vì lợi ích của chính trị mà là làm chính trịlợi ích của sự nghiệp của mình thì phải thừa nhận rằng không phải là chính trị đã lừa gạt sự phê phán, mà trái lại, chính sự phê phán đã lừa gạt chính trị.

Như thế thì Bru-nô Bau-ơ phải bị đuổi khỏi giảng đàn thần học của ông ta: ông ta đã bị tố cáo. "Sự phê phán" đã từng buộc phải làm chính trị, nghĩa là nó phải tự kiện "mình", tức kiện Bru-nô Bau-ơ. Không phải ông Bau-ơ đã kiện sự phê phán mà chính là "sự phê phán" đã kiện ông Bau-ơ. Tại sao "sự phê phán" phải tự kiện mình nhỉ"

"Để tự bào chữa chăng ?" Có lẽ như thế đấy. Nhưng "sự phê phán" hoàn toàn không chỉ vẻn vẹn bó hẹp ở cái động cơ cá nhân và trần tục đó. Hãy cho là như thế. nhưng không chỉ vì thế, mà "chủ yếu là để bóc trần mâu thuẫn của những kẻ địch của nó", vả lại - sự phê phán có thể nói thêm - còn là để soạn thành một cuốn sách, tất cả những luận văn cũ phản đối các nhà thần học đủ màu sắc, như cuộc đấu khẩu dài dòng của nó với Plăng-cơ, cuộc cãi cọ trong nhà giữa nhà thần học "Bau-ơ" và nhà thần học "Stơ-rau-xơ".

Do thừa nhận lợi ích chân thực của "chính trị" của mình, sự phê phán tuyệt đối đã cảm thấy thoải mái trong lòng, và khi hồi tưởng lại vụ "kiện tụng" của nó, nó lại nhai lại thức ăn nhai lại cũ của Hê-ghen mà nó đã từng nhai đi nhai lại bằng đủ mọi cách trong "Sự nghiệp chính nghĩa của tự do" : "sự vật cũ đối lập với sự vật mới trên thực tế không còn là sự vật cũ nữa" (xem Cuộc đấu tranh giữa triết học khai sáng và tín ngưỡng trong "Hiện tượng học"; xem toàn bộ "Hiện tượng học"). Sự phê phán có tính phê phán là loại nhai lại. Sự phê phán thường xuyên hâm lại cơm thừa canh cặn của Hê-ghen, như những luận điểm về "sự vật mới" và "sự vật cũ" vừa nói trên hoặc "một cực phát triển lên từ cực đối lập với nó", v.v.; ngoài việc nhờ đến "sự uể oải" của giáo sư Hin-rích, nó chưa hề cảm thấy cần thiết phải dùng phương pháp nào khác để thanh toán "phép biện chứng tư biện". Nhưng nó không ngừng dùng biện pháp lắp lại Hê-ghen để vượt qua Hê-ghen "một cách có phê phán", chẳng hạn:

"Sự phê phán xuất hiện trên vũ đài và ban cho sự nghiên cứu một hình thức mới, tức hình thức đã không đến nỗi biến thành sự hạn chế bên ngoài", v.v..

Nếu tôi làm cho một vật nào đó biến hoá thì như thế là tôi làm cho nó biến đổi về bản chất thành một vật khác. Vì mỗi một hình thức đồng thời cũng là "sự hạn chế bên ngoài", cho nên bất kể hình thức nào cũng đều không "đến nỗi" biến thành "sự hạn chế bên ngoài", giống như quả táo không đến nỗi "biến thành" quả táo. Vả lại, do những nguyên nhân khác hẳn, hình thức mà "sự phê phán" ban cho sự nghiên cứu cũng không đến nỗi biến thành "sự hạn chế bên ngoài" vì vượt ra ngoài phạm vi của mọi "sự hạn chế bên ngoài", sự phê phán sẽ biến đi trong sương mù xám ngắt của sự phi lý.

"Nhưng, nếu sự vật cũ... đã nghiên cứu, về mặt lý luận, vấn đề cùng tồn tại hoặc không cùng tồn tại thì nó" (cuộc đấu tranh giữa cũ và mới) "không thể xảy ra lúc bấy giờ" (tức là sự phê phán "ban cho" sự nghiên cứu một "hình thức mới").

Tại sao sự vật cũ lại không nghiên cứu vấn đề đó về mặt lý luận nhỉ ? Vì "ngay từ đầu nó tuyệt nhiên không thể làm được điều đó, vì lúc bất thình lình, tức vừa mới bắt đầu, nó "vừa không hiểu mình, vừa không hiểu sự vật mới", nghĩa là nó vừa chưa nghiên cứu mình cũng chưa nghiên cứu sự vật mới về mặt lý luận. Như vậy, cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới không thể xảy ra nếu chẳng may mà ngay cả cái "không thể" đó cũng không thể có được !

Khi "nhà phê phán" của Viện thần học tiến lên "thừa nhận" rằng ông ta "cố tình phạm lỗi một cách có tính toán trước", rằng ông ta "vẫn cứ mắc sai lầm theo ý thích của mình sau khi đã suy nghĩ chín chắn" (đối với sự phê phán thì mọi cái mà nó đã trải qua, mà nó đã thể nghiệm hoặc đã làm, đều đã biến thành sản phẩm tự do, thuần tuý của sự phản tư của nó, do nó sáng tạo ra một cách có tính toán trước) thì sự thừa nhận ấy của nhà phê phán chỉ có một "bề ngoài không hoàn thiện" của chân lý. Vì "Sự phê phán những tác giả phúc âm giống nhau"47 là hoàn toàn xây dựng trên cơ sở thần học, vì nó hoàn toàn là sự phê phán có tính thần học, cho nên giảng viên thần học Bau-ơ có thể biên soạn và giảng dạy thần học mà "vừa không mắc tội lỗi vừa không mắc sai lầm". Trái lại, kẻ mắc tội lỗi và kẻ mắc sai lầm là Viện thần học, vì Viện thần học, không hiểu ông Bau-ơ đã thực hiện nghiêm chỉnh như thế nào lời hứa mà ông ta đưa ra trong lời nói đầu cuối "Sự phê phán các sách phúc âm giống nhau", quyển I, tr. XXIII:

"Nếu cả trong quyển thứ nhất, sự phủ định cũng còn có thể biểu hiện quá ư táo bạo và quá ư nóng nảy thì chúng ta sẽ liên tưởng đến cái khẳng định chân chính chỉ có thể nảy sinh ra sau sự phủ định phổ biến và trịnh trọng... Cuối cùng sẽ thấy rõ: chỉ có sự phê phán tàn khốc nhất trên thế giới mới làm cho chúng ta nhận thức được sức sáng tạo  của Giê-su và của nguyên tắc của Giê-su".

Để xoá bỏ mọi bề ngoài mập mờ nước đôi của ý nghĩa tích cực của lời hứa của mình, ngài Bau-ơ cố tình tách rời chúa "Giê-su" với "nguyên tắc" của Giê-su. Trên thực tế, ngài Bau-ơ đã miêu tả sức "sáng tạo" của chúa Giê-su và của nguyên tắc của chúa một cách cụ thể đến nỗi kết quả là cả "tự ý thức vô hạn""tinh thần" của Bau-ơ cũng thành ra không phải là gì khác mà là vật sáng tạo của đạo Cơ Đốc.

Cuộc tranh luận giữa sự phê phán có tính phê phán và Viện thần học Bon hãy cứ giải thích một cách khá đầy đủ cái "chính trị" lúc bấy giờ của sự phê phán đi; nhưng tại sao sau khi kết thúc cuộc tranh luận đó, nó còn tiếp tục làm chính trị nhỉ? Xin nghe câu trả lời sau đây:

"Đạt tới điểm đó, sự phê phán vốn dĩ phải hoặc là dừng lại, hoặc là lập tức tiến lên nghiên cứu bản chất của chính trị, coi nó là kẻ địch của mình, - chỉ cần là sự phê phán có thể dừng lại giữa cuộc đấu tranh lúc đó, mặt khác, chỉ cần là không có quy luật lịch sử quá khắt khe, quy luật mà căn cứ vào đó, cái nguyên tắc lần đầu tiên thể nghiệm lực lượng của mình trong cuộc đấu tranh với mặt đối lập của mình tất phải để cho mặt đối lập của mình đè bẹp mình...".

Lời biện hộ hay tuyệt ! "Sự phê phán phải dừng lại" chỉ cần là có thể..." có thể dừng lại" ! Ai "phải" dừng lại? Ai phải làm bằng được cái sự việc "không thể..." làm được? Mặt khác ! Sự phê phán phải tiến lên, "mặt khác, chỉ cần là không có quy luật lịch sử quá khắt khe", v.v.. Quy luật lịch sử cũng "quá khắt khe" với sự phê phán tuyệt đối! Nếu quy luật đó không đứng về phía trái lại thì sự phê phán có tính phê phán đã tiến lên một cách vẻ vang biết chừng nào ! Tuy nhiên à la guerre comme à la guerre !1* Trong lịch sử, sự phê phán tất phải để cho mình trở thành "lịch sử" đáng buồn !

"Nếu sự phê phán" (vẫn ông Bau-ơ ấy) "phải... thì vẫn không thể không đồng thời thừa nhận rằng khi hưởng ứng loại yêu cầu đó" (tức chính trị) "nó bao giờ cũng cảm thấy mình không tin tưởng, và do những yêu cầu đó, nó đã phát sinh mâu thuẫn với những nhân tố chân chính của nó, - mâu thuẫn này chính là đã được giải quyết, trong những nhân tố đó".

Quy luật lịch sử quá khắt khe đã buộc sự phê phán phải chịu những nhược điểm chính trị, nhưng - nó cầu khẩn rằng - người ta không thể không đồng thời thừa nhận rằng nếu nó không vượt được những nhược điểm đó trong thực tế thì dù sao nó cũng đã vượt được trong bản thân nó. Một là, nó đã khắc phục được những nhược điểm đó "trong tình cảm", vì rằng "nó bao giờ cũng cảm thấy mình không tin tưởng đối với những yêu cầu đó", nó cảm thấy mình kém cỏi về mặt chính trị, ngay bản thân nó cũng không biết chính trị là gì nữa. Hơn nữa ! Nó đã sinh ra mâu thuẫn với những nhân tố chân chính của nó. Sau hết - điều này cũng là điều quan trọng nhất - mâu thuẫn sinh ra giữa nó và nhân tố chân chính của nó không phải là được giải quyết trong quá trình phát triển của nó, mà trái lại "đã được" giải quyết trong những nhân tố chân chính của nó, những nhân tố tồn tại độc lập bên ngoài mâu thuẫn. Những nhân tố phê phán đó có thể nói về  bản thân mình một cách tự hào: khi A-bra-ham còn chưa sinh ra, chúng tôi đã có ở trên đời rồi. Khi sự phát triển còn chưa sinh ra mặt đối lập của chúng tôi thì nó, cái mặt đối lập còn chưa sinh ra đó, đã được giải quyết, đã chết đi, đã diệt vong, đã yên nghỉ trong lòng hỗn độn của chúng tôi rồi. Vì mâu thuẫn giữa sự phê phán và những nhân tố chân chính của nó "đã được giải quyết" trong những nhân tố chân chính của sự phê phán rồi, và vì mâu thuẫn đã được giải quyết không phải là mâu thuẫn nữa, cho nên nói cho đúng hơn, sự phê phán hoàn toàn không mâu thuẫn với những nhân tố chân chính của nó, không mâu thuẫn với chính mình - như vậy mục đích chung của sự tự biện hộ dường như đã đạt được rồi.

Sự tự biện hộ của sự phê phán tuyệt đối có sẵn cả một từ vựng biện hộ:

"Vốn dĩ cũng không", "có điều là không được coi trọng", "huống hồ, còn có", "còn chưa hoàn toàn", "mặc dù - nhưng", "không những, mà chủ yếu là", "kỳ thực", cũng vậy, chỉ là, "sự phê phán vỗn dĩ phải, miễn là có thể, đồng thời, mặt khác", "nếu như... thì dù sao cũng vẫn không thể không đồng thời thừa nhận", "chẳng lẽ điều đó không phải là rất tự nhiên ư, chẳng lẽ điều đó không phải là không tránh  được ư", "cũng vậy, không"... v.v..

Cách đây không lâu, sự phê phán tuyệt đối còn dùng những câu dưới đây để diễn đạt những lời biện hộ tương tự:

"Tuy nhiên" và "nhưng mà", "thật vậy" và "thế nhưng", "không" trên trời và "có" dưới đất - đó là những trụ cột của thần học mới nhất, là chiếc cà khoeo nó dùng để ngang nhiên đi những bước dài, là trò ảo thuật chỉ có ở toàn bộ trí tụê của nó, là cách nói lặp đi lặp lại trong mọi cách nói của nó, là an-pha và ô-mê-ga của nó" ("Đạo Cơ Đốc bị vạch trần", tr. 102).

 



43 Đây là đầu đề của một bài báo của Bau-ơ đăng trên "Allgemeine Literatur-Zeitung" số 8 (tháng Bảy 1844). Hầu hết những lời trích dẫn mà Mác rút ở tờ "Allgemeine Literatur-Zeitung" để đưa vào mục "Cuộc chinh phạt thứ ba của sự phê phán tuyệt đối" đều trích ở bài báo này.

44 "Deutsche Jahrbücher"  là tên gọi tắt của tạp chí văn nghệ, triết học của phái Hê-ghen trẻ: "Deutsche Jahrbücher für Wissenschaft und Kunst" ("Niên giám nước Đức về các vấn đề khoa học và nghệ thuật"). Tạp chí này xuất bản từ tháng Bảy 1841 ở Lai-pxích, do A.Ru-gơ là chủ bút. Trước đó (từ 1838 đến 1841) tạp chí này đã xuất bản dưới tên gọi "Hallische Jahrbücher für deutsche Wissenschaft und Kunst" ("Niên giám Ha-lơ về khoa học và nghệ thuật Đức"). Vì "Hallische Jahrbücher" ("Niên giám Ha-lơ") bị đe doạ cấm phát hành ở Phổ nên ban biên tập chuyển từ Ha-lơ sang Dắc-den và đổi tên tờ tạp chí. Tháng Giêng 1843, chính phủ Dắc-den đóng cửa tạp chí "Deutsche Jahrbücher", đồng thời Nghị viện liên bang quyết định cấm xuất bản tạp chí đó trong toàn quốc Đức.

45 "Rheinische Zeitung für Politik, Handel und Gewerbe" ("Nhật báo tỉnh Ranh về các vấn đề chính trị, thương mại và công nghiệp") là báo ra hằng ngày xuất bản ở Khuên từ tháng Giêng 1842 đến 31 tháng Ba 1843. Tờ báo do đại biểu của giai cấp tư sản miền Ranh sáng lập, có tinh thần chống đối chính thể chuyên chế Phổ. Tờ báo đã thu hút được sự cộng tác của một số phần tử thuộc phái Hê-ghen trẻ. Tháng Tư 1842 Mác bắt đầu cộng tác với "Rheinische Zeitung" và từ tháng Mười năm ấy, Mác tham gia vào ban biên tập. Nhiều bài báo của Ăng-ghen cũng đã được đăng trên "Rheinische Zeitung". Thời gian Mác ở trong ban biên tập, tờ báo đó ngày càng có tính chất dân chủ cách mạng rõ rệt. về sau "Rheinische Zeitung" đã phải đình bản vì sự kiểm duyệt gắt gao của chính phủ

46 B.Bauer, "Das entdeckte Christenthum". Zürich und Winterthur, 1843.

1* - ra trận thì phải xử sự như ở mặt trận!

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt