Phần thứ hai KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC
V. LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ
FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)
C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004. | Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh.
Cách đây gần một trăm năm, ở Lai-pxích đã ra đời một cuốn sách, cho đến đầu thế kỷ này, đã được in lại trên ba mươi lần và đã được các nhà chức trách, những người giảng đạo, những nhà từ thiện đủ mọi loại, phổ biến, phân phát ở thành thị và nông thôn, và đâu đâu cũng được chỉ định làm sách tập đọc cho học sinh các trường sơ cấp. Cuốn sách đó tên là: "Người bạn của trẻ em", tác giả là Rô-khốp[1]. Cuốn sách đó có mục đích dạy bảo cho con em của nông dân và thợ thủ công, về sứ mệnh của cuộc đời của chúng, và về bổn phận của chúng đối với bề trên trong xã hội và nhà nước, đồng thời đưa lại cho chúng một sự hài lòng tốt lành đối với số phận của chúng ở dưới trần gian với bánh mì đen và khoai tây, với lao dịch, tiền công thấp, những roi vọt của bố mẹ và những điều thú vị khác cùng loại như thế, và để dạy tất cả những điều đó người ta đã dùng những tư tưởng của phong trào khái sáng đang thịnh hành hồi đó. Nhằm mục đích đó, người ta giải thích cho thanh niên ở thành thị và nông thôn thấy rằng sự xếp đặt của tự nhiên thật khôn ngoan biết bao khi buộc con người ta phải lao động để kiếm những phương tiện sinh sống và những thú vui, và do đó, người nông dân và thợ thủ công phải cảm thấy sung sướng biết bao khi số phận cho phép anh ta dùng lao động đắng cay để điểm thêm gia vị cho bữa ăn của mình, chứ không phải khổ như những kẻ tham ăn giàu có phải đau dạ dày, trúng thực, hay táo bón và phải khổ tâm nuốt những món ăn ngon nhất. Chính những điều đã nhàm tai đó, - những điều mà lão Rô-khốp coi là khá tốt đối với những thanh niên nông dân xứ Xắc-xông của thời ông ta là những điều mà ông Đuy-rinh đưa ra cho chúng ta ở trang 14 và những trang sau trong tập "Bài giảng" của ông ta, coi đó là một yếu tố "tuyệt đối cơ bản" của khoa kinh tế chính trị mới nhất. "Những nhu cầu của con người, với tư cách là những nhu cầu như thế, đều có những quy luật tự nhiên của chúng, và về mặt phát triển đều bị đặt vào trong những giới hạn mà người ta chỉ có thể nhất thời vượt qua được bằng những hành động trái tự nhiên, cho đến lúc xảy ra sự ghê tởm, sự chán đời, sự già nua, sự tàn phế về mặt xã hội và rốt cuộc là sự tiêu vong một cách tốt lành... Một trò chơi chỉ gồm có những sự thích thú thuần tuý mà không có một mục đích nghiêm túc nào khác, sẽ đưa ngay đến tình trạng chán chường, hay điều này cũng thế, đưa đến chỗ tiêu dùng hết tất cả mọi khả năng thụ cảm. Vậy lao động thực sự, dưới một hình thức nào đó, là quy luật xã hội tự nhiên của những con người lành mạnh... Nếu những bản năng và những nhu cầu không gặp một đối lực, thì chưa chắc chúng đã đem lại được một cuộc sống thô sơ kiểu trẻ con, chứ đừng nói gì đến một sự phát triển của cuộc sống vươn lên theo lịch sử nữa. Nếu như chúng được thoả mãn hoàn toàn mà không phải khó nhọc gì, thì chẳng bao lâu chúng sẽ cạn dần đi và để lại sau chúng một cuộc sống trống rỗng dưới hình thức những quãng thời gian buồn nản cho đến lúc những nhu cầu đó trở lại... Do đó về mọi mặt, việc thoả mãn những bản năng và dục vọng phải phụ thuộc vào sự khắc phục một chướng ngại kinh tế nào đó, là một quy luật cơ bản tốt lành của cái kết cấu bên ngoài của giới tự nhiên, cũng như bản tính bên trong của con người" v.v. và v.v.. Như người ta thấy đấy, những điều tầm thường nhạt nhẽo nhất của ngài Rô-khốp đáng kính đang ăn mừng lễ kỷ niệm một trăm năm của chúng ở trong cuốn sách của ông Đuy-rinh, và hơn nữa, lại được đề lên thành một "cơ sở sâu xa hơn" của cái "hệ thống xã hội chủ nghĩa" duy nhất thực sự có tính chất phê phán và khoa học. Sau khi đã đặt một cơ sở như thế, ông Đuy-rinh có thể tiếp tục xây dựng. áp dụng phương pháp toán học, trước hết ông đã đưa cho chúng ta, theo phương pháp của ông già Ơ-clít, một loạt định nghĩa[2]. Và điều càng thuận tiện hơn nữa là ông ta có thể ngay từ đầu xây dựng những định nghĩa của mình như thế nào để cho những điều mà những định nghĩa đó phải chứng minh, một phần đã được chứa đựng trong những định nghĩa đó rồi. Ví dụ, trước hết chúng ta biết rằng, khái niệm chủ đạo của khoa kinh tế chính trị từ trước đến nay được gọi là của cải, và của cải - như người ta đã thực tế hiểu nó trong lịch sử thế giới cho đến ngày nay, và như nó đã phát triển cái vương quốc của nó - chính là "thế lực kinh tế đối với người và đồ vật". Điều này hai lần không đúng. Một là, của cải của những công xã thị tộc hay công xã nông thôn thời cổ quyết không phải là một sự thống trị đối với con người. Và hai là, ngay cả trong những xã hội vận động trong những mâu thuẫn giai cấp, trong chừng mực mà của cải bao hàm một sự thống trị đối với con người, thì nó vẫn chủ yếu là và hầu như chỉ là một sự thống trị đối với con người do sự thống trị đối với vật và thông qua sự thống trị đối với vật. Ngay từ những thời kỳ rất sớm, khi mà việc bắt nô lệ và việc bóc lột nô lệ là hai ngành hoạt động tách rời nhau, thì những kẻ bóc lột lao động nô lệ đã buộc phải mua nô lệ, nghĩa là phải tậu được sự thống trị đối với người chỉ bằng cách là thông qua sự thống trị đối với vật, đối với giá mua người nô lệ, đối với những tư liệu sinh hoạt và lao động của người nô lệ. Trong suốt thời trung cổ, chế độ chiếm hữu ruộng đất là tiền đề nhờ nó mà giai cấp quý tộc phong kiến có thể chi phối được những nông dân nộp tô và làm lao dịch. Và ngay cả hiện nay, một đứa trẻ lên sáu cũng thấy được rằng của cải thống trị được con người chỉ là nhờ vào đồ vật mà của cải nắm được. Nhưng tại sao ông Đuy-rinh lại phải tạo ra cái định nghĩa sai đó, tại sao ông ta lại phải cắt đứt mối dây liên hệ thực sự tồn tại trong tất cả mọi xã hội có giai cấp từ trước đến nay? ấy là để kéo của cải từ lĩnh vực kinh tế sang lĩnh vực đạo đức. Thống trị các đồ vật là rất tốt; nhưng thống trị con người là một điều ma quái, và vì ông Đuy-rinh đã tự cấm mình không được giải thích sự thống trị người bằng sự thống trị đồ vật, cho nên ông ta lại có thể thực hiện một bước táo bạo khác và không ngần ngại giải thích luôn sự thống trị đó bằng cái bạo lực yêu thích của ông ta. Của cải mà thống trị con người là sự "cướp bóc", và như thế là chúng ta lại có sự tái bản tồi tệ hơn câu châm ngôn cũ kỹ của Pru-đông: "Sở hữu là sự ăn cắp"[3]. Bằng cách đó chúng ta đã đưa được một cách may mắn của cải vào hai quan điểm cơ bản là sản xuất và phân phối: của cải là sự thống trị đối với đồ vật, của cải sản xuất, đó là mặt tốt; của cải là sự thống trị con người, của cải phân phối tồn tại từ trước đến nay, đó là mặt xấu, đả đảo của cải đó! Đem áp dụng vào những quan hệ hiện nay, điều đó có nghĩa là: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn tốt và có thể tiếp tục tồn tại, nhưng phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa thì không ra sao cả, phải loại bỏ đi. Người ta có thể đi đến một điều vô nghĩa như thế đấy khi viết về kinh tế mà không hiểu ngay cả mối liên hệ giữa sản xuất và phân phối. Sau khi nói về của cải, người ta lại định nghĩa giá trị như sau: "Giá trị là trị giá mà các vật kinh tế và những sự phục vụ kinh tế có được trong việc giao dịch". Trị giá ấy phù hợp "với giá cả và với bất cứ một tên gọi nào khác của vật ngang giá, ví dụ như tiền công chẳng hạn". Nói một cách khác, giá trị là giá cả. Hay nói cho đúng hơn - để khỏi bất công đối với ông Đuy-rinh và để cố trình bày lại điều vô nghĩa trong định nghĩa của ông ta bằng những lời của chính ông ta thì: giá trị, đó là những giá cả. Vì ở trang 19, ông ta nói: "giá trị và những giá cả biểu hiện giá trị đó bằng tiền", do đó, bản thân ông ta cũng nhận thấy rằng cũng một giá trị ấy lại có nhiều giá cả rất khác nhau, và do đó cũng có bấy nhiêu giá trị khác nhau. Nếu Hê-ghen không chết từ lâu rồi thì Hê-ghen sẽ tự treo cổ mà chết! Cái giá trị đó có bao nhiêu giá cả thì có bấy nhiêu giá trị khác nhau - cái giá trị đó, với toàn bộ khoa thần học lô-gích của mình, Hê-ghen cũng sẽ không thể nào nghĩ ra được. Một lần nữa, lại cần phải có lòng tự tin như ông Đuy-rinh mới có thể mở ra một cơ sở mới, sâu sắc hơn, của khoa kinh tế bằng lời tuyên bố cho rằng giữa giá cả và giá trị không có sự khác nhau nào ngoài việc một cái thì được biểu hiện bằng tiền và một cái thì lại không được biểu hiện bằng tiền. Nhưng như thế chúng ta cũng vẫn không biết giá trị là cái gì và càng không biết là giá trị được quy định bởi cái gì. Vì vậy, ông Đuy-rinh đưa ra nhiều giải thích khác nữa. "Dưới dạng hoàn toàn chung của nó, quy luật cơ bản về sự so sánh và sự đánh giá, làm cơ sở cho giá trị và những giá cả biểu hiện giá trị đó bằng tiền, trước hết nằm trong lĩnh vực sản xuất thuần tuý, không kể đến sự phân phối là cái chỉ mang đến một yếu tố thứ hai trong khái niệm giá trị. Những chướng ngại ít nhiều to lớn mà sự khác nhau về những điều kiện tự nhiên đưa ra chống lại những cố gắng của người ta nhằm sản xuất những đồ vật, và do chúng mà sự khác nhau nói trên đã buộc người ta phải tiêu phí nhiều hay ít lực lượng kinh tế, - những chướng ngại đó cũng quyết định... một giá trị lớn hay nhỏ". Và giá trị này được đánh giá theo "chướng ngại mà tự nhiên và những hoàn cảnh đưa ra chống lại việc sản xuất... Quy mô của sức lực chúng ta đã bỏ vào chúng" (vào những đồ vật)" là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự tồn tại của giá trị nói chung và của một đại lượng đặc biệt nào đó của nó". Nếu tất cả những điều đó có một ý nghĩa nào đó, thì ý nghĩa đó là thế này: giá trị của một sản phẩm của lao động là do thời gian lao động cần thiết để làm ra sản phẩm đó quyết định, và chẳng cần phải có ông Đuy-rinh chúng ta cũng đã biết điều đó từ lâu rồi. Đáng lẽ chỉ nêu sự việc ra một cách đơn giản, thì ông ta lại nhất thiết phải bóp méo sự việc đó theo kiểu nhà tiên tri. Nói rằng quy mô sức lực mà một người nào đó đã bỏ vào một vật gì đó (đây là muốn giữ cái cách nói hoa mỹ đó) là nguyên nhân quyết định trực tiếp giá trị và đại lượng giá trị, nói thế là hoàn toàn sai. Trước hết, tất cả vấn đề là ở chỗ sức lực được bỏ vào cái gì, và hai là nó được bỏ vào như thế nào. Nếu cái anh chàng nào đó của chúng ta làm ra một đồ vật không có một giá trị sử dụng nào cho người khác cả, thì tất cả sức lực của anh ta cũng không tạo ra một nguyên tử giá trị nào cả; và nếu anh ta cứ khăng khăng một mực dùng tay để làm ra một đồ vật mà một chiếc máy làm ra vẻ gấp hai mươi lần, thì 19/20 của sức lực mà người ấy đã bỏ ra sẽ không tạo ra giá trị nói chung, cũng chẳng tạo ra một đại lượng đặc biệt nào của giá trị. Tiếp nữa, biến lao động sản xuất, lao động tạo ra những sản phẩm tích cực thành một sự khắc phục đơn thuần tiêu cực một sự chống đối nào đó, như thế là hoàn toàn bóp méo sự vật. Lúc đó, muốn có một chiếc sơ-mi, thì đại khái chúng ta phải làm như sau: trước hết, chúng ta khắc phục sự chống đối của hạt bông đối với việc bị gieo và việc mọc lên, sau đó lại khắc phục sự chống đối bông chín đối với việc bị hái, bị đóng thành kiện và bị gửi đi; rồi sau đó khắc phục sự chống đối của nó đối với việc tháo kiện ra, việc cung bông và xe thành sợi, tiếp nữa là sự chống đối của sợi đối với việc dệt, sự chống đối của vải đối với việc tẩy trắng và việc khâu và cuối cùng, sự chống đối của chiếc sơ-mi đã khâu xong đối với việc bị người ta mặc. Tất cả những sự vặn vẹo và xuyên tạc có tính chất trẻ con để làm gì? Để thông qua "sự chống đối" đi từ "giá trị sản xuất", giá trị thực sự, nhưng cho đến đây chỉ là một giá trị trên ý niệm, đến "giá trị phân phối" là giá trị thống trị một cách tuyệt đối trong lịch sử từ trước đến nay và đã bị bạo lực xuyên tạc đi: "Ngoài sự chống đối của tự nhiên ra... còn có một chướng ngại khác nữa, thuần tuý có tính chất xã hội... Giữa con người và tự nhiên, có một lực lượng kìm hãm và lực lượng đó lại là con người. Một con người đơn độc và cô lập trong tưởng tượng là một người tự do đối với tự nhiên... Tình hình sẽ khác đi một khi chúng ta quan niệm một người thứ hai, người này, với chiếc kiếm trong tay, chiếm giữ những con đường tiến tới tự nhiên và những tài nguyên của tự nhiên, và đòi một giá cả dưới một hình thức nào đó mới cho đi qua. Người thứ hai đó... như thế là đánh thuế người kia, và do đó là nguyên nhân làm cho giá trị của đồ vật mong muốn trở thành lớn hơn là trong trường hợp không có cái chướng ngại chính trị và xã hội ấy chống lại việc khai thác hay sản xuất ra nó... Những hình thức đặc biệt của cái trị giá đã được nâng cao một cách giả tạo ấy của đồ vật thì hết sức nhiều vẻ, và dĩ nhiên là trị giá này phản ánh trở lại trong việc hạ thấp một cách tương ứng trị giá của lao động... Vì vậy thật là ảo tưởng nếu chưa chi đã muốn coi giá trị là một vật ngang giá theo nghĩa đen của danh từ đó, nghĩa là như một cái trị giá tương đương hay như một quan hệ trao đổi theo nguyên tắc một công việc nhất định và công việc được đem trao đổi với nó, phải ngang nhau. Trái lại, dấu hiệu của một lý luận chính xác về giá trị là tình hình sự đánh giá chung nhất bao hàm trong lý luận đó, sẽ không phù hợp với hình thức đặc biệt của trị giá dựa trên sự phân phối có tính chất cưỡng bức. Hình thức đó thay đổi theo cơ cấu xã hội, còn giá trị kinh tế theo đúng nghĩa đen của nó thì chỉ có thể là một giá trị sản xuất được đo lường đối với tự nhiên, và vì vậy mà chỉ thay đổi theo những chướng ngại có tính chất thuần tuý sản xuất thuộc loại tự nhiên và kỹ thuật". Như vậy là theo ông Đuy-rinh, giá trị tồn tại trong thực tiễn - của một vật, gồm có hai phần: một là, gồm lao động chứa đựng trong vật đó và hai là, một khoản thuế phụ thêm có tính chất cưỡng bức, thu được với "chiếc kiếm trong tay". Nói một cách khác, giá trị hiện hành là một giá cả độc quyền. Nhưng nếu, theo lý luận đó về giá trị, tất cả mọi hàng hoá đều có một giá trị độc quyền như vậy, thì chỉ có thể có hai trường hợp. Hoặc là mỗi người với tư cách là người mua thì đều mất cái mà người ấy được với tư cách là người bán; cố nhiên là các giá cả đã thay đổi trên danh nghĩa, nhưng trên thực tế - trong quan hệ qua lại giữa chúng - thì các giá cả vẫn ngang nhau; mọi việc đều y nguyên như cũ và cái giá trị phân phối nổi tiếng kia sẽ chỉ là một ảo tưởng. Hoặc là những cái gọi là những khoản thuế phụ thêm biểu hiện một số giá trị thực tế, cụ thể là số giá trị do giai cấp lao động làm ra giá trị, sản xuất ra, nhưng lại bị giai cấp độc quyền chiếm đoạt, và lúc đó số giá trị đó chỉ gồm có lao động không được trả công; trong trường hợp đó, bất chấp con người có chiếc kiếm trong tay, bất chấp những khoản thuế phụ thêm có tính chất tưởng tượng và cái gọi là giá trị phân phối, chúng ta cũng lại vẫn đi đến... lý luận về giá trị thặng dư của Mác. Tuy nhiên, chúng ta cũng hãy cứ xem xét kỹ một vài ví dụ về cái "giá trị phân phối" trứ danh đó. ở trang 135 và những trang tiếp theo, có nói: "Cũng cần phải xem việc hình thành giá cả thông qua sự cạnh tranh cá nhân là một hình thức phân phối kinh tế và hình thức bắt phải nộp cống vật cho nhau... Chúng ta hãy hình dung rằng dự trữ của một số hàng hoá cần thiết nào đó bỗng nhiên giảm đi rất nhiều, thành thử về phía người bán xuất hiện khả năng bóc lột quá đáng... Sự tăng giá có thể đạt tới những quy mô khổng lồ như thế nào, thì những trường hợp bất thường, khi việc cung cấp những vật phẩm cần thiết bị ngừng lại trong một thời gian khá lâu, đặc biệt cho ta thấy rõ" v.v... Ngoài ra, ngay trong tiến trình bình thường của sự vật, cũng có những độc quyền thực tế cho phép tăng giá cả lên, một cách tuỳ tiện, ví dụ như đường sắt, các công ty cung cấp nước và khí đốt đèn cho thành phố, v.v.. Có những trường hợp bóc lột độc quyền như thế, đó là điều mà người ta biết từ lâu rồi. Nhưng việc những giá cả độc quyền do những trường hợp đó gây ra không được coi như là những ngoại lệ và thuộc trường hợp đặc biệt, mà được coi như là những ví dụ cổ điển về phương thức hiện nay người ta quy định giá trị, thì đó là điều mới mẻ. Giá cả những tư liệu sinh hoạt được quy định như thế nào? Ông Đuy-rinh trả lời: Hãy vào một thành phố bị bao vây, ở đó việc cung cấp đã bị cắt đứt, và hỏi thì sẽ biết! Sự cạnh tranh tác động đến việc quy định giá cả thị trường như thế nào? Hãy hỏi tổ chức độc quyền, nó sẽ trả lời cho! Vả lại, ngay trong những trường hợp các tổ chức độc quyền ấy người ta cũng không thể tìm ra được người với chiếc kiếm trong tay, người này dường như đứng sau các tổ chức độc quyền ấy. Trái lại, trong những thành phố bị bao vây, người với chiếc kiếm trong tay, tức là viên chỉ huy, nếu làm nghĩa vụ của mình, thì lại thường chấm dứt rất nhanh tình trạng độc quyền đó và tịch thu tất cả các kho có tính chất độc quyền để đem chia đều. Trong những trường hợp khác, một khi định tạo ra một "giá trị phân phối" thì những người với chiếc kiếm trong tay cũng chỉ gặt được những chuyện làm ăn thất bại và mất tiền của mà thôi. Bằng việc độc quyền hoá ngành thương nghiệp Đông ấn, người Hà Lan đã đưa độc quyền và thương nghiệp của mình đến chỗ diệt vong. Hai chính phủ mạnh nhất từ xưa đến nay là chính phủ cách mạng của Bắc Mỹ và Hội nghị quốc ước Pháp đã dám quy định những giá cả tối đa và đã thất bại thảm hại. ĐÃ nhiều năm nay Chính phủ Nga, để nhằm mục đích nâng cao thị giá của đồng tiền giấy của Nga - mà ở nước Nga họ đánh sụt xuống bằng cách không ngừng phát hành những giấy bạc ngân hàng không thể đổi lấy bảo kim được, - bằng cách cũng không ngừng mua như thế ở Luân Đôn những hối phiếu phát vào nước Nga. Kết quả là trong có vài năm điều thích thú đó đã làm Chính phủ Nga tốn đến 60 triệu rúp, và bây giờ thị giá của đồng rúp tụt xuống dưới hai mác, chứ không phải hơn ba mác. Nếu cây kiếm có một sức mạnh kinh tế thần diệu như ông Đuy-rinh gán cho nó, thế thì tại sao không một chính phủ nào có thể bắt buộc được đồng tiền mất giá phải có "giá trị phân phối" của đồng tiền giá cao trong một thời gian lâu dài, hay bắt buộc tiền giấy phải có giá trị phân phối của vàng? Thế thì cây kiếm chỉ huy trên thị trường thế giới ở đâu? Tiếp nữa, còn có một hình thức chủ yếu nữa trong đó giá trị phân phối được dùng để chiếm hữu lao động của người khác mà không phải trả lại bằng một lao động nào: đó là địa tô tài sản, nghĩa là địa tô và lợi nhuận của tư bản. Tạm thời, chúng ta chỉ nêu sự việc đó để có thể nói rằng đó là tất cả những gì chúng ta được biết về cái "giá trị phân phối" trứ danh ấy. - Tất cả ư? Không phải là hoàn toàn tất cả đâu. Chúng ta hãy nghe điều sau đây: "Mặc dù có hai quan điểm trong việc thừa nhận một giá trị sản xuất và một giá trị phân phối, nhưng luôn luôn vẫn còn một cái gì chung làm cơ sở, với tư cách là một đồ vật, cấu thành tất cả mọi giá trị, và vì vậy mọi giá trị cũng được đo bằng cái đó. Thước đo trực tiếp, tự nhiên, là sự tiêu phí sức lực và đơn vị đơn giản nhất, là sức lực con người theo nghĩa thô sơ nhất của danh từ đó. Sức lực đó của con người quy lại là thời gian sinh tồn, mà sự tự duy trì của nó lại là sự khắc phục một tổng số nhất định những khó khăn về thức ăn và sinh sống. Giá trị phân phối hay giá trị chiếm hữu chỉ tồn tại thuần tuý và độc nhất ở chỗ nào cái quyền chi phối những vật không sản xuất ra, hay nói một cách thông thường hơn, ở chỗ nào mà bản thân những vật ấy được đổi lấy những công việc hay những vật có một giá trị sản xuất thực sự. Cái nhân tố đồng nhất đã được chỉ ra và được đại biểu trong mọi biểu hiện giá trị, và do đó, cả trong những bộ phận cấu thành giá trị bị chiếm hữu thông qua sự phân phối không phải bỏ lao động ra để đền bù lại, - cái nhân tố đồng nhất đó là sự tiêu phí sức lực con người... thể hiện ra... trong từng hàng hoá". Về điều này, chúng ta cần phải nói gì ở đây? Nếu tất cả những giá trị hàng hoá đều được đo bằng sự tiêu phí sức lực con người đã nhập vào hàng hoá, - thì giá trị phân phối, số phụ gia vào giá cả, việc đánh thuế, còn lại ở đâu? Thật ra ông Đuy-rinh nói với chúng ta rằng ngay những vật không sản xuất, nghĩa là không thể có một giá trị theo đúng nghĩa của nó được, cũng có thể có một giá trị phân phối và đổi được với những vật sản xuất ra và có một giá trị. Nhưng đồng thời ông ta cũng lại nói rằng tất cả mọi giá trị, do đó kể cả những giá trị phân phối thuần tuý và độc nhất nữa, đều là sự tiêu phí sức lực đã được nhập vào trong chúng. Tiếc thay ở đây chúng ta không biết được rằng như thế nào mà một sự tiêu phí sức lực lại nhập được vào một vật không do lao động sản xuất ra. Dù sao thì trong tất cả cái mớ bòng bong giá trị đó, rốt cuộc hình như một điều đã rõ: với giá trị phân phối, với khoản phụ gia cưỡng bức cộng vào giá cả thông qua địa vị xã hội, với việc đánh thuế nhờ lưỡi kiếm, một lần nữa cũng chẳng đi đến đâu cả; nhưng giá trị của hàng hoá chỉ được quyết định độc bởi sự tiêu phí sức lực con người, vulgo1* - là bởi lao động đã nhập vào trong những hàng hoá đó. Như vậy là không kể đến địa tô và vài giá cả độc quyền, ông Đuy-rinh đã nói - chỉ có khác là nói một cách cẩu thả và rối rắm - đúng những điều mà lý luận về giá trị bị bêu diếu của Ri-các-đô và Mác đã nói một cách dứt khoát và rõ ràng hơn nhiều. Có phải như vậy không? Đúng là ông ta nói điều ấy, nhưng cũng ngay ở đó ông ta lại nói điều ngược lại. Xuất phát từ những công trình nghiên cứu của Ri-các-đô, Mác nói: giá trị những hàng hoá được quyết định bởi lao động xã hội cần thiết, chung của con người đã nhập vào trong hàng hoá, lao động này đến lượt nó lại được đo bằng độ dài của nó. Lao động là thước đo của tất cả mọi giá trị nhưng bản thân nó lại không có giá trị. Ông Đuy-rinh sau khi cũng đặt vấn đề lao động là thước đo giá trị, nhưng với cái cách cẩu thả của ông ta, thì ông lại nói tiếp rằng: Lao động "quy lại là thời gian sinh tồn mà sự tự duy trì của nó lại là sự khắc phục một tổng số nhất định nhưng khó khăn về thức ăn và sinh sống". Chúng ta ha4y bỏ qua sự lẫn lộn - chỉ thuần tuý do lòng ham muốn tỏ ra mình là độc đáo gây nên - giữa thời gian lao động là điều duy nhất mà người ta có thể nói tới ở đây, với thời gian sinh tồn là cái mà từ trước đến nay chưa bao giờ tạo ra giá trị hay do các giá trị. Chúng ta cũng ha4y bỏ qua cả cái vẻ bề ngoài "xã hội chủ nghĩa" giả dối mà "sự tự duy trì" của cái thời gian sinh tồn đó phải tạo ra; từ khi có thế giới và chừng nào thế giới sẽ còn tồn tại, thì mỗi người đều phải tự mình duy trì lấy mình theo cái nghĩa là người đó tự mình tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt của mình. Cứ cho rằng ông Đuy-rinh đã biểu hiện tư tưởng của mình bằng ngôn ngữ kinh tế một cách chính xác; trong trường hợp đó thì câu nói trên đây hoặc không có nghĩa gì cả, hoặc có nghĩa là: giá trị của một hàng hoá là do thời gian lao động đã nhập vào hàng hoá đó quyết dịnh, và giá trị của thời gian lao động đó là do những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì người công nhân trong thời gian đó, quyết định. Và đối với xã hội hiện nay, điều đó có nghĩa là: giá trị của một hàng hoá là do tiền công chứa đựng trong hàng hoá đó, quyết định. Ở đây, cuối cùng chúng ta đã đi đến điều mà ông Đuy-rinh thực sự muốn nói. Giá trị của một hàng hoá, theo cách nói của khoa kinh tế tầm thường, là do những chi phí sản xuất quyết định. Để chống lại điều đó, Kê-ri lại "nhấn mạnh cái chân lý là không phải các chi phí sản xuất, mà là các chi phí tái sản xuất quyết định giá trị" ("Lịch sử phê phán", tr.401). Các chi phí sản xuất hay tái sản xuất đó là như thế nào, điều đó sau đây chúng ta sẽ nói tới; còn ở đây thì chúng ta chỉ nhận xét rằng, như mọi người đã biết, những chi phí đó gồm có tiền công và lợi nhuận của tư bản. Tiền công biểu hiện "sự tiêu phí sức lực" đã nhập vào hàng hoá, biểu hiện giá trị sản xuất. Lợi nhuận biểu hiện khoản thuế hay khoản phụ gia vào giá cả, biểu hiện giá trị phân phối, mà nhà tư bản, nhờ độc quyền của mình, và nhờ có lưỡi kiếm trong tay, đã cưỡng bức được. Và như thế là toàn bộ sự rối rắm mâu thuẫn của lý luận của ông Đuy-rinh về giá trị cuối cùng được kết thúc bằng một sự rõ ràng, hài hoà một cách tuyệt đẹp. Việc quy định giá trị hàng hoá bằng tiền công, ở A-đam Xmít thì thường còn hay lẫn lộn với việc quy định giá trị bằng thời gian lao động - việc quy định như thế từ thời Ri-các-đô đã bị loại khỏi khoa kinh tế chính trị khoa học rồi, và hiện nay nó chỉ còn lưu hành trong khoa kinh tế chính trị tầm thường mà thôi. Chính bọn nịnh hót đê tiện nhất của chế độ tư bản chủ nghĩa hiện tồn là bọn truyền bá cái ý kiến cho rằng tiền công quyết định giá trị, đồng thời lại hình dung lợi nhuận của nhà tư bản như là một loại tiền công cao nhất, một thứ tiền trả cho sự nhịn ăn tiêu (vì nhà tư bản không chè chén hết tư bản của hắn), một thứ tiền thưởng cho sự mạo hiểm, một khoản tiền trả cho việc quản lý xí nghiệp, v.v.. Ông Đuy-rinh chỉ khác họ ở chỗ là ông ta tuyên bố rằng lợi nhuận là cướp bóc. Nói một cách khác, ông Đuy-rinh trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình trên cơ sở những học thuyết của khoa kinh tế chính trị tầm thường thuộc loại tồi nhất. Cái chủ nghĩa xã hội của ông ta cũng có giá trị giống như khoa kinh tế chính trị tầm thường. Số phận của chúng gắn liền không thể tách rời nhau. Tuy vậy, điều sau đây cũng đã rõ: cái mà một công nhân sản xuất ra và cái tốn kém cho người đó là hai cái hoàn toàn khác nhau, cũng giống như cái mà một chiếc máy sản xuất ra và cái tốn kém cho chiếc máy đó. Giá trị mà một công nhân tạo ra trong một ngày lao động mười hai giờ thì tuyệt đối không có gì giống với giá trị những tư liệu sinh hoạt mà người đó tiêu dùng trong ngày lao động ấy và trong thời gian nghỉ ngơi thuộc về ngày lao động ấy. Những tư liệu sinh hoạt ấy có thể biểu hiện một thời gian lao động là ba, bốn hay bảy giờ tuỳ theo trình độ phát triển của năng suất lao động. Cứ cho rằng bảy giờ lao động là cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, thì theo lý luận về giá trị của khoa kinh tế tầm thường mà ông Đuy-rinh đã công nhận, sản phẩm của mười hai giờ lao động có giá trị bằng sản phẩm của bảy giờ lao động, rằng mười hai giờ lao động bằng bảy giờ lao động hay 12 = 7. Để nói cho rõ hơn: cứ cho rằng một công nhân nông nghiệp, không kể đến những quan hệ xã hội, sản xuất ra một số ngũ cốc, ví dụ là 20 héc-tô-lít lúa mì một năm chẳng hạn. Trong năm đó, người ấy tiêu dùng một số giá trị biểu hiện ra trong 15 héc-tô-lít lúa mì. Như thế thì 20 héc-tô-lít lúa mì có giá trị bằng 15 héc-tô-lít và điều đó xảy ra trên cùng một thị trường và hơn nữa với mọi điều kiện như nhau; nói một cách khác, 20 = 15. Và đó là cái được gọi là khoa kinh tế đấy! Toàn bộ sự phát triển của xã hội loài người sau khi thoát khỏi giai đoạn dã man của động vật, đều bắt đầu từ ngày mà lao động gia đình sản xuất ra được nhiều sản phẩm hơn số cần thiết để nuôi sống nó, từ ngày mà một phần lao động có thể được dùng không chỉ để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà còn để sản xuất những tư liệu sản xuất nữa. Số sản phẩm lao động dư ra ngoài cái chi phí để duy trì lao động, và việc hình thành và phát triển một quỹ sản xuất và dự trữ xã hội nhờ vào số dư ấy, trước kia và hiện nay vẫn là những cơ sở của mọi tiến bộ xã hội, chính trị và tinh thần. Trong lịch sử từ trước đến nay cái quỹ đó vẫn là sở hữu của một giai cấp có đặc quyền, cùng với cái quỹ đó giai cấp này cũng nắm được sự thống trị chính trị và sự lãnh đạo về tinh thần. Chỉ có cuộc cách mạng xã hội sắp tới, lần đầu tiên mới biến được cái quỹ sản xuất và dự trữ xã hội ấy, nghĩa là toàn bộ cái khối nguyên liệu, công cụ sản xuất và tư liệu sinh hoạt thành một quỹ xã hội thực sự, bằng cách rút cái quỹ đó ra khỏi quyền chi phối của giai cấp có đặc quyền đó và chuyển nó thành tài sản chung của toàn xã hội. Trong hai điều, phải có một. Hoặc giả giá trị các hàng hoá được quy định bởi những chi phí nhằm duy trì số lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, nghĩa là, trong xã hội hiện nay thì được quy định bởi tiền công. Trong trường hợp đó, trong tiền công của mình, mỗi công nhân nhận được giá trị của sản phẩm lao động của mình, và như thế thì việc giai cấp các nhà tư bản bóc lột giai cấp công nhân làm thuê là một điều không thể có được. Giả dụ rằng những chi phí để duy trì một công nhân trong một xã hội nhất định là ba mác. Trong trường hợp đó, theo lý luận của khoa kinh tế học tầm thường trên đây, sản phẩm trong một ngày của người công nhân có một giá trị là ba mác. Bây giờ chúng ta lại giả dụ rằng nhà tư bản thuê người công nhân ấy lấy được từ sản phẩm đó ra một lợi nhuận, một khoản thuế là một mác, và đem bán sản phẩm đó lấy bốn mác. Các nhà tư bản khác cũng đều làm như thế. Nhưng khi đó người công nhân cũng không thể trang trải cuộc sống hàng ngày của mình với ba mác được, người đó cũng cần phải có bốn mác mới sống được. Vì tất cả những điều kiện khác đều được giả định là không thay đổi, nên tiền công biểu hiện bằng tư liệu sinh hoạt cũng phải y nguyên như cũ, tiền công biểu hiện bằng tiền phải tăng lên, cụ thể là tăng từ ba lên bốn mác một ngày. Cái mà những nhà tư bản bòn rút được của giai cấp công nhân dưới hình thức lợi nhuận, thì họ phải trả lại cho giai cấp công nhân dưới hình thức tiền công. Thế là chúng ta vẫn cứ ở nguyên một chỗ như lúc đầu: nếu tiền công quy định giá trị, thì không thể có tình trạng nhà tư bản bóc lột người công nhân. Nhưng khi đó cũng không thể hình thành một số sản phẩm dư ra được, bởi vì theo giả thiết của chúng ta, người công nhân sản xuất được bao nhiêu giá trị thì cũng tiêu dùng hết bấy nhiêu. Và vì các nhà tư bản không sản xuất ra giá trị, nên cũng không thể hình dung được là họ sống bằng cái gì. Và nếu hiện nay vẫn có một số dư của sản xuất so với tiêu dùng, tức là một quỹ sản xuất và dự trữ như vậy, hơn nữa nó lại nằm ở trong tay các nhà tư bản, thì không còn có một cách giải thích nào khác ngoài cách giải thích rằng công nhân chỉ tiêu dùng vào việc sinh sống của mình cái giá trị của hàng hoá thôi, còn bản thân hàng hoá thì họ để lại cho các nhà tư bản sử dụng. Hoặc giả là: nếu cái quỹ sản xuất và dự trữ đó thật sự nằm trong tay giai cấp các nhà tư bản, nếu cái quỹ đó thật sự nảy sinh từ việc tích luỹ lợi nhuận (tạm thời ta hãy gác địa tô ra một bên) thì quỹ đó nhất thiết phải gồm những sản phẩm lao động dư ra đã tích luỹ được mà giai cấp công nhân cung cấp cho giai cấp các nhà tư bản ngoài số tiền công mà giai cấp các nhà tư bản đã trả cho giai cấp công nhân. Nhưng khi đó giá trị không phải là do tiền công quy định, mà là do số lượng lao động quy định; khi đó, trong sản phẩm lao động giai cấp công nhân cung cấp cho giai cấp các nhà tư bản một khối lượng giá trị lớn hơn là khối lượng giá trị mà giai cấp công nhân đã nhận được từ giai cấp các nhà tư bản dưới dạng tiền công và trong trường hợp ấy, lợi nhuận của tư bản, cũng như tất cả mọi hình thức khác của việc chiếm hữu sản phẩm lao động không được trả công của người khác, chỉ là một bộ phận cấu thành của cái giá trị thặng dư do Mác đã phát hiện ra. Nhân tiện xin nói qua rằng: sự phát hiện vĩ đại mà Ri-các-đô đã dùng để mở đầu tác phẩm chủ yếu của ông, nói rằng: "giá trị của một hàng hoá tuỳ thuộc vào số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, chứ không phải tuỳ thuộc vào số thù lao cao hay thấp đã trả cho lao động đó"[4]- trong toàn bộ "Bài giảng về kinh tế chính trị học", không có chỗ nào ông Đuy-rinh đả động đến sự phát hiện đánh dấu thời đại đó cả. Trong cuốn "Lịch sử phê phán", ông ta đã loại bỏ phát hiện đó của Ri-các-đô bằng một câu nói tiên tri như sau: "Ông ta" (Ri-các-đô) "không thấy rằng cái tỷ lệ lớn hay nhỏ trong đó tiền công có thể là một dấu hiệu của những nhu cầu sinh sống"(!) "cũng bắt buộc phải đưa đến... một sự hình thành nhiều về những quan hệ giá trị!". Một câu mà bạn đọc muốn nghĩ sao thì nghĩ, nhưng điều tốt nhất là sẽ chẳng suy nghĩ gì cả. Còn bây giờ thì xin bạn đọc tự do chọn lấy loại giá trị mà ông Đuy-rinh đã đưa cho chúng ta: giá trị sản xuất, do tự nhiên mà ra, hay giá trị phân phối do sự hư hỏng của con người tạo ra, và nó có điểm đặc biệt là được đo bằng sự tiêu phí sức lực không nằm trong giá trị đó; hay ba là, giá trị được đo bằng thời gian lao động; hay bốn là giá trị được đo bằng chi phí tái sản xuất; hay cuối cùng là giá trị được đo bằng tiền công. Sự lựa chọn thật là phong phú, sự lẫn lộn thật là hoàn toàn. Và chúng ta chỉ còn biết cùng ông Đuy-rinh kêu lên rằng: "Học thuyết giá trị là hòn đá thử vàng dùng để xác định phẩm chất của các học thuyết kinh tế!". [1] F. E. Rochow. "Der Kinderfreund. Ein Lesbuch zum Gebrauch in Landschulen". Brandenbung und Leipzig, 1776 (Ph. E. Rô-khốp. "Người bạn của trẻ em. Sách tập đọc trong các trường phổ thông nông thôn". Bran-đen-buốc và Lai-pxích, 1776). [2] Đây là nói đến tác phẩm của Ơ-clít "Những nguyên lý" (gồm 13 quyển) trong đó trình bày những cơ sở của toán học thời cổ. [3] P. J. Proudhon. "Qu'est-ce que la propriété? ou Recherches sur le principe du droit et du gouvernement". Paris, 1840, p. 2 (P. G. Pru-đông, "Sở hữu là gì? hay Nghiên cứu về nguyên tắc pháp quyền và cai trị". Pa-ri, 1840, tr. 2). * nói một cách giản đơn [4] D. Ricardo. "On the Principles of Political Economy, and Taxation". 3rd ed, London, 1821, p. 1 (Đ. Ri-các-đô, "Về những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị và của sự đánh thuế”. Xuất bản lần thứ 3, Luân Đôn, 1821, tr. 1). |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC