TÌNH CẢNH CỦA GIAI CẤP LAO ĐỘNG Ở ANH - MỤC LỤC
TÌNH CẢNH CỦA GIAI CẤP LAO ĐỘNG Ở ANH.
Theo những sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy ______________
NHỮNG THÀNH PHỐ LỚN
C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995. Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh | Bản dịch tiếng Pháp.
Một thành phố như Luân Đôn, có thể đi hàng giờ mà vẫn chưa hết địa phận của nó, và không hề gặp một chút dấu hiệu nào chứng tỏ đã gần tới nông thôn, một thành phố như vậy quả là một điều rất đặc biệt. Sự tập trung khổng lồ đó, sự tụ tập cả hai triệu rưởi người vào một chỗ đã làm cho lực lượng của khối hai triệu rưởi người ấy mạnh thêm gấp trăm lần. Họ đã làm cho Luân Đôn trở thành thủ đô của thương nghiệp của thế giới, đã tạo nên những bến dỡ hàng khổng lồ và đã tập trung hàng mấy nghìn chiếc tàu luôn luôn trùm kín dòng sông Têm-dơ. Tôi không thấy cái gì hùng vĩ bằng quang cảnh sông Têm-dơ, khi đi tàu từ biển ngược lên phía cầu Luân Đôn. Các khối nhà cửa, các xưởng đóng tàu ở hai bên, nhất là ở phía Un-uých, vô số tàu thuỷ đậu dọc hai bờ càng chen nhau san sát, chỉ chừa một lối hẹp ở giữa dòng cho hàng trăm chiếc tàu thường xuyên hối hả ngược xuôi, tất cả những cái ấy thật hùng tráng, thật lớn lao khiến người ta mê mẩn và rất đỗi kinh ngạc về cái vĩ đại của nước Anh ngay trước khi bước chân lên đất Anh1*. Nhưng tất cả những cái đó đã phải trả giá bằng những hy sinh như thế nào thì mãi sau này người ta mới phát hiện ra. Chỉ khi đã len lỏi vài ngày trên các đường phố chính, khó nhọc lắm mới rẽ được một lối giữa đám người chen chúc hay giữa những dãy xe cộ dài dằng dặc, chỉ khi đã đi thăm các "khu nhà ổ chuột" của thành phố thế giới ấy thì người ta mới bắt đầu nhận ra rằng người dân Luân Đôn đã phải hy sinh những phẩm chất tốt đẹp nhất của bản tính con người của họ để sáng tạo ra tất cả những kỳ công của văn minh đầy dẫy trong thành phố họ, rằng hàng trăm lực lượng tiềm tàng trong mỗi người đã bị lãng quên và đã bị vùi dập, để cho một số nhỏ trong các lực lượng ấy phát triển đầy đủ và còn được tăng lên gấp bội bằng cách liên kết với các lực lượng của những người khác. Ngay chính cái đám đông chen chúc của các đường phố đã có một cái gì ghê tởm, một cái gì trái với bản chất của con người. Phải chăng hàng chục vạn con người đại diện cho mọi giai cấp và mọi đẳng cấp đang tụ tập trên các đường phố đó, phải chăng tất cả bọn họ không phải đều là những con người cùng một bản chất, cùng có những năng khiếu như nhau và cũng đều khao khát hạnh phúc như nhau ư? Chẳng phải là họ đều tìm kiếm hạnh phúc bằng những phương pháp và những con đường giống nhau ư? Ấy vậy mà họ đi ngang qua nhau vội vã như là không có chút gì chung với nhau, không hề có liên quan gì với nhau; và chỉ có mỗi một điều quy ước ngầm là mỗi người phải đi ở phía bên phải vỉa hè để cho dòng người đi ngược chiều khỏi bị trở ngại; và đồng thời cũng không một người nào thèm đoái nhìn đến người khác. Sự lãnh đạm tàn nhẫn ấy, sự cô độc lạnh lùng ấy của mỗi người chỉ theo đuổi lợi ích riêng của bản thân mình lại càng khiến người ta khinh tởm và sỉ nhục, khi cái đám đông người ấy càng chen chúc nhau trên một không gian nhỏ bé. Và tuy chúng ta đã biết rằng sự cô độc ấy của mỗi người, sự ích kỷ hẹp hòi ấy cũng là nguyên tắc cơ bản và phổ biến của xã hội chúng ta ngày nay, nhưng không đâu lại thấy nó bộc lộ một cách trắng trợn, vô liêm sỉ, một cách có ý thức bằng chính ở đây, ở đám người hỗn độn của một thành phố lớn. Sự chia nhỏ nhân loại thành những đơn tử, mà mỗi đơn tử đều có nguyên tắc sinh hoạt riêng và mục đích riêng, cái thế giới của các nguyên tử ấy ở đây phát triển đến cực điểm. Cũng do đó mà cuộc chiến tranh xã hội, chiến tranh của mọi người chống mọi người, đã được công khai tuyên bố ở đây. Như anh bạn Stiếc-nơ đáng mến đã nói, mọi người đều chỉ coi nhau như những đối tượng có thể lợi dụng được; mỗi người đều bóc lột người bên cạnh, và kết quả là kẻ mạnh hơn chà đạp kẻ yếu hơn và một nhúm kẻ mạnh, tức là những nhà tư bản, chiếm lấy tất cả về phần mình, còn số đông kẻ yếu, tức là những người nghèo, thì chỉ còn có cuộc sống miễn cưỡng mà thôi. Ở Luân Đôn là như vậy thì ở Man-se-xtơ, ở Bớc-minh-hêm và ở Lít-xơ, ở tất cả các thành phố lớn, cũng đều như vậy. Đâu đâu cũng một bên là sự lãnh đạm dã man, sự ích kỷ tàn nhẫn, một bên là sự nghèo khổ khó hình dung nổi, đâu đâu cũng là chiến tranh xã hội, cũng là mỗi nhà đều ở trong tình trạng bị bao vây, đâu đâu cũng là cướp bóc lẫn nhau dưới sự che chở của pháp luật, và tất cả những cái ấy đều làm một cách trắng trợn, thản nhiên, đến nỗi người ta ghê sợ về những hậu quả của chế độ xã hội chúng ta được phơi trần ở đây không chút giấu giếm như thế, và người ta không có gì phải ngạc nhiên, có lẽ chỉ trừ một điều là cả cái cảnh điên cuồng ấy làm sao mà đến nay vẫn còn tồn tại. Trong cuộc chiến tranh xã hội ấy, vũ khí là tư bản, tức là sự chiếm hữu trực tiếp hoặc gián tiếp những tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất, nên rõ ràng là tất cả những điều bất lợi của tình trạng ấy đều rơi lên đầu người nghèo. Không một ai quan tâm đến anh ta; một khi bị xô đẩy vào dòng nước xoáy dồn dập ấy, anh ta phải biết cách tìm lấy đường mà thoát. Nếu anh ta may mắn có được việc làm, nghĩa là nếu giai cấp tư sản ban cho anh ta cái đặc ân là dùng anh ta để làm giàu, thì anh ta sẽ có được đồng lương chỉ vừa suýt soát đủ để giữ cho thần hồn khỏi lìa thần xác; nếu không kiếm được việc làm, thì anh ta có thể đi ăn cắp, nếu không sợ cảnh sát, hoặc chết đói, còn cảnh sát chỉ muốn làm phiền đến giai cấp tư sản. Trong thời gian tôi ở Anh, ít ra có đến hai ba chục người chết đói - hiểu theo nghĩa trực tiếp của từ này - trong những điều kiện hết sức đáng phẫn nộ, vậy mà hiếm có một viên bồi thẩm nào đủ can đảm công khai thừa nhận điều đó lúc khám nghiệm tử thi. Dù cho chứng cớ đã rành rành, không thể nào chối cãi được, nhưng bọn tư sản, - những viên bồi thẩm đều được chọn trong bọn này - bao giờ cũng tìm được một cái cổng sau để tránh khỏi sự phán quyết ghê sợ : "chết đói". Trong những trường hợp ấy, giai cấp tư sản không dám nói sự thật, bởi vì làm như vậy sẽ là tự kết tội mình. Nhưng số người đang chết dần còn nhiều hơn rất nhiều, không phải chết đói - hiểu theo nghĩa trực tiếp - mà là do hậu quả của đói: sự ăn đói kéo dài đã gây ra những bệnh nan y và làm cho số người chết tăng lên, nó làm cho cơ thể suy yếu đến nỗi trong những hoàn cảnh khác đáng lẽ có thể vượt qua được dễ dàng, thì lại dẫn đến những bệnh nặng và cái chết. Người lao động Anh gọi cái đó là tội giết người của xã hội và tố cáo toàn thể xã hội là đã luôn luôn nhúng tay vào tội ác ấy. Họ có nói sai không? Đương nhiên bao giờ cũng chỉ có những cá nhân lẻ tẻ chết đói. Nhưng có ai đảm bảo cho người lao động là ngày mai sẽ không đến lượt anh ta? Ai đảm bảo cho anh ta có việc làm? Ai đảm bảo với anh ta rằng nếu ngày mai, vì lý do nào đó hoặc cũng chẳng cần có lý do nào cả, người chủ sẽ đuổi anh ta, thì anh ta cùng với gia đình có thể còn sống cho đến khi được một người chủ khác đồng ý "cấp cho anh ta mẩu bánh mì" ? Ai làm cho người lao động tin rằng chỉ cần có ý nguyện làm việc là đủ để kiếm được việc làm, rằng sự trung thực, cần cù, yêu lao động, tiết kiệm, và mọi thứ đức tính tốt đẹp mà giai cấp tư sản thông minh khuyên nhủ anh ta; sẽ thật sự mang lại hạnh phúc cho anh ta? Không có ai cả. Người lao động biết rằng hôm nay anh ta còn có một chút gì, và cũng biết rằng ngày mai còn có gì nữa hay không là không tuỳ thuộc vào anh ta; anh ta biết rằng chỉ một chút chuyện nhỏ mọn, một chút dở chứng của người chủ, một chút bất lợi trong việc buôn bán, là anh ta lại có thể bị đẩy vào xoáy nước khủng khiếp ấy mà anh ta chỉ tự giải thoát được một thời gian, ở đó muốn ngoi lên mặt nước là rất khó khăn, thường là không thể được. Anh ta biết rằng, tuy ngày hôm nay anh ta còn sống được, nhưng ngày mai thì chưa chắc gì đã sống nổi. Tuy nhiên, chúng ta hãy nghiên cứu kỹ hơn xem cuộc chiến tranh xã hội đã đặt giai cấp không có của vào tình cảnh như thế nào. Hãy xem rốt cuộc xã hội đã trả công cho người lao động bằng nhà ở, quần áo và ăn uống như thế nào để đền bù công việc họ đã làm; hãy xem xã hội đã đảm bảo cho những người đóng góp nhiều nhất vào sự sinh tồn của xã hội một cuộc sống như thế nào? Trước hết ta hãy xét về nhà ở. Mỗi thành phố lớn đều có một hoặc nhiều khu nhà ổ chuột là nơi giai cấp lao động sống chen chúc. Thực ra thì nhiều khi người nghèo ở ngay trong những ngõ chật chội sát nách các lâu đài của kẻ giàu sang; nhưng thông thường thì người ta dành cho họ một khu riêng biệt ở cái nơi khuất mắt những giai cấp được may mắn hơn, và họ phải tự mình lo liệu lấy được chừng nào hay chừng ấy. Những khu nhà ổ chuột trong tất cả mọi thành phố ở Anh nói chung đều giống hệt nhau; đấy là những căn nhà tồi tàn nhất trong khu tồi tàn nhất của thành phố, thường là những dãy nhà gạch một hai tầng, hầu hết được xếp đặt lộn xộn, phần lớn đều có nhà hầm để ở. Những căn nhà nhỏ ấy chỉ có ba bốn phòng và một bếp thường được gọi là cốt-ta-gơ và được xây dựng ở khắp đất Anh, trừ vài khu phố ở Luân Đôn, là chỗ ở thông thường của người lao động. Đường phố ở đây cũng thường không được lát, bẩn thỉu, có nhiều ổ gà, đầy rác rưởi và xác sinh vật, không có cống rãnh thoát nước, nhưng ngược lại, thường xuyên có nhiều vũng nước hôi thối. Do sự xây dựng luộm thuộm và lộn xộn của những khu như thế làm cho không khí khó lưu thông, và vì rất nhiều người sống trong một không gian nhỏ hẹp nên có thể tưởng tượng được dễ dàng bầu không khí của các khu lao động ấy như thế nào. Ngoài ra, khi đẹp trời thì đường phố còn là chỗ phơi phóng: từ nhà nọ sang nhà kia, người ta chăng dây ngang qua đường, treo lủng lẳng những quần áo ướt sũng rách nát. Chúng ta hãy quan sát một vài khu nhà ổ chuột ấy. Chúng ta hãy bắt đầu từ Luân Đôn1) và cái "tổ quạ" (rookery) trứ danh Xanh Gin của nó. Cuối cùng, hiện nay có mấy con đường lớn xuyên qua khu này và như vậy là nó bị phá bỏ. Khu Xanh Gin này nằm ngay giữa khu vực đông dân nhất của thành phố, xung quanh toàn là phố xá rực rỡ, rộng lớn, là nơi mà giới thượng lưu của Luân Đôn qua lại dạo chơi, gần ngay phố Ốc-xphớt và phố Ri-gân, công viên Tơ-ra-phan-ga và Xtơ-ren. Đó là một đống lộn xộn gồm những ngôi nhà cao ba bốn tầng, phố xá chật hẹp, quanh co, bẩn thỉu, không kém phần nhộn nhịp so với các phố chính của thành phố, chỉ khác mỗi một điều là trong khu Xanh Gin người ta chỉ thấy hầu như toàn người lao động. Chợ họp ở giữa phố, các rổ rau và hoa quả - tất nhiên đều thuộc loại tồi và hầu như không thể ăn được - làm cho lối đi lại càng hẹp thêm, ở đó, cũng như ở các hàng thịt, xông lên một mùi khó ngửi. Các ngôi nhà thì từ dưới hầm đến sát nóc đều có người ở, bên ngoài cũng như bên trong đều rất bẩn, tưởng chừng không một con người nào muốn ở đó. Nhưng như thế cũng còn chưa thấm vào đâu so với các nhà ở trong những sân chật hẹp và ở những ngõ hẻm giữa các đường phố, người ta phải đi qua những đường cầu lợp kín ở giữa các nhà mới vào được, ở đây tồi tàn bẩn thỉu quá sức tưởng tượng; ở đây hầu như không thấy có cửa sổ nào có kính còn nguyên vẹn, tường lở từng mảng; khung cửa lớn và khung cửa sổ đều hỏng cả, không giữ nổi cửa; cánh cửa ra vào dùng ván cũ ghép thành hoặc là đã mất hẳn, mà ở trong khu phố rất nhiều kẻ cắp này, người ta cũng chả cần có cửa, vì chẳng có gì để cho kẻ cắp lấy cả. Xung quanh, chỗ nào cũng có những đống rác rưởi, tro bụi và nước bẩn đổ hắt ra cửa đọng lại thành những vũng hôi thối. Đấy là nơi ăn chốn ở của những người nghèo nhất trong những người nghèo, những người lao động ít lương nhất, họ sống lẫn lộn với kẻ cắp, với bọn bịp bợm, với những nạn nhân của tệ bán dâm. Trong đó phần đông là người Ai-rơ-len hoặc là con cháu của người Ai-rơ-len, và ngay cả những ai còn chưa bị cuốn vào xoáy nước truỵ lạc tinh thần bao trùm quanh mình, thì ngày càng sa ngã hơn và ngày càng mất dần sức chống lại ảnh hưởng truỵ lạc của nghèo đói, của bẩn thỉu và của môi trường ghê tởm. Nhưng Xanh Gin không phải là khu nhà ổ chuột duy nhất ở Luân Đôn. Trong đám phố xá như mắc cửi ấy, có hàng trăm hàng nghìn ngõ ngách và đường hẻm, nhà cửa ở đó còn quá tồi đối với những ai còn có thể bỏ ra ít tiền để thuê một chỗ đáng cho con người ở hơn; những nơi trú ngụ của người nghèo khó cùng cực ấy thường thấy ở ngay gần những ngôi nhà lộng lẫy của kẻ giàu. Chẳng hạn như gần đây nhân dịp điều tra về một xác chết, một khu phố ngay gần công viên Poóc-man, nơi ở của những người rất đứng đắn, đã được miêu tả là nơi trú ngụ của "một đám người Ai-rơ-len bị nghèo khổ và bẩn thỉu làm cho truỵ lạc". Trong những phố như Lông A-crơ, v.v., tuy không phải là hoa lệ gì nhưng cũng tương đối tươm tất, người ta thấy rất nhiều nhà hầm, từ đấy thường thấy những hình bóng trẻ con ốm yếu và những người đàn bà gần như chết đói, quần áo rách rưới bò ra ngoài sưởi nắng. Sát ngay cạnh rạp hát Đru-ri-lên, rạp hát đứng hàng thứ hai của Luân Đôn, là mấy khu phố thuộc loại tồi tệ nhất của thành phố: phố Sác-lơ, phố Kinh, và phố Pác-cơ. Các ngôi nhà ở đó từ dưới hầm lên đến tận mái cũng đều do các gia đình nghèo ở. Trong các khu Xanh Giôn và Xanh Mác-ga-rét ở Oét-min-xtơ, theo tài liệu trong tập san của Hội thống kê, năm 1840 có 5368 gia đình lao động trú trong 5294 căn nhà, nếu có thể gọi là "căn nhà" được; đàn ông, đàn bà, trẻ con, cộng tất cả là 26830 người, nhốt vào đó, không phân biệt già trẻ nam nữ; ba phần tư những gia đình ấy chỉ có một phòng. Cũng theo nguồn tài liệu ấy, trong giáo khu quý tộc Xanh-Gioóc ở công viên Ha-nô-vơ, 1465 gia đình lao động gồm gần 6000 người, cũng ở trong những điều kiện tương tự; và ở đây cũng vậy, trên hai phần ba trong số gia đình ấy sống chen chúc mỗi gia đình trong một phòng độc nhất. Vậy mà những kẻ nghèo bất hạnh ấy, nhà cửa xơ xác đến nỗi kẻ cắp không còn tìm thấy cái gì để lấy, còn bị các giai cấp có của bóc lột dưới sự che chở của luật pháp! Trong khu Đru-ri-lên vừa nói trên, những ngôi nhà đáng ghê tởm ấy phải trả tiền thuê như sau: hai phòng ở tầng hầm giá 3 si-linh (1 ta-le) một tuần, một phòng ở tầng thứ nhất giá 4 si-linh; ở tầng hai giá 4 si-linh rưỡi, ở tầng ba giá 4 si-linh; buồng sát mái nhà giá 3 si-linh. Như vậy chỉ riêng những con người đói khát ở phố Sác-lơ đã trả cho các chủ nhà một số tiền hàng năm là 2000 pao xtéc-linh (14000 ta-le) và 5366 gia đình nói trên ở Oét-min-xtơ hàng năm trả một số tiền bằng 40 000 pao xtéc-linh (270 000 ta-le) tiền thuê nhà. Nhưng khu lao động lớn nhất là ở Oai-tơ-sa-pên và Bét-nan Grin, phía đông Tao-ơ, nơi tập trung phần lớn người lao động ở Luân Đôn. Ta hãy nghe ông G. Ôn-xtơn, mục sư của nhà thờ Xanh Phi-líp, ở Bét-nan Grin, nói về tình hình trong giáo khu của ông: "Giáo khu gồm có 1400 ngôi nhà với 2795 gia đình, khoảng 12000 người. Số dân đông đúc ấy sống trong một khoảng không gian tổng cộng không đầy 400 i-ác (1200 phút) vuông, và tình hình chen chúc đến mức nhiều khi một người với vợ, bốn năm đứa con và có khi cả cha và mẹ già, làm việc, ăn và ngủ trong một căn phòng độc nhất từ 10 đến 12 phút vuông. Tôi nghĩ rằng chừng nào đức giám mục Luân Đôn còn chưa kêu gọi công chúng chú ý đến cái giáo khu vô cùng nghèo khổ ấy thì ở phía tây thành phố người ta cũng không hiểu biết gì về các giáo khu này hơn là về những người dã man ở Ô-xtơ-rây-li-a và ở miền Nam châu Đại dương. Và nếu chúng ta tìm hiểu tận mắt những nỗi thống khổ của những con người không may đó, nếu chúng ta đi xem bữa ăn nghèo nàn của họ, và xem họ bị bệnh tật và nạn thất nghiệp giày vò thế nào thì chúng ta sẽ thấy hiện ra chiếc vực thẳm bất lực và nghèo nàn mà một nước như chúng ta phải lấy làm xấu hổ về sự tồn tại của vực thẳm ấy. Tôi đã từng làm mục sư ở Hát-đơ-xphin trong khoảng ba năm khi mà các công xưởng làm việc chật vật nhất; nhưng chưa bao giờ tôi thấy tình hình nghèo khổ chẳng ai đoái hoài đến như ở Bét-nan Grin. Trong toàn khu, cứ mười người chủ gia đình, chẳng có lấy một người có được một bộ quần áo thứ hai ngoài bộ quần áo lao động rách tả tơi; thậm chí nhiều người ban đêm chỉ có bộ quần áo rách đó để làm chăn và một cái bao nhồi rơm và vỏ bao để làm giường "99. Chỉ qua đoạn mô tả ấy đã có thể hình dung được tình trạng thông thường của những nhà ở ấy là thế nào. Để hiểu đầy đủ hơn, chúng ta hãy theo gót một số quan chức Anh thỉnh thoảng phải đi thăm những căn nhà như vậy của những người vô sản. Nhân dịp ông Các-tơ, nhân viên dự thẩm ở Xua-rây, ngày 14 tháng Mười một 1843, đến khám tử thi bà A-na Gôn-uây, 45 tuổi, báo chí đã mô tả chỗ ở của người chết ấy như sau: bà ta ở số 3 Oai-tơ Lai-ân Cớt, phố Bớc-môn-xây ở Luân Đôn, cùng với chồng và đứa con trai 19 tuổi, trong một gian phòng nhỏ, không có giường, không có chăn đệm, không có đồ đạc gì cả. Thi thể bà ta, nằm bên đứa con trai, trên một đống lông gà, vịt vung vãi lung tung cả trên thân thể của bà gần như trần truồng, vì không có chăn cũng không có khăn trải giường gì cả. Lông gà, vịt bám chặt vào toàn thi thể đến nỗi phải lau rửa rồi bác sĩ mới khám nghiệm được: ông ta thấy thi thể gầy trơ xương và đầy nốt chấy rận đốt. Đất nền nhà có chỗ đào lên và lỗ đó để làm cầu tiêu cho cả gia đình. Ngày thứ hai, 15 tháng Giêng 1844, hai em bé bị đưa ra toà án vi cảnh thành phố Uốc-síp, Luân Đôn về tội vì bị cái đói giày vò nên đã ăn cắp ở một cửa hàng một cái chân bê mới chín dở và các em đã ăn ngấu nghiến hết ngay tại chỗ. Quan toà thấy phải điều tra thêm và được cảnh sát cho biết những tài liệu như sau: mẹ các em là vợ goá của một cựu chiến binh, sau trở thành cảnh sát, và sau khi chồng chết, bà ta rất nghèo khổ với chín đứa con. Bà ta sống cực kỳ nghèo khổ ở số 2, quảng trưởng Pun-dơ, phố Qua-cơ, tại Xpi-tan-phin. Khi cảnh sát đến nhà, thì thấy bà ta với sáu trong số những đứa con của bà chen chúc trong một căn buồng xép nhỏ, không có đồ đạc gì ngoài hai ghế mây thủng, một cái bàn con gãy hai chân, một cái bát sứt và một cái bát chiết yêu con. Trong lò sưởi không một đốm lửa và ở một góc nhà, một đống giẻ rách cơ hồ chỉ xếp đủ trong một vạt áo đàn bà, nhưng đó lại là giường đệm cho cả gia đình. Họ đắp bằng số quần áo rất ít ỏi của họ. Người đàn bà đáng thương ấy kể lại với quan toà rằng năm ngoái bà ta đã phải bán giường để có cái ăn; bà đã đem gán chăn đệm cho cửa hàng thực phẩm để lấy một ít đồ ăn và tóm lại là bà đã phải bán ráo cả để chỉ kiếm bánh ăn cho gia đình. Quan toà đã cấp cho bà một số tiền khá lớn lấy trong quỹ cứu tế. Tháng Hai 1844, người ta yêu cầu quan toà toà án vi cảnh phố Mác-bơ-rô giúp đỡ bà Tê-re-dơ Bi-sốp, một người đàn bà goá 60 tuổi, và con gái bà ta 26 tuổi đang ốm. Họ ở số 5 phố Brao, công viên Grô-vơ-no, trong một căn buồng xếp nhỏ chỉ bằng một cái tủ, không có tí đồ đạc nào. Ở một góc có một ít giẻ rách, hai mẹ con nằm ngủ trên đó, một cái hòm vừa làm bàn vừa làm ghế. Người mẹ đi dọn dẹp thuê kiếm được tí chút. Theo lời người chủ nhà, hai mẹ con sống như vậy từ tháng Năm 1843, dần dần bán hoặc gán mọi thứ còn lại, vậy mà cũng không bao giờ trả được tiền nhà. Quan toà trích quỹ cứu tế cấp cho gia đình bà ta một p.xt. Tôi không hề có ý nói rằng tất cả những người lao động ở Luân Đôn đều sống cùng cực như ba gia đình vừa nói trên. Tôi biết rõ rằng nơi nào mà một người hoàn toàn bị xã hội chà đạp thì có mười người sống khá hơn chút ít. Nhưng tôi khẳng định rằng hàng nghìn gia đình lương thiện và cần cù, lương thiện và đáng kính hơn tất cả những người giàu có ở Luân Đôn gộp lại, đang ở trong cái tình trạng không xứng đáng với con người như vậy, và mỗi người vô sản, không trừ một ai, đều có thể gặp số phận như vậy mà không phải là lỗi tại họ và mặc dù họ đã hết sức cố gắng để tránh. Nhưng dù sao, những người có một chỗ trú chân vô luận là thế nào chăng nữa, cũng còn sung sướng hơn so với những kẻ hoàn toàn không có nhà cửa gì cả. Ở Luân Đôn, hàng ngày có năm vạn người buổi sáng thức dậy mà không biết đêm sau mình sẽ ngủ nơi đâu. Trong số đó, may mắn nhất là những người ngày hôm đó kiếm được vài xu, họ đến một trong những cái gọi là nhà trọ (lodging-house) có rất nhiều trong tất cả các thành phố lớn, và có thể trả tiền để được một chỗ trú chân. Nhưng chỗ trú chân như thế nào! Ngôi nhà, từ trên xuống dưới, toàn là giường, trong một phòng có đến bốn, năm, sáu giường, nhét được bao nhiêu thì nhét. Trên mỗi giường cũng nhét được bao nhiêu người thì nhét: bốn, năm, sáu người - lẫn lộn cả người ốm với người khoẻ, người già với người trẻ, đàn ông với đàn bà, người say với người tỉnh. Thế rồi xảy ra các vụ cãi cọ, đấm đá, đánh nhau bị thương, nhưng khi những người nằm chung giường đó ăn ý nhau thì lại càng tệ hơn: họ bàn chuyện cùng nhau đi trộm cướp hoặc làm những việc mà không thể dùng ngôn ngữ loài người của chúng ta để hình dung được tính chất thú vật của những việc đó. Còn những người ngay một chỗ trú chân như thế cũng không có tiền để thuê được thì sao? Thì chỗ nào ngủ được là họ nằm: trong những lối đi, dưới gầm cầu, hoặc ở xó xỉnh nào mà cảnh sát hoặc chủ nhà không xua đuổi. Một số may mắn tìm được chỗ trong những trú xá do sự nghiệp từ thiện tư nhân lập nên, ở đôi nơi, một số khác thì ngủ trên ghế dài ở vườn hoa, ngay dưới cửa sổ của nữ hoàng Vích-tô-ri-a. Hãy xem tờ "Times"100 tháng Mười 1843 đã viết: "Theo báo cáo của cảnh sát ngày hôm qua, thì trung bình mỗi đêm có năm chục người ngủ ở các công viên, chỉ nhờ vào cây cối và vài hang hốc dọc các bờ tường để che mưa gió. Phần lớn là các thanh nữ bị lính quyến rũ đưa về thủ đô và bị bỏ rơi giữa một thành phố xa lạ, phó mặc cho số phận, cho đói khổ, sống trong cảnh hoàn toàn vô tư lự và mặc sức buông theo cái tội lỗi ban đầu. "Thật là kinh khủng. Bao giờ cũng có người nghèo khổ. Ở bất cứ nơi nào, sự bần cùng bao giờ cũng tìm được một lối đi và xâm nhập bằng mọi hình thức xấu xa của nó vào ngay trong lòng một thành phố to lớn và giàu sang. Trong một nghìn phố nhỏ và ngõ hẻm của một thủ đô đông đến hàng triệu người, chúng tôi e rằng sẽ luôn luôn có rất nhiều đau khổ, rất nhiều điều chướng mắt hoặc rất nhiều điều sẽ chẳng được phơi bày ra ánh sáng bao giờ. "Nhưng mà, ở một khu vực tập trung giàu sang, khoái lạc và xa hoa, ở gần hoàng cung Xanh Giêm-xơ, ngay cạnh điện Bây-xơ-uốt-tơ rực rỡ, ở khu vực mà các khu quý tộc mới và khu quý tộc cũ tiếp giáp nhau, mà nghệ thuật kiến trúc thành thị tối tân rất tinh tế và mỹ lệ đã không giữ lại một gian lều nào của nông dân nghèo, ở nơi hình như chỉ dành cho sự hưởng lạc của người giàu, thế mà ở đây sự nghèo đói, bệnh tật và đủ thứ thói xấu lại tồn tại, với tất cả sự kinh khủng của chúng, với mọi cái phá hoại cả thể xác lẫn linh hồn, thì đó thật là quái gở! "Những thú vui cao thượng nhất có thể mang lại sức khoẻ cho cơ thể, hoạt động tinh thần, những sự thích thú hồn nhiên ở liền ngay bên cạnh những nỗi nghèo khổ cùng cực nhất! Sự giàu sang, những phòng khách rực rỡ, tiếng cười vui thú, tiếng cười vô tư lự nhưng tàn nhẫn ở ngay bên cạnh những nỗi đau thương nghèo khổ mà kẻ giàu không hề biết đến. Một niềm vui thú chế giễu một cách vô tình nhưng tàn khốc nỗi đau khổ của những người đang rên riết ở bên dưới! Ở đây mọi mâu thuẫn đều xung đột nhau, đấu tranh nhau, chỉ trừ cái thói xấu đưa người ta đến sự cám dỗ và cái thói xấu chịu ảnh hưởng của sự cám dỗ... Nhưng xin mọi người hãy nhớ điều này: trong những khu phố rực rỡ nhất của thành phố giàu có nhất thế giới này, mỗi đêm mùa đông, năm này qua năm khác, có thể thấy những phụ nữ tuổi thì ít, mà đã già cỗi vì thói xấu và đau khổ, bị xã hội ruồng bỏ, vùi dập cuộc đời trong cảnh đói khát, bẩn thỉu và bệnh tật. Mọi người hãy nhớ đến điều ấy và nên học hành động chứ không phải là nghị luận. Thượng đế chứng giám vũ đài cho hoạt động như thế hiện nay rất rộng!". Ở trên tôi vừa nói đến những trú xá cho những kẻ không nhà. Hai thí dụ sau đây sẽ cho chúng ta thấy những nơi ấy chật chội đến thế nào. Một "trú xá cho những kẻ không nhà" mới được dựng lên ở phố Áp-pơ Ô-giơ, mỗi đêm có thể chứa được 300 người, từ khi mở cửa, ngày 27 tháng Giêng đến ngày 17 tháng Ba 1844, đã tiếp nhận 2740 người trọ một đêm hoặc vài đêm; và tuỳ thời tiết độ này đã khá hơn mà số người trọ ở đó cũng như ở các trú xá ở phố Oai-tơ-crết và ở Oáp-pinh vẫn tăng rất mạnh và mỗi đêm nhiều kẻ không nhà bị từ chối vì không đủ chỗ. Ở một nơi khác là trú xá trung ương, ở Plây-hao-xơ - Y-ác, trong ba tháng đầu năm 1844, trung bình mỗi đêm có tới 460 người xin trọ; ở đây đã chứa 6681 người và đã phát 96141 suất bánh mì. Vậy mà ban phụ trách nói rằng chỗ này chỉ tạm thoả mãn phần nào yêu cầu của những người đến trọ khi trú xá khu đông thành phố cũng mở cửa để thu nạp những kẻ không nhà. Ta hãy rời Luân Đôn để lần lượt đến thăm những thành phố lớn khác trong toàn Vương quốc liên hợp. Trước hết hãy xem Điu-blin, là một thành phố mà lối vào bằng đường biển thì mỹ lệ cũng như lối vào Luân Đôn thì hùng vĩ; vịnh Đu-blin đẹp nhất trong tất cả các đảo của Bri-ten, người Ai-rơ-len thường ví nó với vịnh Na-pô-li. Chính thành phố cũng rất đẹp, các khu phố quý tộc xây dựng đẹp và hợp khiếu thẩm mỹ hơn ở mọi thành phố khác của Anh. Nhưng ngược lại, các khu phố nghèo ở Đu-blin cũng lại là nơi ghê tởm và đáng sợ nhất trên đời. Thật ra thì điều này cũng có một phần do tính cách của dân Ai-rơ-len, nhiều khi họ cảm thấy ở bẩn mới thoải mái. Nhưng vì ở tất cả các thành phố lớn ở Anh và ở Xcốt-len, ta đều thấy có hàng nghìn người Ai-rơ-len và vì mọi cư dân nghèo tất nhiên dần dần sa vào tình trạng bẩn thỉu như thế, nên cảnh bần cùng ở Đu-blin không có cái gì là đặc thù riêng có của một thành phố Ai-rơ-len, mà trái lại, đó là cái chung cho tất cả các thành phố lớn trên thế giới. Những khu phố nghèo của Đu-blin ở phân tán khắp thành phố và tình trạng bẩn thỉu, nhà cửa tồi tàn, phố xá không ai đoái hoài đến thì không sao tả nổi. Ta có thể hình dung cảnh tượng chen chúc của dân nghèo ở các khu phố này qua báo cáo của các thanh tra phòng lao động 1) nói rằng năm 1817 ở phố Ba-rắc, 52 ngôi nhà gồm 390 phòng, chứa 1318 người và ở phố Sớc-sơ và các đường phố phụ cận, 71 ngôi nhà gồm 393 phòng chứa 1997 người. "Trong khu ấy và khu lân cận có rất nhiều ngõ hẻm và sân sau hôi thối (foul), các gian nhà hầm chỉ có ánh sáng nhờ cửa ra vào, người ta thường ngủ dưới đất, mặc dù đa số cũng có giường ván. Nhưng còn ở Ni-côn-xơn Cớt chẳng hạn, trong 28 căn phòng nhỏ tồi tàn có tới 151 người sống cùng cực đến nỗi trong cả toà nhà chỉ có hai cái giường và hai cái chăn. Sự nghèo khổ ở Đu-blin nghiêm trọng đến nỗi riêng một cơ quan từ thiện thuộc "Hội cứu trợ những người đi ăn xin" mỗi ngày tiếp nhận đến 2500 người, tức là 1 phần trăm số dân của thành phố, ngày cho ăn rồi tối thả ra. Theo lời kể của bác sĩ A-li-xơn, thì thành phố Ê-đin-bớc cũng như vậy. Đó là một thành phố mà vị trí tốt đẹp khiến nó được mệnh danh là A-ten hiện đại, nhưng nơi đây khu phố quý tộc rất hào hoa ở khu thành phố mới là một cảnh tượng trái ngược đáng công phẫn trước cảnh bần cùng, bẩn thỉu của khu thành phố cũ. A-li-xơn khẳng định rằng khu vực khá lớn ấy cũng nhơ nhớp ghê tởm không kém những khu phố tồi tàn nhất ở Đu-blin và số người mà "Hội cứu trợ những người đi ăn xin" cần cứu giúp ở Ê-đin-bớc cũng nhiều không kém ở thủ đô xứ Ai-rơ-len. Ông còn quả quyết rằng dân nghèo ở Xcốt-len, nhất là ở Ê-đin-bớc và Gla-xgô, khổ cực hơn ở tất cả các miền khác trong toàn Vương quốc liên hợp và những người nghèo khổ nhất không phải là người Ai-rơ-len mà là người Xcốt-len. Bác sĩ Li, mục sư cựu giáo hội ở Ê-đin-bớc, năm 1836, đã nêu ra trước tiểu ban giáo dục tôn giáo như sau: "Trước đây tôi chưa hề thấy nơi nào có cảnh nghèo khổ như ở giáo khu này. Người ta không có đồ đạc, không có một thứ của cải gì khác; nhiều khi hai cặp vợ chồng ở chung một gian phòng. Một hôm tôi đi thăm bảy nhà trong đó đều không có giường và một vài nhà không có cả ổ rơm nữa; có những ông bà già 80 tuổi ngủ ngay trên nền nhà; hầu hết mọi người mặc nguyên cả áo quần mà ngủ. Trong một gian nhà hầm, tôi thấy hai gia đình người Xcốt-len mới từ nông thôn đến cách đây không lâu; ngay từ khi mới đặt chân đến thành phố, đã chết mất hai đứa con, còn đứa thứ ba lúc tôi đến thăm cũng sắp chết; mỗi gia đình có một đống rơm bẩn ở góc nhà: ngoài ra trong căn hầm tối tăm đến nỗi giữa ban ngày không trông rõ mặt người, còn chứa một con lừa nữa, - một tấm lòng dù sắt đá đến đâu cũng phải đau xót trước cảnh bần cùng đến như vậy trong một xứ như Xcốt-len". Trong tạp chí "Edinburgh Medical and Surgical Journal", bác sĩ Hen-nen cũng trình bày những dẫn chứng tương tự. Một bản báo cáo của nghị viện 1) đã vạch rõ tình trạng bẩn thỉu trong những nhà nghèo ở Ê-đin-bớc; trong những điều kiện như vậy, thì bẩn thỉu là điều dĩ nhiên. Ban đêm thành giường là chỗ gà ngủ; chó và thậm chí cả ngựa nữa ngủ cùng một phòng với người; như thế thì tất nhiên là trong những căn nhà đó bẩn thỉu hôi thối vô cùng và có vô số rệp bọ đủ các giống. Bản thân cách kiến trúc của thành phố Ê-đin-bớc chính lại cực kỳ thuận lợi cho tình hình đáng ghê tởm ấy của nhà ở. Thành phố cũ xây dựng ở hai bên sườn một ngọn đồi không cao lắm, dọc theo đỉnh đồi là phố chính (high-street). Rất nhiều ngõ ngách chật hẹp và quanh co - vì quá quanh co nên đã được mệnh danh là wynds 1* - từ phố chính ấy toả ra hai bên sườn đồi và tạo thành khu phố vô sản. Nhà cửa ở các thành phố Xcốt-len thường là khá cao, có năm sáu tầng như ở Pa-ri, và có rất nhiều gia đình ở chung một nhà, khác với ở Anh, là nơi mỗi gia đình cố hết sức để ở một nhà riêng. Tình hình chen chúc trên một khoảng hẹp vì vậy lại càng tăng thêm. Một tạp chí ở Anh trong một bài nói đến những điều kiện vệ sinh trong sinh hoạt của những người lao động ở thành phố1) viết như sau: "Những phố xá đó, những phố thường là chật hẹp đến nỗi từ cửa sổ nhà này có thể bước sang cửa sổ nhà trước mặt; hơn nữa, nhà xây tầng nọ trên tầng kia, cao đến nỗi ánh sáng khó lọt được xuống sân và xuống đường phố. Trong khu vực ấy không có một hệ thống cống rãnh nào, không có một hố tiêu hoặc hố tiểu nào trong khu nhà ở, vì vậy mọi thứ rác rưởi, cứt đái của ít ra 5 vạn người mỗi đêm đều được ném xuống rãnh. Do đó mặc dù đường phố được quét dọn, vẫn có một lớp bùn khô xông lên những mùi hôi thối khủng khiếp, điều đó không những khổ mắt, khổ mũi mà còn ảnh hưởng rất nhiều cả đến sức khoẻ của cư dân. Có gì đáng ngạc nhiên, khi thấy ở những nơi như vậy người ta không những chỉ khinh thường vệ sinh và đạo đức, mà còn khinh thường cả những điều lễ độ thông thường nhất nữa? Không những thế, những người tương đối hiểu rõ tình cảnh cư dân ở đấy đều có thể chứng nhận rằng bệnh tật, bần cùng và truỵ lạc ở đây đã lan tràn đến mức độ nào. Ở đây, xã hội đã sa xuống đến một trình độ thấp kém và bi đát khó mà tả nổi. - Nhà ở của giai cấp nghèo nhất thường là rất bẩn, và rõ ràng là không bao giờ được quét dọn. Phần lớn chỉ có một căn phòng độc nhất và mặc dù rất bí hơi, vẫn rất lạnh vì khung cửa làm không kín và kính bị vỡ nát, trong phòng ẩm ướt và nhiều khi còn ở thấp hơn mặt đất; đồ đạc thường tồi tàn hoặc không có gì cả: nhiều khi cả một gia đình chỉ có một ổ rơm để ngủ, đàn ông, đàn bà, già, trẻ ngủ chung lẫn lộn với nhau, làm cho ta trông thấy phải phẫn nộ. Phải ra vòi nước công cộng mới lấy được nước; và khó khăn trong việc lấy nước là điều kiện thuận lợi để truyền bá bẩn thỉu". Trong các thành phố cảng lớn khác, tình hình cũng không hơn gì. Ở Li-vớc-pun mặc dầu buôn bán phồn thịnh, hoa lệ và giàu sang, những người lao động cũng vẫn sống trong tình trạng dã man như thế. Hơn một phần năm dân số, tức là hơn 45 000 người, sống trong những căn nhà hầm tối tăm, chật chội, ẩm thấp, bí không khí, trong thành phố có tới 7 826 căn nhà như vậy. Ngoài ra phải kể thêm 2270 cái sân sau (courts), tức là khoảng trống nhỏ, xung quanh đều là nhà và chỉ có một lối nhỏ đi vào, thường có vòm che kín cho nên hoàn toàn không thông gió, phần nhiều rất bẩn và hầu hết là những người vô sản ở. Chúng ta sẽ có dịp nói tỉ mỉ hơn về những cái sân này khi đề cập đến Man-se-xtơ. Ở Bri-xtơn, người ta có lần điều tra 2800 gia đình lao động, 46 phần trăm trong số đó chỉ có một phòng. Tình hình những thành phố công xưởng hoàn toàn như thế. Ở Nốt-tinh-hêm có tất cả 11 000 ngôi nhà thì 7 - 8 nghìn ngôi tường sau xây dựa vào nhau nên không thể có một chút gió nào lọt qua được; thêm nữa, thường thì nhiều nhà mới có một hố tiêu. Một cuộc điều tra mới đây cho thấy nhiều dãy nhà xây dựng trên những rãnh thoát nước nông, chỉ có một lượt ván lát trên mặt làm sàn nhà. Ở Lê-xtơ, Đớc-bi và Sép-phin-đơ cũng vậy. Bài báo của tờ "Aritizan" dẫn ở trên nói về Bớc-minh-hêm như sau: "Trong những khu vực cũ của thành phố có nhiều chỗ tồi tàn, bẩn thỉu, không ai đoái hoài đến, đầy những vũng bùn và những đống rác lưu niên. Ở Bớc-minh-hêm có rất nhiều sân, tới hơn 2000 cái chính là chỗ ở của phần lớn nhân dân lao động. Những sân đó bao giờ cũng rất chật chội, bẩn thỉu, bí hơi, cống rãnh rất tồi tệ, xung quanh một cái rãnh thường có từ tám đến hai mươi ngôi nhà mà thường không khí chỉ vào có một mặt, vì tường sau lại dính với một nhà khác và ở cuối mỗi sân thường có một hố đổ rác hoặc những vật tương tự, hết sức bẩn thỉu. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng những sân mới xây dựng được sắp đặt hợp lý hơn và giữ gìn khá tốt hơn; và ngay cả trong các sân cũ, nhà cửa cũng không chen chúc nhau như ở Man-se-xtơ hoặc Li-vớc-pun, điều này cắt nghĩa tại sao trong những kỳ có bệnh dịch, ở Bớc-minh-hêm số người chết ít hơn nhiều so với Uôn-vơ-hem-tơn. Đát-li và Bin-xtơn là những thành phố cách đó chỉ mấy dặm. Ở Bớc-minh-hêm người ta cũng không ở nhà hầm, tuy rằng đôi khi còn sử dụng hầm không đúng cách để làm xưởng thủ công. Các nhà trọ cho dân vô sản cũng có khá nhiều (hơn 400), chủ yếu là trong các sân ở trung tâm thành phố. Hầu hết là những chỗ ẩm thấp và bẩn thỉu đến lợm mửa, là chỗ ẩn thân của bọn ăn mày, và bọn lêu lổng" (trampers, về nghĩa chính xác của chữ này, sẽ nói kỹ hơn ở phía dưới), "những kẻ cắp và gái điếm, bọn này sống ở đây không hề quan tâm đến lễ độ và tiện nghi, ăn uống, hút và ngủ trong một bầu không khí mà chỉ những con người truỵ lạc như họ mới có thể chịu được". Gla-xgô về nhiều mặt cũng giống như Ê-đin-bớc, cũng những đường ngoắt ngoéo (wynds), cũng những ngôi nhà ngất nghểu như thế. Tạp chí "Artizan" đã nhận xét về thành phố đó như sau: "Ở đây, giai cấp công nhân chiếm chừng 78 phần trăm tổng số cư dân" (gần 300 000 người) "họ ở những khu phố còn nghèo nàn và ghê tởm hơn cả những hang ổ tồi tệ nhất ở Xanh-Gin và ở Oai-tơ-sê-pen, những vùng ngoại ô ở Đu-blin và những wynds ở Ê-đin-bớc. Những khu như thế có rất nhiều ở trung tâm thành phố - ở phía nam Tơ-rơn-ghết, phía tây chợ Muối, trong khu Can-tơ, sau phố Cao, v.v.; đó là những ngõ hẹp và những đường ngoắt ngoéo, chằng chịt với nhau, lắt léo không cùng, ở đó cứ vài bước lại gặp những sân hoặc những ngõ cụt, gồm những ngôi nhà cũ kỹ, sắp đổ, những tầng thấp, bí hơi và không có ống nước. Những nhà ấy đúng là chật ních người. Mỗi tầng có một, ba hoặc bốn gia đình, có khi đến hai chục người, có khi mỗi tầng lại cho thuê làm nhà ngủ trọ, và trong mỗi phòng nhét đến mười lăm, hai mươi người, không thể nói là ở, mà là chồng chất lên nhau. Các khu phố ấy là chỗ nương thân của những kẻ nghèo khổ nhất, truỵ lạc nhất, đạo đức đồi bại nhất trong cư dân và nên xem là chỗ bắt nguồn của những bệnh dịch sốt truyền nhiễm ghê gớm lan tràn ra khắp cả Gla-xgô". Hãy xem G.C. Xai-mơn-xơ, uỷ viên Tiểu ban điều tra của chính phủ về tình cảnh của những thợ dệt thủ công, mô tả các khu vực ấy1) thế nào: "Tôi đã phải chứng kiến những cảnh nghèo khổ tệ hại nhất cả ở nước ta lẫn ở trên lục địa, nhưng trước khi đến thăm những khu nhà ngoắt nghoéo ở Gla-xgô tôi vẫn không tin được rằng ở một nước văn minh lại có thể có nhiều tội ác, nghèo khó và bệnh tật đến thế. Trong những nhà trọ loại tồi tệ vào bậc nhất, mỗi phòng có tới mười, mười hai, có khi đến hai mươi người, cả nam lẫn nữ thuộc mọi lứa tuổi, cởi trần hoặc hoàn toàn trần truồng, nằm lẫn lộn bừa bãi trên sàn nhà. Những chỗ ấy thường là (generally) bẩn thỉu, ẩm ướt và đổ nát đến nỗi không ai muốn cho ngựa của mình ở đó". Và ở một đoạn khác, tác giả viết: "Các khu nhà ổ chuột ở Gla-xgô chứa một số người thường xuyên lưu động từ một vạn rưởi đến ba vạn người. Khu vực ấy hoàn toàn là những ngõ hẹp, những sân hình tứ giác, bao giờ cũng có một đống rác ở ngay giữa. Nhưng dù cho quang cảnh bên ngoài của những ngôi nhà đó kinh tởm đến như thế, tôi vẫn chưa ngờ được mức độ bẩn thỉu và nghèo nàn ở bên trong. Trong một vài nhà ngủ trọ mà chúng tôi" (đại uý Mi-lơ, thanh tra trưởng cảnh sát, và Xai-mơn-xơ) "đến thăm vào ban đêm, chúng tôi thấy cả dãy người nằm kín khắp sàn nhà; đàn ông và đàn bà người mặc áo quần, kẻ cởi trần nằm lẫn lộn có khi đến mười lăm, hai mươi người trong một căn phòng. Đệm giường của họ là một đống rơm mục nát và ít giẻ rách. Đồ đạc không có một thứ gì hoặc có rất ít, và chỉ có mỗi ngọn lửa ở lò sưởi là làm cho cái hố ấy hơi ra vẻ có người ở. Trộm cắp và bán dâm là kế sinh nhai chính của đám người ấy. Hình như không ai buồn quét dọn cái chuồng ngựa của Ô-gi-át ấy, không ai buồn huỷ diệt cái hang ổ độc ác, cái sào huyệt của tội ác bẩn thỉu và ôn dịch ấy ở ngay trung tâm thành phố thứ hai của vương quốc. Trong khi điều tra tỉ mỉ về những khu phố nghèo nhất của những thành phố khác, dù về phương diện đồi bại tinh thần và thể xác, hay về mật độ dân số, tôi chưa hề bao giờ thấy mức độ ghê tởm như vậy. - Nhà đương cục địa phương xác nhận là đa số nhà cửa trong các khu ấy hư hỏng, tồi tàn không ở được, nhưng chính đó lại là những chỗ đông người ở nhất, vì pháp luật quy định không được thu tiền thuê nhà ở đấy".
"trên một triền dốc thoai thoải xuống thung lũng sông E-rơ. Con sông này uốn khúc chạy cắt ngang qua thành phố trên khoảng chừng một dặm rưỡi 1) và đến kỳ tuyết tan hoặc mưa nhiều thì có thể lụt lớn. Những nơi cao nhất của thành phố, ở phía tây, thì tương đối sạch sẽ đối với một thành phố lớn như vậy, nhưng các khu phố thấp dọc bờ sông đó và dọc các sông nhánh (becks) thì đều bẩn thỉu, chật chội, và đã đủ để giảm tuổi thọ của cư dân ở đó, nhất là trẻ em. Thêm vào đấy tình trạng kinh tởm của các khu lao động xung quanh Kiếc-ghết, Mác-sơ-lên, phố Crốt và đường Rích-mơn; ở khu này phần lớn các đường phố lát và không có cống rãnh, nhà cửa xây dựng lộn xộn, với nhiều sân và ngõ cụt, thậm chí những thiết bị vệ sinh thông thường nhất cũng không có. Mọi cái ấy gộp lại đủ để cắt nghĩa tỷ số người chết rất cao ở những nơi xấu số, bẩn thỉu và nghèo khổ ấy. - Do các trận lụt của sông E-rơ" (và tiện đây nói thêm rằng con sông ấy, cũng như mọi con sông chảy ngang qua những thành phố công xưởng, ở khúc chảy vào thành phố thì sạch sẽ trong veo và ở khúc chảy ra khỏi thành phố thì đủ mọi thứ rác rưởi, đặc sệt, đen ngầu và hôi thối), "những nhà ở và nhà hầm thường đầy nước đến nỗi phải tát nước đổ ra phố; những khi ấy thì ngay ở những nơi có cống, nước từ cống dâng lên tràn vào các nhà hầm2) xông lên những mùi hôi thối sặc khí hy-đrô-sun-phua, rồi sau đó để lại một lớp cặn ghê tởm rất hại cho sức khoẻ. Trong trận lụt mùa xuân năm 1839, tình hình tắc cống như thế đã gây tai hại đến nỗi, theo báo cáo của nhân viên hộ tịch, thì ở khu này, trong quý ấy, cứ ba người chết mới có hai người ra đời, trong khi cũng vào quý ấy ở các khu khác thì tỉ lệ ngược lại cứ ba người ra đời mới có hai người chết". Ở nhiều khu vực đông dân khác của thành phố ấy, hoàn toàn không có cống rãnh, hoặc là có nhưng tồi tệ đến nỗi chẳng ích lợi gì. Trong một số phố, các nhà hầm ít khi được khô ráo; trong những khu phố khác, nhiều đường phố phủ một lớp bùn lầy dày. Cư dân thỉnh thoảng đã uổng công đổ tro lấp các ổ gà để sửa sang đường phố; tuy vậy, rác vẫn cứ đổ đống khắp nơi, nước rửa từ các nhà đổ ra vẫn cứ đọng ở những chỗ trũng cho đến khi nắng và gió làm khô đi (xem báo cáo của Hội đồng thành phố trong "Statistical Journal" tập 2, tr. 404). - Một căn nhà thông thường ở Lít-xơ, có diện tích không quá hai mươi lăm i-ác vuông và thường là có một gian hầm, một phòng ở và một phòng ngủ. Những nhà chật hẹp ngày đêm lúc nào cũng chật ních người ấy không những chỉ có hại cho sức khoẻ mà còn có tác hại đến đạo đức của cư dân. Tình hình chật chội trong các nhà ấy như thế nào có thể thấy được qua bản báo cáo dẫn ở trên nói về tình hình vệ sinh trong đời sống của giai cấp lao động: "Ở Lít-xơ chúng tôi đã thấy nhiều anh chị em và những người thuê nhà xa lạ cả nam lẫn nữ, cùng ngủ chung trong một phòng với cha mẹ; do đó mà sinh ra những hậu quả hễ người ta nghĩ đến là rùng mình". Ở Brát-phoóc, chỉ cách Lít-xơ bảy dặm ở giao điểm của nhiều thung lũng, trên bờ một dòng sông nhỏ hôi thối và nước đen ngòm như hắc ín, tình hình cũng như vậy. Một buổi chủ nhật đẹp trời, - vì những ngày làm việc thì một tầng khói xám xịt bao phủ tất cả, - từ trên mỏm cao của các ngọn đồi xung quanh nhìn xuống thì thấy thành phố thật là xinh đẹp; nhưng bên trong cũng bẩn thỉu và không thể sống được như ở Lít-xơ. Những khu phố cũ xây trên những sườn đồi dốc; đường phố chật hẹp và cong queo. Trong các đường phố, các ngõ cụt và các sân, rác rưởi và đồ thối nát chất hàng đống; nhà cửa đổ nát, bẩn thỉu không hợp với điều kiện cư trú; và ngay sát bên sông ở đáy thung lũng, tôi đã thấy nhiều ngôi nhà mà một nửa tầng dưới là đào ngay vào sườn đồi, hoàn toàn không hợp với điều kiện cư trú. Nói chung, những nơi ở đáy thung lũng mà nhà cửa công nhân chen vào giữa những nhà cao của công xưởng là những nơi kiến trúc xấu xí và bẩn thỉu nhất của thành phố. Trong các khu phố mới của Brát-phoóc cũng như ở mọi thành phố công xưởng khác, nhà cửa xếp đặt đều đặn hơn thành từng dãy, nhưng ngay ở những nhà đó người ta còn thấy thiếu tiện nghi, tình trạng này gắn liền với cái phương pháp được công nhận trong việc bảo đảm nhà ở cho công nhân; về điểm này chúng tôi sẽ bàn kỹ hơn khi nói đến Man-se-xtơ. - Về các thành phố khác của vùng Tây Y-oóc-sia, như Bác-nơ-xli, Ha-li-phác, Hát-đơ-xphin, tình hình cũng như vậy. Hát-đơ-xphin, với vị trí tuyệt vời đáng mê và kiến trúc tối tân của nó, là thành phố đẹp nhất trong tất cả các thành phố công xưởng của Y-oóc-sia và Lan-kê-sia, nhưng cũng vẫn có những khu phố xấu xí. Trong bản báo cáo ngày 5 tháng Tám 1844 của một uỷ ban, do hội nghị thị dân cử ra để điều tra thành phố, có đoạn viết: "Ai cũng biết rằng ở Hát-đơ-xphin, nhiều đường phố và nhiều ngõ, nhiều sân không lát mà cũng chẳng có cống rãnh gì cả; rằng đủ mọi loại rác rưởi, cặn bã, mọi vật bẩn thỉu, chất đống ở đấy đang thối rữa; rằng nước bẩn đọng thành vũng ở hầu khắp mọi nơi; do đó nhà cửa ở đây xấu xí và bẩn thỉu, làm phát sinh ra nhiều ổ bệnh tật đe doạ sức khoẻ của cả thành phố"101. Nếu chúng ta đi bộ hoặc xe lửa vượt qua Blếch-xtôn Ét-giơ, chúng ta sẽ đến địa điểm điển hình, nơi mà nền công nghiệp Anh đã hoàn thành cái kiệt tác của nó, nơi xuất phát của toàn bộ phong trào công nhân nước Anh, tức là Nam Lan-kê-sia với trung tâm của nó là Man-se-xtơ. Ở đây chúng ta cũng lại thấy một vùng cảnh đồi núi mỹ lệ, từ tuyến phân thuỷ, chạy dốc thoai thoải đến tận biển Ai-rơ-len, với những thung lũng xanh rờn làm cho người ta mê thích của sông Ri-bơn, sông Ai-rơ-len, sông Mớc-xây và các nhánh của chúng; vùng này cách đây một trăm năm, phần lớn còn là đầm lầy, cư dân thưa thớt, thế mà ngày nay chỗ nào cũng mọc đầy những thành phố và thôn xóm, và là vùng đông dân nhất của nước Anh. Chính Lan-kê-sia, đặc biệt là Man-se-xtơ, là nơi sản sinh ra nền công nghiệp Anh và trung tâm của nó. Sở giao dịch chứng khoán Man-se-xtơ là cái hàn thử biểu của mọi sự biến động trong sinh hoạt công nghiệp, và các phương pháp sản xuất tối tân cũng đã đạt mức độ hoàn bị ở Man-se-xtơ. Trong ngành công nghiệp bông sợi ở Nam Lan-kê-sia, việc sử dụng các lực lượng tự nhiên, việc máy móc (chủ yếu là khung cửi máy và máy mun) loại trừ lao động thủ công và sự phân công lao động đã đạt tới trình độ phát triển cao nhất; và nếu chúng ta công nhận ba yếu tố đó là đặc trưng của công nghiệp hiện đại thì chúng ta phải thừa nhận rằng, về mặt ấy, so với các ngành công nghiệp khác, thì ngành bông sợi ngay từ đầu cho tới nay vẫn đi trước. Nhưng hậu quả của nền công nghiệp hiện đại đối với giai cấp công nhân ở đây phải phát triển một cách đầy đủ nhất và trong hình thức thuần tuý nhất, và giai cấp vô sản công nghiệp ở đây phải xuất hiện dưới hình thức điển hình nhất; và cũng chính ở đây tình trạng nhục nhã của người lao động do việc áp dụng sức hơi nước, máy móc và sự phân công lao động gây nên, cũng như ý đồ của giai cấp vô sản nhằm chấm dứt sự áp bức ấy, cũng phải đạt đến mức căng thẳng cao nhất và có ý thức nhất. Vì Man-se-xtơ là một thành phố công nghiệp hiện đại điển hình và cũng vì tôi biết rõ nó cũng như nơi chôn rau cắt rốn của tôi, và có lẽ còn biết rõ hơn nhiều người dân của nó, - cho nên chúng ta sẽ dừng lại ở đây lâu hơn một ít. Về tình hình các khu phố lao động, những thành phố xung quanh Man-se-xtơ cũng không khác gì thành phố trung tâm cho lắm, chỉ có ở đấy thành phần lao động trong cư dân có thể chiếm một tỷ số lớn hơn so với Man-se-xtơ. Thậy vậy, đó là những thành phố công nghiệp thuần tuý, mọi hoạt động thương nghiệp của chúng đều tiến hành ở Man-se-xtơ và thông qua Man-se-xtơ; về mọi mặt, các thành phố ấy đều phụ thuộc vào Man-se-xtơ và vì vậy cư dân ở đó toàn là công nhân, chủ xưởng và tiểu thương, trong khi đó ở Man-se-xtơ thì có rất đông dân buôn bán, đặc biệt là những hãng buôn đại lý và những cửa hàng bán lẻ lớn. Thế cho nên mặc dù các thành phố Bôn-tơn, Prét-xtơn, Uy-gan, Bơ-ri, Rô-sơ-đên, Mít-đơn-tơn, Hây-út, Ôn-đêm, A-stơn, Stê-li-brít-giơ, Xtốc-poóc, v.v., có đến ba vạn, năm vạn, bảy vạn và thậm chí chín vạn dân, thực ra thì hầu hết những thành phố ấy cũng chỉ là những khu lao động lớn chỉ bị ngắt ra từng đoạn bởi những công xưởng, vài đường phố chính mà hai bên là những cửa hàng và vài đường ngoại ô hai bên là những nhà theo kiểu biệt thự có vườn hoa bao bọc của các chủ xưởng. Bản thân các thành phố đều kiến trúc xấu xí và không đều đặn, có những sân, đường phố và ngõ cụt bẩn thỉu, đầy khói than, và do ở đây nhà cửa xây bằng thứ gạch lúc đầu thì đỏ thắm, nhưng dần dần đã đen xịt lại, - thứ gạch đó là vật liệu xây dựng thông dụng ở đây, - nên đã gây cho người ta có một ấn tượng đặc biệt u ám. Nhà hầm là hiện tượng thường thấy ở đây; chỗ nào có thể làm được là người ta làm những hang dưới đất và một phần rất lớn cư dân sống ở những hang ấy. Thành phố tồi tệ nhất sau Pre-xtơn và Ôn-đêm, là Bôn-tơn, cách Man-se-xtơ mười một dặm về phía tây-bắc. Tôi đã có nhiều dịp đến đó, và theo mắt tôi thấy thì chỉ có độc một phố chính là phố Đin-xghết, khá bẩn đồng thời cũng là chỗ họp chợ, và tuy rằng ngoài các công xưởng chỉ có những căn nhà thấp một hai tầng, nhưng ngay những hôm đẹp trời phố ấy cũng vẫn là một cái hốc u ám, ghê tởm. Cũng như ở mọi nơi, phần thành phố cũ đặc biệt tồi tàn và khó coi. Một dòng nước đặc sệt và đen sì chảy qua thành phố mà người ta không biết nên gọi là cái lạch hay là một chuỗi những vũng nước hôi thối, làm cho bầu không khí đã chẳng lấy gì làm trong sạch càng ô uế thêm. Xa hơn nữa là Xtốc-poóc, một thành phố tuy nằm bên bờ sông Mớc-xây, phía Sê-sia, nhưng vẫn thuộc khu công nghiệp Man-se-xtơ. Thành phố thu gọn trong một thung lũng hẹp lòng của sông Mớc-xay, cho nên phố xá chạy dốc tuột xuống ở bên này, để leo dốc ngược lên ở bên kia, còn đường xe lửa từ Man-se-xtơ đến Bớc-minh-hêm vượt qua bên trên thành phố và qua cả thung lũng bằng một cái cầu cao. Xtốc-poóc nổi tiếng là một nơi ảm đạm và ám khói nhất trong toàn khu, và quả thực là nó tạo nên một cảm giác hết sức u ám, nhất là khi nhìn từ trên cầu cao xuống thành phố. Nhưng những căn nhà nhỏ và nhà hầm, chỗ ở của người vô sản, trải thành dãy dài khắp thành phố, từ đáy thung lũng lên tới đỉnh đồi, lại còn gây ra ấn tượng u ám hơn nữa. Tôi không nhớ đã trông thấy ở một thành phố nào trong khu này nhiều nhà hầm có người ở như vậy. Cách Xtốc-poóc mấy dặm về phía đông-bắc là A-stơn-an-dơ - Lai-nơ, một trong những trung tâm công xưởng mới nhất của vùng này. Thành phố này ở bên sườn một ngọn đồi, dưới chân đồi là kênh và sông Tem-mơ; nói chung thì kiến trúc ở đây theo hệ thống hiện đại đều đặn hơn. Năm hoặc sáu đường phố dài chạy song song dọc theo ngọn đồi, có các đường phố khác cắt thẳng góc, chạy dốc xuống thung lũng. Với cách xếp đặt phố xá như vậy, các xưởng máy bị gạt ra khỏi trung tâm thành phố, dù không thế chăng nữa, thì chúng cũng phải tập trung ở dưới thung lũng để được gần nước và gần đường sông, ở đó, chúng nằm san sát gần nhau, từ các ống khói tuôn ra những làn khói đặc. Nhờ đó mà A-stơn trông dễ coi hơn phần lớn các thành phố công xưởng khác; phố xá rộng rãi và sạch sẽ hơn, những cốt-ta-giơ đỏ tươi, trông có vẻ mới mẻ và ấm cúng hơn. Nhưng hệ thống mới về xây dựng cốt-ta-giơ cho công nhân ấy cũng có những mặt xấu của nó; bởi vì phía sau mỗi đường phố như thế lại có một phố sau bẩn thỉu hơn rất nhiều, có một lối hẹp ở bên cạnh để vào. Và ngay ở A-stơn tôi không thấy có một ngôi nhà nào cổ quá 50 năm, trừ mấy ngôi nhà ở ngoại ô thành phố, vậy mà ở đây cũng có những đường phố mà nhà cửa đã thành cũ kỹ xấu xí, gạch long ra và tuột xuống, tường nứt nẻ, làm cho lớp vữa trát bên trong rơi vụn xuống; các đường phố ấy cũng nhơ nhớp và đen sì vì ám khói, không kém gì ở các thành phố khác trong khu, - chỉ khác là ở đây không phải là hiện tượng phổ biến mà là ngoại lệ. Cách hơn một dặm về phía đông là Xtê-li-brít-giơ cũng trên sông Tem-mơ. Từ A-stơn leo qua núi mà đến, ở trên đỉnh núi nhìn về bên phải và bên trái đều thấy những toà nhà lộng lẫy kiểu biệt thự xung quanh có vườn rộng rất đẹp, đa số nhà ấy làm theo kiểu Ê-li-da-bét, kiểu này so với kiểu gô-tích thì cũng y như đạo Tin lành Anh so với đạo Thiên Chúa La Mã. Đi bộ một trăm bước nữa thì trông thấy Xtê-li-brít-giơ nằm trong thung lũng. Nhưng so với các biệt thự lộng lẫy trên kia và ngay cả với những cốt-ta-giơ giản dị ở A-stơn thì cảnh tượng đó thật trái ngược biết bao? Xtê-li-brít-giơ nằm trong một vùng trũng quanh co và còn hẹp hơn thung lũng Xtốc-poóc nhiều, hai bên sườn là một mớ lộn xộn những cốt-ta-giơ, nhà lớn và công xưởng. Mới vào thành phố thì thấy ngay những cốt-ta-giơ đầu tiên san sát nhau, chật hẹp, ám khói, cũ kỹ, tồi tàn; và những nhà đầu tiên ấy thế nào thì cả thành phố cũng như thế cả. Chỉ có rất ít đường phố chạy dài theo đáy thung lũng chật hẹp; phần nhiều đường phố giao nhau, uốn lượn, leo lên xuống theo các triền dốc, do cách sắp xếp các đường phố trên sườn đồi như thế, nên trong hầu hết các nhà, tầng dưới đều đào xuống dưới đất một nửa. Và do lối xây dựng hỗn độn ấy mà tạo ra biết bao nhiêu sân, phố sau và ngõ hẻm, từ trên núi nhìn xuống có thể trông thấy hết cảnh tượng ấy, từ đó có thể trông thấy mọi cảnh vật trong thành phố, như là đang bay trên thành phố vậy. Và thêm vào đấy là tình trạng bẩn thỉu kinh khủng, thì sẽ hiểu tại sao, phong cảnh xung quanh rất đẹp mà thành phố này lại gây nên ấn tượng ghê tởm đến như vậy. Nhưng thôi, về các thành phố nhỏ, nói như vậy là đủ. Mỗi thành phố đều có nét riêng của mình, nhưng nói chung thì những người lao động ở đó cũng hệt như ở Man-se-xtơ. Vì vậy tôi chỉ mô tả kiến trúc đặc biệt của chúng, và chỉ thêm một điều là mọi nhận xét của tôi về đặc điểm chung của tình trạng nhà cửa của những người lao động ở Man-se-xtơ có thể hoàn toàn áp dụng với các thành phố xung quanh. Bây giờ chuyển sang nói về thành phố chính. Man-se-xtơ ở chân sườn phía nam của một dãy đồi chạy từ Ôn-đêm giữa các thung lũng của sông E-ru-en và sông Mét-lốc và cuối cùng kết thúc ở ngọn đồi Cớc-xôn-Mua, nơi đây là trường đua ngựa và đồng thời cũng là "Núi thánh" của Man-se-xtơ102. Chính thành phố Man-se-xtơ thì ở tả ngạn sông E-ru-en, nằm giữa con sông ấy và hai nhánh của nó là E-rơ-cơ và Mét-lốc đổ vào sông E-ru-en ở chỗ này. Trên hữu ngạn sông E-ru-en là Xôn-phoóc, nằm lọt trong một khuỷu sông và Pen-đơn-tơn ở xa hơn một ít về phía tây; phía bắc sông E-ru-en là Brô-tơn Thượng và Brô-tơn Hạ; phía bắc sông E-rơ-cơ là Tri-têm-Hin; phía nam sông Mét-lốc là Huyn-mơ, xa hơn về phía đông là Troóc-tơn-ôn - Mét-lốc, xa hơn nữa, gần phía đông Man-se-xtơ là Ác-uých. Theo thói quen, người ta gọi cả các khối nhà cửa ấy là Man-se-xtơ, gồm tới ít nhất là bốn mươi vạn người, hay hơn nữa. Cách xây dựng thành phố độc đáo đến nỗi một người có thể sống hàng nhiều năm ở đó, hàng ngày đi ra đường phố, nhưng không lần nào tiếp xúc với một khu phố lao động, hoặc với những người lao động, nếu người đó chỉ đi vì công việc của mình hoặc đi dạo chơi. Điều đó chủ yếu được giải thích là do một sự thoả thuận ngầm và vô ý thức cũng như do sự tính toán hoàn toàn rõ ràng và có chủ tâm, các khu lao động ở cách biệt hẳn với các khu dành cho giai cấp tư sản, còn ở những nơi không thể công khai làm như thế được thì nó được che đậy dưới lớp màn từ thiện. Ở trung tâm Man-se-xtơ có khu buôn bán khá rộng lớn, dài rộng mỗi chiều độ nửa dặm, hầu như toàn là hãng buôn và kho hàng (warehouses). Cả khu hầu như không có nhà ở, và ban đêm thì vắng vẻ quạnh hiu, chỉ có những viên cảnh sát mang những đèn ló đi tuần trên những đường phố hẹp tối om. Khu vực ấy có vài đường phố chính rất náo nhiệt, những tầng dưới các ngôi nhà toàn là cửa hiệu sang trọng; trong các phố ấy tầng trên có chỗ cũng có người ở, và phố xá nhộn nhịp đến tận đêm khuya. Ngoài khu buôn bán ấy ra, toàn bộ thành phố Man-se-xtơ, hiểu theo nghĩa hẹp, toàn bộ Xôn-phoóc và Huyn-mơ, phần lớn Pen-đơn-tôn và Troóc-tơn, hai phần ba Ác-uých và một vài khu ở Tri-têm-Hin và Brô-tơn, tất cả gộp thành một khu lao động thuần tuý, bao quanh khu buôn bán, như một vành đai rộng trung bình một dặm rưỡi. Bên ngoài vành đai ấy là chỗ ở của giai cấp tư sản thượng đẳng và trung đẳng - lớp trung đẳng ở các phố thẳng tắp, gần khu lao động, tức là ở Troóc-tơn và phần dưới của Tri-têm-Hin, lớp thượng đẳng ở xa hơn, trong những ngôi nhà và những biệt thự ở ngoại ô Troóc-tơn và Ác-uých, hoặc trên những chỗ cao thoáng gió của Tri-têm-Hin, của Brô-tơn và của Pen-đơn-tơn giữa không khí thôn quê trong lành, trong những ngôi nhà lộng lẫy đầy đủ tiện nghi, đằng trước nhà cứ nửa giờ hoặc mười lăm phút lại có những chiếc xe chở khách ra thành phố chạy qua. Điều thú vị nhất, là các ngài quý tộc tài chính giàu có ấy vẫn có thể đi qua tất cả các khu phố lao động để tới văn phòng ở trung tâm thành phố bằng con đường gần nhất mà không hề nhận thấy sự nghèo cùng đang sinh sôi nảy nở trong cảnh bẩn thỉu nhất ở ngay gần đấy, ở cả hai bên đường. Bởi vì, những đường phố chính, từ sở giao dịch chứng khoán toả theo mọi ngả ra ngoài thành phố, đều có mỗi bên một dãy hầu như liên tiếp các cửa hàng và như vậy là đều do giai cấp trung lưu và tiểu tư sản ở, những người này đã vì lợi ích của chính họ mà muốn và có thể giữ gìn phố xá sạch sẽ, lịch sự. Thật ra thì những cửa hàng ấy bao giờ cũng có một cái gì đó giống những khu vực ở đằng sau chúng, và do đó, trong những khu buôn bán và ở gần các khu giai cấp tư sản ở thì các cửa hàng ấy lại lịch sự hơn là ở nơi nào mà đằng sau chúng là các cốt-ta-giơ bẩn thỉu của những người lao động. Nhưng dù sao chúng cũng đủ sạch sẽ để che giấu cho các ông bà giàu sang có dạ dày mạnh khoẻ nhưng thần kinh yếu ớt, khỏi thấy cái nghèo, cái bẩn là những cái bổ sung cho sự giàu sang và xa xỉ của họ. Cho nên, ví dụ như phố Đin-xghết, chạy từ nhà thờ cũ thẳng về phía nam, mới đầu là hai dãy kho hàng và công xưởng, rồi đến các cử hiệu hạng nhì với vài quán rượu; xa hơn nữa về phía nam, ở chỗ cuối khu buôn bán là những cửa hàng trông tồi hơn, rồi càng đi nữa thì cửa hàng càng bẩn thỉu, càng xen nhiều quán rượu và quán ăn, cho đến cuối phố ở phía nam thì ngay hình dáng của các cửa hiệu nhỏ làm cho người ta không còn nghi ngờ gì nữa là khách hàng ở đây là người lao động, và chỉ có người lao động mà thôi. Phố Mác-kết chạy từ sở giao dịch chứng khoán về phía đông-nam cũng vậy; mới đầu là những cửa hiệu lộng lẫy vào hạng nhất và ở các tầng gác trên là các hãng buôn và kho hàng; tiếp theo (ở Pích-ca-đi-ly) là những khách sạn và nhà kho khổng lồ; xa hơn nữa (khi tới đường Luân Đôn) ở gần sông Mét-lốc và những công xưởng, những quán rượu và cửa hiệu phục vụ những tầng lớp thấp nhất của giai cấp tư sản và công nhân; rồi dọc theo Ác-uých - Grin là nhà cửa của bọn tư sản thượng đẳng và trung đẳng và từ chỗ đó trở đi là những vườn hoa lớn và biệt thự của các chủ xưởng và nhà buôn giàu có nhất. Như vậy là khi đã hiểu biết Man-se-xtơ người ta có thể lấy mấy phố lớn mà suy ra tình hình các khu tiếp giáp, nhưng rất ít khi từ những phố lớn ấy có thể nhìn thấy được quang cảnh thật sự của chính các khu lao động.- Tôi biết rất rõ rằng cách sắp xếp giả tạo ấy hoặc ít nhiều đều có tính chất đặc trưng cho tất cả các thành phố lớn; tôi cũng biết rằng những người buôn bán lẻ do chính tính chất kinh doanh của họ, bắt buộc phải ở trên những đường phố lớn, đông người qua lại; tôi biết rằng ở đây cũng vậy, trong các phố ấy nhà tốt nhiều hơn là nhà xấu, và giá đất ở đây cao hơn ở các khu hẻo lánh. Nhưng tôi chưa thấy ở đâu lại gạt bỏ một cách có hệ thống giai cấp công nhân ra khỏi các phố lớn, lại che giấu hết sức chu đáo mọi cái có thể làm chướng tai gai mắt giai cấp tư sản như ở Man-se-xtơ. Vậy mà chính Man-se-xtơ lại ít được xây dựng theo kế hoạch định sẵn, hoặc theo quy định của cảnh sát, mà ngược lại, phần lớn hình thành một cách ngẫu nhiên hơn bất cứ một thành phố nào khác. Khi tôi nghĩ đến lời cam đoan nhiệt tâm của giai cấp tư sản nói rằng những người lao động sống trong một tình cảnh hoàn toàn tốt đẹp, thì tôi thấy được rằng các chủ xưởng thuộc phái tự do, những "big wigs"1* của Man-se-xtơ không phải là không tham gia vào sự quy hoạch thành phố đáng xấu hổ ấy. Tôi nói thêm một điều là hầu hết các công xưởng đều nằm dọc theo ba dòng sông và dọc những con kênh chạy chằng chịt khắp thành phố, và bây giờ tôi chuyển sang mô tả ngay chính các khu phố lao động. Trước hết là thành Man-se-xtơ cổ, nằm giữa giới tuyến phía bắc của khu buôn bán và sông E-rơ-cơ. Phố xá ở đây, cả những phố tốt nhất như các phố Tốt, Lông-Min-ghết, Uy-ti-Grốp và Sơ-đơ-Hin, đều quanh co, chật hẹp, nhà cửa bẩn thỉu, cũ kỹ, đổ nát và các ngôi nhà trong các phố nhỏ thì hoàn toàn kinh tởm. Từ nhà thờ cũ đi dọc phố Lông-Min-ghết, ta thấy ngay ở bên phải là một dãy nhà kiểu cổ không có một mặt nhà nào còn đứng thẳng; đó là những tàn tích của thành phố Man-se-xtơ cũ, Man-se-xtơ thời kỳ chưa có công nghiệp, cư dân cũ đã cùng con cháu họ rời sang những khu tốt hơn, bỏ lại những nhà quá tồi đối với họ cho dân lao động trong đó có nhiều người Ai-rơ-len. Đây mới chính là một khu lao động hầu như không che giấu, vì ngay các cửa hàng và tiệm rượu ở đường phố chính cũng không ai buồn làm cho có vẻ sạch nữa. Nhưng đó cũng còn chưa thấm gì so với các ngõ hẻm và các sân ở đằng sau mà muốn vào đấy phải qua những lối đi lợp kín chật hẹp đến nỗi hai người không thể có đủ chỗ để tránh nhau. Thật khó mà tưởng tượng nổi cái đống nhà cửa lộn xộn trái với mọi quy tắc kiến trúc hợp lý và tình hình chật chội khiến các nhà cửa dính thực sự cái này vào cái kia. Nhưng vấn đề ở đây không phải chỉ ở những căn nhà cổ lỗ từ thời Man-se-xtơ cũ còn lại; chính trong thời gian gần đây, tình hình hỗn độn mới tăng lên đến cực độ, vì chỗ nào trước kia còn hở một khoảng trống thì nay người ta xây thêm nhà, tiếp thêm gian cho đến khi không còn một tấc đất nào có thể xây dựng thêm được nữa mới thôi. Để chứng thực
lời nói của mình, tôi vẽ lại đây một phần nhỏ Man-se-xtơ. Đây không phải là mảnh tồi nhất và cũng chưa được bằng một phần mười của thành phố cũ.
Phía trên cầu Điu-xi, bờ bên trái thì thoai thoải và, ngược lại, bờ bên phải thì lại dốc đứng hơn, nhưng tình hình nhà cửa ở hai bên bờ sông thì không khá hơn tí nào mà lại xấu đi. Ở đây nếu người ta rời khỏi phố chính - vẫn là phố Lông-Min-ghết - mà đi về bên trái thì sẽ lạc đường ngay; ra khỏi sân này thì lại đi vào sân kia, đi qua những xó xỉnh, những chỗ ngoặt, những lối đi hẹp và bẩn, qua mấy phút thì mất hết phương hướng và không còn biết đi về phía nào nữa. Đâu đâu cũng thấy những ngôi nhà đổ nát một phần hoặc hoàn toàn đổ nát, một vài nhà thật sự không có người ở, và ở đây điều đó có nhiều ý nghĩa lắm; trong nhà rất ít khi thấy nền nhà lát gỗ hoặc lát đá, nhưng ngược lại, hầu như ở chỗ nào cửa sổ và cửa ra vào cũng hư nát, xộc xệch, và bẩn thỉu làm sao! Chỗ nào cũng có những đống rác rưởi, đồ bẩn thỉu và vật bỏ đi, cũng có những vũng nước tù thay cho cống rãnh, và chỉ cái mùi hôi thối cũng đủ làm cho một người có chút ít văn hoá không thể ở được. Mới rồi đường xe lửa Lít-xơ được kéo dài thêm một đoạn, vượt qua sông E-rơ-cơ ở chỗ này, nên một phần các sân và ngõ đó đã bị phá đi, nhưng lại làm cho một số khác lần đầu tiên được lộ ra trước mắt người ta. Ví dụ, ngay cạnh cầu xe lửa có một cái sân so với mọi cái sân khác còn bẩn thỉu ghê tởm hơn nhiều, chính vì trước đây nó bị chắn hết tất cả các mặt đến nỗi vào được đấy cũng rất khó khăn; nếu không có chỗ hổng, do xây dựng cầu xe lửa tạo nên, thì chính tôi cũng chẳng bao giờ phát hiện ra nó, mặc dù tôi tưởng mình đã biết khu ấy kỹ lắm. Dọc theo bờ sông lồi lõm, đi ngang qua những cọc và dây phơi quần áo, sẽ vào một đám hỗn độn những nhà nhỏ lụp xụp, một tầng, đa số chỉ có nền đất, ở đây bếp, buồng ở, buồng ngủ, tất cả đều dồn trong một phòng duy nhất. Trong một cái hốc như vậy, dài chưa đầy sáu phút, rộng chưa đầy năm phút, tôi thấy hai chiếc giường - mà giường với đệm có ra gì! - đặt giữa cầu thang và lò bếp, thế là vừa đủ chật gian phòng. Trong nhiều gian nhà đổ nát khác, tôi thấy hoàn toàn không có gì cả, mặc dù cửa mở toang và những người ở đấy đứng cạnh lối ra vào. Trước cửa, chỗ nào cũng có rác rưởi và bùn lầy; bên dưới lớp bùn lầy ấy hình như có con đường lát gì đó, không thể trông thấy được mà chỉ có thể cảm thấy dưới bàn chân đôi chỗ có lát. Bao quanh toàn bộ cái đám chuồng súc vật do người ở đó thì hai mặt là nhà ở và công xưởng, mặt thứ ba là sông. Ngoài cái ngõ cụt chật hẹp trên bờ sông thì chỉ có mỗi một hành lang hẹp dẫn đến một đám nhà chằng chịt khác cũng tồi tệ và bừa bãi như vậy. Nhưng thế là đủ rồi! Nhà cửa trên suốt bờ sông E-rơ-cơ xây dựng như vậy cả. Đó là những đám nhà hỗn độn không trật tự gì, hoặc ít hoặc nhiều đều bị hư hỏng; tình hình bẩn thỉu ở trong nhà cũng tương xứng với tình hình nhớp nhúa bên ngoài. Như vậy thì những người sống ở đây làm sao mà sạch sẽ được? Không có điều kiện cần thiết để giải quyết ngay cả những nhu cầu hàng ngày và tự nhiên nhất. Nhà vệ sinh hiếm hoi đến nỗi ngày nào cũng đầy tràn, hoặc là quá xa, nhiều người không thể sử dụng được. Người ta còn tắm rửa làm sao được khi gần đó chỉ có dòng nước bẩn của con sông E-rơ-cơ, còn ống dẫn nước và vòi nước thì chỉ thấy ở những khu "lịch sự" của thành phố thôi! Thật quả là người ta không thể trách những người dân nô lệ của một xã hội hiện đại, nếu nhà của họ không sạch hơn các chuồng lợn ở rải rác ngay giữa các nhà của họ! Bọn chủ nhà không hề biết xấu hổ khi đem cho thuê những chỗ ở như sáu, bảy nhà hầm ở ven phố bờ sông phía dưới cầu Xcốt-len, nền nhà ấy còn thấp hơn hai phút so với mực nước, khi con nước xuống thấp, của sông E-rơ-cơ cách đó không đầy sáu phút; hoặc như tầng gác trên cùng của ngôi nhà ở góc phố trên bờ sông bên kia, sát phía trên cầu, tầng dưới thì hoàn toàn không ở được và không có cửa sổ cũng không có cửa ra vào gì cả! Nhưng những trường hợp như thế cũng không phải là hiếm ở tất cả các nơi ấy, thêm vào đó phải thấy rằng cái tầng dưới trống trải ấy thường được những người ở xung quanh dùng làm cầu tiêu vì chẳng còn chỗ nào khác tốt hơn! Chúng ta rời sông E-rơ-cơ, để lại len lỏi vào giữa đám dày đặc những nhà cửa của những người lao động ở bên kia đường phố Lông-Min-ghết, ta đến một khu phố có phần mới hơn, chạy dài từ nhà thờ Xanh Mai-clơ đến Uy-ti - Grốp và Sơ-đơ - Hin. Ở đây ít ra cũng còn có trật tự hơn. Ở đây thay cho cái kiến trúc hỗn độn, chúng ta cũng còn thấy ngay đến những đường phố, những ngõ hẻm dài và thẳng hoặc những sân xây dựng theo một quy hoạch nhất định, thường là theo hình tứ giác. Nhưng nếu ở chỗ kia mỗi một nhà đều xây dựng một cách tuỳ tiện, thì ở đây sự tuỳ tiện ấy biểu hiện trong việc xây dựng từng phố, từng sân mà không hề tính toán đến những sân và những phố xung quanh. Đường phố thì khi chạy về phía này, khi thì chạy về phía kia; cứ đi một quãng là có thể sa vào một ngõ cụt hoặc vấp phải một góc hẻm dẫn trở lại đúng chỗ chúng ta vừa mới đi khỏi, và những ai chưa ở trong cái mê cung ấy một thời gian thì nhất định không biết lối nào mà lần. Tình trạng thoáng khí ở các phố và các sân này, - nếu ở đây nói chung cũng dùng chữ này, - cũng tồi như ở khu sông E-rơ-cơ, nhưng dù sao khu này cũng còn có điểm nào đó hơn khu kia - nhà cửa mới hơn, một số phố có rãnh thoát nước, tuy hiếm - thì ngược lại hầu như ở trong mỗi nhà đều có nhà hầm cho người ở, đều ít thấy ở đây vùng bờ sông E-rơ-cơ, chính là do ở đó nhà cửa cũ kỹ và xây dựng cẩu thả hơn. Về các mặt khác, như bẩn thỉu, những đống rác và đống tro, những vũng nước ở đường phố, thì cả hai khu đều giống nhau; ngoài ra, trong khu phố chúng ta đang nói ở đây, còn có một hiện tượng rất tai hại đến vệ sinh của cư dân, - đó là từng đàn lợn lang thang khắp các ngõ ngách, mõn rúc vào rác rưởi, hoặc bị nhốt trong các chuồng nhỏ dựng trong các sân. Tại đây cũng như ở phần lớn các khu lao động ở Man-se-xtơ, những người hàng thịt thuê các sân để dựng chuồng lợn ở đấy; hầu như trong mỗi sân đều có một hoặc vài góc được ngăn ra như vậy, và cư dân trong sân vứt vào đấy mọi thứ cặn bã, rác rưởi; lợn nhờ đó mà béo lên, còn không khí, vốn ngột ngạt trong các sân bốn phía đều bị chắn, thì bị hoàn toàn ô uế vì các chất của động vật và thảo mộc thối rữa. Người ta đã làm qua khu phố ấy một đường phố rộng rãi, khá lịch sự, đó là phố Min-lơ, và như vậy là đã che giấu được mọi cái ở đằng sau một cách khá thành công, nhưng nếu có người nào đó tò mò đi vào một trong rất nhiều lối đi dẫn vào các sân, thì cứ vài chục bước lại vấp phải cái chuồng lợn ấy, hiểu theo đúng nghĩa của chữ này. Thành phố Man-se-xtơ cổ là như vậy đấy. Khi đọc lại bài mô tả của mình, tôi phải nhận rằng không những nó không quá đáng mà trái lại còn chưa đủ để người ta hình dung được rõ ràng cảnh bẩn thỉu đổ nát, tối tăm và cách kiến trúc trái ngược với mọi yêu cầu về sạch sẽ, thoáng khí và vệ sinh của một khu vực chứa ít nhất là hai ba vạn người ấy. Và một khu phố như vậy lại tồn tại ngay trong trung tâm của một thành phố hàng thứ hai của Anh, thành phố công xưởng hàng đầu của thế giới! Nếu người ta muốn biết một con người cần không gian ít nhất đến mức nào để có thể cử động khi cần thiết, cần không khí - mà là thứ không khí gì! - ít nhất đến mức nào để có thể đủ thở, cần ít tiện nghi đến mức nào để sinh tồn - thì người ta cứ việc đến Man-se-xtơ sẽ đủ rõ. Thật vậy, đó là thành phố cũ, - và đó là lý lẽ mà những người ở đấy thường viện ra khi nghe nói đến tình trạng kinh tởm của cái địa ngục trần gian đó, - nhưng chính điều đó nói lên cái gì? Cần hiểu rằng tất cả làm cho chúng ta ghê tởm và phẫn nộ nhất đều là sản phẩm mới nhất, sản phẩm của thời đại công nghiệp. Vài trăm ngôi nhà thuộc thời kỳ Man-se-xtơ cổ đều đã bị những người ở cũ rời bỏ từ lâu, chỉ có công nghiệp là đã dồn đến những ngôi nhà ấy những đám đông người lao động hiện đang ở đấy, chỉ có công nghiệp là đã xây dựng thêm từng xó nhà giữa những căn nhà cũ ấy để kiếm chỗ ở cho những đám đông người đã bị nó thu hút từ các vùng nông nghiệp và từ Ai-rơ-len đến; chỉ có công nghiệp mới cho phép bọn chủ đem các chuồng súc vật ấy cho người thuê làm chỗ ở với giá cắt cổ, lợi dụng sự nghèo khổ của người lao động, huỷ hoại sức khoẻ của hàng nghìn con người để làm giàu riêng cho chúng; chỉ có công nghiệp mới có thể làm cho người lao động vừa mới thoát khỏi chế độ nông nô lại bị sử dụng như một vật vô tri vô giác, như một thứ đồ dùng, làm cho họ phải tự giam mình trong một chỗ ở mà mọi người khác đều cho là quá tồi tệ, một chỗ ở mà họ phải trả bằng những đồng tiền do mồ hôi nước mắt của họ làm ra để được hưởng quyền sử dụng cho đến khi chỗ ở đó sụp đổ hoàn toàn; tất cả những cái ấy chỉ là do công nghiệp gây nên, nền công nghiệp này nếu không có những người lao động đó, không có tình trạng bần cùng và bị nô dịch của họ thì không thể tồn tại được. Đúng là quy hoạch ban đầu của các khu phố ấy rất tồi, từ quy hoạch đó khó mà làm được cái gì tốt đẹp hơn. Nhưng thử hỏi bọn chủ đất đã làm gì, nhà đương cục địa phương đã làm gì để cải thiện nó trong khi tiếp tục xây dựng lại ở đấy? Chẳng làm gì cả; trái lại, chỗ nào còn một xó trống là người ta xây thêm một ngôi nhà, chỗ nào còn một ngõ đi thừa là người ta xây thêm nhà. Giá đất tăng lên cùng với đà phát triển của công nghiệp và giá đất càng tăng thì trên từng mảnh đất người ta càng xây dựng thêm một cách điên cuồng và lộn xộn, chẳng hề quan tâm đến vấn đề sức khoẻ cũng như vấn đề tiện nghi của cư dân, chỉ với ý nghĩ duy nhất là làm sao được nhiều lợi nhuận nhất vì một túp lều tồi tàn đến đâu cũng vẫn có một anh nghèo xác phải thuê vì không thuê nổi một chỗ tốt hơn. - Nhưng đó là thành phố cũ, giai cấp tư sản tự thoả mãn như thế; vậy thì chúng ta hãy đi xem Thành phố mới (the New town) ra sao. Thành phố mới, còn gọi là thành phố Ai-rơ-len (the Irish town), nằm ở bên kia thành phố cũ, trên một ngọn đồi đất sét, ở giữa sông E-rơ-cơ và đường Xanh Gioóc-giơ. Ở đây không còn gì có vẻ thành thị cả. Trên mặt đất sét trơ trụi, không có một ngọn cỏ, nổi lên một cách hỗn độn, những dãy nhà hoặc những đường phố lắt léo, quanh co riêng biệt như những thôn xóm nhỏ. Nhà cửa, đúng hơn là những cốt-ta-giơ, đều hư hỏng, không bao giờ được sửa chữa, bẩn thỉu, có những căn nhà hầm để ở, ẩm thấp, nhớp nhúa. Đường phố không lát gì, cũng không có cống rãnh; nhưng ngược lại, nhiều đàn lợn hoặc nhốt trong các sân nhỏ, hay trong chuồng, hoặc tự do lang thang trên sườn đồi. Đường sá ở đây bùn lầy đến nỗi khi trời thật khô ráo mới có thể đi qua mà không ngập bùn đến mắt cá. Ở gần đường Xanh-Gioóc-giơ, những nhóm nhà riêng biệt ở gần nhau hơn và bắt đầu một loạt liên tục những đường phố nhỏ, ngõ cụt, và sân, càng đến gần trung tâm thành phố thì càng chật chội và càng mất trật tự. Thật ra thì ở đây thường thấy những đường phố có lát, hoặc ít ra là có vỉa hè lát và rãnh thoát nước; nhưng tình trạng nhớp nhúa và tồi tệ của nhà ở, nhất là các nhà hầm thì vẫn như vậy. Cũng nên nêu ra ở đây mấy nhận xét chung về kiểu quy hoạch thông thường của các khu phố lao động ở Man-se-xtơ. Chúng ta đã thấy ở thành phố cũ, nhà cửa phần lớn được sắp xếp một cách thuần tuý ngẫu nhiên. Khi xây dựng mỗi ngôi nhà người ta không nghĩ đến các nhà khác, và những khoảng trống xiên xẹo ở giữa các ngôi nhà vì không biết gọi bằng tên nào khác nên được gọi là sân (court). Trong những phần tương đối mới của khu ấy và trong những khu lao động khác được xây dựng vào những năm đầu phồn vinh của công nghiệp, chúng ta thấy nhà cửa sắp xếp có kế hoạch hơn. Khoảng trống ở giữa hai đường phố được phân chia thành những sân khá đều đặn và thường là hình tứ giác. Các sân này ngay từ đầu đã được xây dựng như trong bản vẽ và từ đường phố đi vào đó có những lối vào lợp kín. Nếu cách sắp xếp nhà cửa không theo kế hoạch nào, rất có hại cho sức khoẻ
khi đốt lò, là đường thoát duy nhất cho không khí u uất trong sân1). Ngoài ra, các nhà trong sân thường xây thành hai dãy, hai nhà chung một tường sau, chỉ điều ấy cũng đủ cản trở mọi sự thông gió tốt. Và vì cảnh sát đường phố không hề quan tâm đến tình hình các sân đó, vì mọi cái trong nhà vứt ra đều nằm nguyên một chỗ, cho nên cũng không nên lạ gì về cảnh bẩn thỉu, về những đống tro than, rác rưởi thấy ở đó. Tôi đã vào hẳn trong các sân - dọc theo phố Min-lơ - các sân này so với phố chính thấp hơn ít ra là nửa phút và không có một đường thoát nào cho nước đọng ở đây khi trời mưa! Về sau người ta bắt đầu xây dựng nhà cửa theo một kiểu khác, kiểu này đến nay đã được thông dụng. Hiện nay các cốt-ta-giơ của người lao động hầu như không bao giờ xây riêng rẽ nữa, mà thường là xây hàng chục hoặc có khi hàng trăm; một nhà kinh doanh xây một lúc một hoặc hai - ba dãy phố, sắp xếp nhau như sau: dãy đằng trước là những cốt-ta-giơ thượng hạng, những nhà này rất may mắn có một cửa sau và một sân nhỏ, và vì thế giá thuê cũng đắt nhất. Sân của những nhà ấy thông ra ngõ sau (back-street), hai đầu ngõ bị xây chắn, có một lối đi hẹp hoặc một đường lợp kín để vào đó. Những nhà trông ra ngõ ấy trả giá thuê rẻ nhất và cũng là những nhà ít được săn sóc nhất. Tường sau những nhà này chung với dãy nhà thứ ba là dãy quay mặt ra đường phố bên kia, dãy thứ ba trả giá thuê rẻ hơn dãy thứ nhất nhưng đắt hơn dãy giữa. Như vậy, cách bố trí các phố gần giống như bản vẽ dưới đây:
Kiểu xây dựng nhà cửa và phố xá như thế này, thật ra, có đảm bảo cho dãy nhà thứ nhất thông gió khá tốt, còn ở dãy thứ ba, thông gió ít ra cũng không kém các nhà tương tự trong kiểu kiến trúc trước; nhưng ngược lại, dãy giữa cũng bí hơi như những cốt-ta-giơ trong các sân, và ngõ sau cũng bẩn thỉu, và khó coi không kém gì sân. Các nhà kinh doanh thích kiểu xây dựng này hơn bởi vì nó vừa tiết kiệm diện tích, vừa cho phép bóc lột nhiều hơn những người lao động có lương khá, nhờ giá cho thuê cao hơn ở dãy thứ nhất và dãy thứ ba. Ba kiểu xây dựng cốt-ta-giơ này thấy ở khắp Man-se-xtơ, thậm chí ở khắp Lan-kê-sia và Y-oóc-sia nữa, nhiều khi xen lẫn nhau, nhưng thường là riêng biệt nhau để có thể chỉ căn cứ vào đặc trưng đó mà nhận ra được niên đại của khu này hay khu khác trong thành phố. Kiểu thứ ba, tức là kiểu có ngõ sau, chiếm ưu thế tuyệt đối trong khu lao động rộng lớn ở phía đông đường Xanh- Gioóc-giơ, ở hai bên đường Ôn-đêm và phố Grít An-cốt-xơ, và đó cũng là kiểu thường thấy nhất ở các khu lao động khác ở Man-se-xtơ và ngoại ô. Đa số các công xưởng lớn nhất ở Man-se-xtơ nằm ở trong khu lao động rộng lớn vừa nói trên, gọi là An-cốt-xơ, dọc theo bờ các kênh đào; đó là những ngôi nhà đồ sộ sáu bảy tầng, với những ống khói cao vút nổi lên trên những cốt-ta-giơ thấp của những người lao động. Bởi thế cư dân trong khu chủ yếu là công nhân công xưởng, còn trong những phố tồi tệ nhất, là thợ dệt thủ công. Những phố ở sát trung tâm thành phố là những phố cổ nhất, và chính vì vậy mà cũng là những phố tồi tàn nhất; tuy nhiên các đường phố đều được lát và có rãnh thoát nước; tôi tính gộp vào đấy những phố ở gần các phố ấy nhất và song song với đường Ôn-đêm và phố Grít An-cốt-xơ. Xa hơn, về phía đông- bắc, thấy nhiều phố mới xây dựng; ở đó các cốt-ta-giơ trông có vẻ hấp dẫn và sạch sẽ, cửa ra vào và cửa sổ đều mới và nước sơn còn tươi, bên trong các phòng cũng quét vôi sạch sẽ; phố xá cũng thoáng khí hơn; khoảng trống giữa các nhà cũng rộng hơn và thường thấy nhiều hơn. Nhưng chỉ có một số ít nhà là được như vậy. Cũng phải nói thêm rằng hầu hết mọi nhà đều có nhà hầm để ở, nhiều đường phố không lát và không có rãnh thoát nước, và trước hết, cái vẻ gọn gàng đó chỉ là bề ngoài, cái bề ngoài này chỉ độ mươi năm là sẽ mất hẳn. Bởi vì chính cách xây dựng nhà cửa cũng không hơn gì cách xây dựng phố xá. Các nhà đó mới nhìn qua đều có vẻ dễ chịu và chắc chắn; tường gạch đồ sộ trông đến thích mắt; nếu đi dọc theo các khu phố lao động mới xây dựng mà không nhìn vào các ngõ đằng sau và không chú ý xem xét kỹ cách kiến trúc của từng nhà, thì có thể đồng ý với nhận định của các ngài chủ xưởng phái tự do cho rằng không ở đâu người lao động lại được ở nhà tốt bằng ở Anh. Nhưng khi nhìn kỹ hơn, sẽ thấy tường các cốt-ta-giơ ấy hết sức mỏng manh. Nhưng tường ngoài của tầng nhà hầm phải chống đỡ cả sức nặng của tầng chính và mái nhà, mà xây nhiều nhất chỉ dày bằng chiều dài một viên gạch, tức là xếp gạch theo từng hàng ngang viên này tiếp viên kia tường dày bằng chiều dài viên gạch;
nhưng tôi còn thấy nhiều cốt-ta-giơ cũng cao như vậy - một số còn đang xây dở - tường ngoài chỉ dày bằng nửa viên gạch, vì gạch xếp không theo chiều ngang mà theo chiều dọc, đầu viên nọ nối đầu viên kia, tường dày bằng mặt ngang viên gạch Sở dĩ như vậy, một phần là để tiết kiệm vật liệu, nhưng một phần cũng vì nhà kinh doanh xây nhà không phải là chủ đất mà chỉ là những người, theo phong tục Anh, thuê đất trong hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi hoặc chín mươi năm; hết hạn đó thì đất đai và tất cả mọi cái xây dựng trên mặt đất đều thuộc về chủ đất, không có bồi thường gì cả. Vì vậy, người thuê đất cố tính toán xây dựng sao cho hết hạn thuê đất thì nhà cửa trên đó sẽ không còn đáng giá bao nhiêu, và vì các cốt-ta-giơ ấy thường chỉ xây dựng hai ba chục năm trước khi hết hạn thuê, nên chúng ta cũng có thể hiểu tại sao chủ xây nhà không muốn bỏ tiền nhiều để xây dựng. Ngoài ra, bọn này phần nhiều là chủ hãng xây dựng hoặc chủ xưởng, chúng chi phí rất ít hoặc không chi phí gì cho việc sửa chữa, một phần vì không muốn giảm bớt thu nhập của mình, một phần vì hạn thuê đất ngắn; trong thời gian khủng hoảng thương nghiệp, khi rất nhiều công nhân thất nghiệp, thường có hàng dãy phố bỏ không, do đó nhà cửa rất chóng đổ nát và không ở được. Người ta đã tính rằng nói chung nhà của người lao động trung bình chỉ ở được bốn mươi năm. Điều đó có vẻ khá kỳ quặc khi nhìn thấy những bức tường đồ sộ đẹp đẽ của những cốt-ta-giơ mới xây, hứa hẹn có thể tồn tại qua nhiều thế kỷ, nhưng sự thật là như thế: sự keo kiệt ngay từ lúc xây dựng, tình hình thiếu sửa chữa, nhà ở thường bỏ không, người ở luôn thay đổi; và sau hết là tình trạng người ở - phần nhiều là người Ai-rơ-len - phá hoại trong khoảng chục năm trước khi hết hạn thuê đất, họ thường hay cạy những mảnh gỗ trong nhà để đốt lò, tất cả những cái đó đã làm cho nhà cửa độ sau bốn mươi năm là đổ nát hết. Vì thế nên khu An-cốt-xơ, mới xây trong thời kỳ công nghiệp phồn vinh và chủ yếu là trong thế kỷ này, mà cũng có nhiều nhà cửa cũ kỹ, đổ nát, và phần lớn, nhà cửa thậm chí bây giờ đã đến giai đoạn cuối cùng có thể ở được. Tôi không muốn nói đến vấn đề là có bao nhiêu vốn đã bị lãng phí như vậy, vấn đề chỉ bỏ thêm chút ít vào việc xây dựng và việc sửa chữa về sau là có thể giữ cho cả khu phố ấy sạch sẽ lịch sự và ở được trong nhiều năm. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến tình hình nhà cửa và điều kiện ăn ở của cư dân và về vấn đề này, phải nói rằng không có chế độ nào làm bại hoại cơ thể và tinh thần người lao động hơn là chế độ này. Người lao động bắt buộc phải ở trong những gian nhà tồi tàn như thế, vì họ không có tiền thuê những nhà tốt hơn, hoặc vì không có nhà tốt hơn ở gần công xưởng họ làm việc, có khi cũng vì những cốt-ta-giơ ấy là của chủ xưởng, có ở thì mới có việc làm. Tất nhiên cái thời hạn bốn mươi năm ấy không phải là quy tắc cố định; nếu nhà cửa ở một khu phố đông đúc của thành phố, thậm chí có phải trả tiền thuê đất cao, vẫn luôn luôn có thể hy vọng tìm được người thuê nhà, nên các chủ nhà cũng sửa chữa đôi chút để giữ cho các nhà ấy phần nào còn ở được trong một thời gian dài hơn; nhưng chắc chắn họ cũng chỉ làm những cái tối cần thiết, và những căn nhà đã được sửa chữa lại đó nằm trong số những nhà tồi tệ nhất. Thỉnh thoảng, khi bệnh dịch đe doạ, thì lương tâm thường khi vẫn ngủ yên của cảnh sát vệ sinh bỗng nhiên thức tỉnh, thế là họ tổ chức kiểm tra đột kích các khu lao động, bắt đóng cửa hàng dãy nhà hầm và cốt-ta-giơ không còn ở được, như đã xảy ra trong nhiều ngõ gần đường Ôn-đêm; nhưng chẳng được bao lâu, các nhà bị cấm đó lại có người đến ở ngay; bọn chủ nhà tìm được người thuê mới, thậm chí còn được lợi nữa, vì người ta thừa biết rằng cảnh sát vệ sinh còn lâu mới trở lại đây! Vùng ven phía đông và đông-bắc Man-se-xtơ là nơi duy nhất không có nhà ở của giai cấp tư sản; vì ở đây gió tây và gió tây-nam thổi suốt 10-11 tháng trong một năm, luôn luôn dồn khói của tất cả các nhà máy về phía đó (mà khói này thực không phải là ít!). Thứ khói ấy chỉ để cho người lao động thở mà thôi! Phía nam phố Grít An-cốt-xơ là một khu lao động lớn đã xây dựng được một nửa, đó là một khu đất đồi trơ trụi, trên đó có hàng dãy nhà hoặc những khối nhà hình tứ giác riêng biệt, phân
Xuống phía dưới một tý, trên tả ngạn sông Mết-lốc, là Huyn-mơ, thực ra chỉ là một khu phố lao động lớn, mà tình hình cơ hồ giống hệt khu An-cốt-xơ. Chỗ nào xây dựng chen chúc thì nhà cửa đều tồi tàn và sắp đổ nát, còn chỗ nào người ở thưa thớt, thì nhà cửa mới hơn và thoáng hơn, nhưng phần lớn là ngập trong bùn. Nơi nào nhà cửa cũng ẩm thấp, nơi nào cũng có nhà hầm cho người ở và ngõ sau. Ngay trong thành phố Man-se-xtơ ở bên kia bờ sông Mết-lốc, có một khu lao động lớn thứ hai, khu này nằm dọc hai bên Đin-xghết đến tận khu buôn bán nhiều chỗ không kém gì thành phố cũ. Nhất là ngay sát khu buôn bán, giữa thành phố Brít-gơ và phố Cây, giữa phố Prin-xét và phố Pi-tơ, tình trạng nhà cửa chen chúc nhiều chỗ còn hơn cả ở những sân chật chội nhất của thành phố cũ. Ở đây có những ngõ dài và hẹp, những sân và lối đi chật hẹp gấp khúc, đường ra lối vào hỗn độn đến nỗi, nếu không quen thuộc từng sân, từng lối đi trong cái mê cung ấy thì chốc chốc chúng ta lại vấp phải một ngõ cụt hoặc là chẳng biết đường nào mà lần. Theo lời bác sĩ Cây thì những khu chật hẹp, bẩn thỉu và đổ nát ấy là chỗ ở của tầng lớp đồi truỵ nhất của cư dân Man-se-xtơ mà nghề nghiệp là trộm cắp hoặc làm đĩ, rõ ràng là lời nói ấy đến bây giờ vẫn còn đúng. Năm 1831, khi cảnh sát vệ sinh đến đây kiểm tra, họ thấy rằng ở đây nhớp nhúa không kém gì ở bờ sông E-rơ-cơ hoặc ở khu Ai-rơ-len nhỏ (tôi có thể chứng minh rằng ngày nay cũng chẳng hơn gì mấy; và thêm vào đó là ở phố Pác-lơ-men cứ ba trăm tám mươi người mới có một hố xí, và trong ngõ Pác-lơ-men thì cứ ba mươi nhà chật ních người ở mới có một hố. Vượt qua sông E-ru-en, chúng ta thấy, trên một bán đảo do con sông này tạo nên, thành phố Xôn-phoóc với tám vạn cư dân; thực ra đó là một khu lao động lớn, có độc một đường phố rộng xuyên qua. Ngày xưa Xôn-phoóc quan trọng hơn Man-se-xtơ, đã từng là trung tâm của toàn vùng xung quanh (Salford Hundred) đến ngày nay vẫn còn mang tên ấy. Vì thế ở đây còn có một khu khá lâu đời, và do đó ngày nay là một khu rất thiếu vệ sinh, bẩn thỉu và đổ nát, ở ngay trước mặt nhà thờ cũ của Man-se-xtơ và cũng tồi tàn như thành phố cũ phía bờ bên kia sông E-ru-en. Xa sông hơn một chút là một khu mới hơn, nhưng cũng đã quá bốn chục năm nên cũng khá đổ nát. Toàn bộ thành phố là những sân và ngõ chật chội, hẹp đến nỗi làm tôi nhớ đến những phố hẹp nhất mà tôi đã có dịp nhìn thấy - đó là những phố nhỏ chật chội ở Giê-nơ. Về phương pháp xây dựng cũng như về mặt vệ sinh, nói chung Xôn-phoóc còn tệ hơn Man-se-xtơ nhiều. Ở Man-se-xtơ cảnh sát còn quá bộ phong những nhà đổ nát nhất, bắt quét dọn những ngóc ngách bẩn thỉu nhất của cái chuồng ngựa Ô-gi-át ấy, còn ở Xôn-phoóc thì hình như chưa bao giờ họ làm như vậy. Những ngõ hẹp ở bên cạnh và những sân ở dọc phố Sê-pơn, ở Grin-ghết và Gra-ven-Lên từ khi xây dựng đến nay chắc chưa hề được quét dọn lần nào. Ngày nay đường xe lửa Li-vớc-pun chạy qua các phố ấy trên một chiếc cầu cao, đã làm mất đi một số xó xỉnh bẩn thỉu nhất, nhưng liệu có nhờ đó mà khá lên không? Khi đi dọc theo cầu cao ấy, từ trên cầu nhìn xuống, người ta vẫn còn thấy cảnh tượng khá nhớp nhúa, nghèo nàn và nếu người ta chịu khó dạo một vòng trong các ngõ ấy và ghé mắt nhìn vào các nhà và các hầm qua các cửa sổ và cửa ra vào mở toang thì rất dễ nhận thấy rằng những người lao động Xôn-phoóc sống ở những nơi không thể nào nói đến sạch sẽ và tiện nghi được. Ở khu vực xa hơn của Xôn-phoóc , ở Ai-xlinh-tơn, dọc đường Ri-giân và sau đường xe lửa Bôn-tơn, cảnh tượng cũng như vậy. Nhà cửa của người lao động giữa Ôn-đphin- Rốt và Crốt-Lên ở hai bên phố Hê-pơ có vô số ngõ và sân vào loại tồi tệ nhất cũng bẩn thỉu và chật chội không kém gì thành phố Man-se-xtơ cũ. Ở nơi này tôi đã thấy một người tuổi trạc sáu mươi sống trong một ngăn chuồng bò; trong cái hộp hình tứ giác ấy không có cửa sổ, không sàn, và thậm chí không lát đá, ông ta đã làm một cái giống như lò sưởi, đặt một chiếc giường và sống ở đó, mặc dù hễ mưa là nước dột qua cái mái tồi tàn ruỗng nát. Ông ta quá già và quá yếu để làm một công việc thường xuyên, đã kiếm ăn bằng cách dùng xe cút-kít chở thuê phân hoặc những thứ tương tự: hố chứa phân ở sát ngay ngăn chuồng bò ông ta ở. Các khu lao động ở Man-se-xtơ mà tôi đã có dịp tự mình quan sát trong hai mươi tháng trời là thế đấy. Nếu khái quát kết quả cuộc du lịch của chúng tôi qua các nơi ấy, thì phải nói rằng hầu hết 35 vạn người lao động ở Man-se-xtơ và các vùng phụ cận đều sống trong những cốt-ta-giơ tồi tàn, ẩm thấp và bẩn thỉu, còn những phố có những căn nhà đó phần nhiều đều trong tình trạng tồi tệ nhất và bừa bãi nhất, khi xây dựng những phố ấy, người ta không hề chú ý đến vấn đề thông gió mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận của chủ nhà thôi; nói tóm lại, trong những căn nhà của người lao động ở Man-se-xtơ, không thể giữ gìn sạch sẽ, cũng không thể giữ được thứ tiện nghi nào, do đó không thể nào có được sự ấm cúng gia đình; trong các căn nhà ấy chỉ có những hạng người thoái hoá, suy đồi về thể xác, mất hết tính người, về trí tuệ và đạo đức đã sa đoạ thành súc vật, mới có thể cảm thấy dễ chịu và ấm cúng. Và không phải chỉ một mình tôi khẳng định như vậy: chúng ta đã thấy bác sĩ Cây cũng mô tả như thế, và tôi còn dẫn chứng thêm những lời nói của một người thuộc Đảng tự do, một nhân vật có uy tín được các chủ xưởng công nhận và kính trọng, một kẻ thù mù quáng của mọi phong trào công nhân độc lập, đó là ông Xê-ni-o1): "Khi tôi quan sát nhà ở của công nhân công xưởng trong thành phố Ai-rơ-len, An-cốt-xơ và Ai-rơ-len nhỏ, tôi chỉ ngạc nhiên một điều là sống trong những căn nhà như vậy mà người ta còn có thể giữ được mức sức khoẻ tương đối. Khi xây dựng những thành phố ấy - đứng về diện tích và dân số mà nói, đó là những thành phố thực sự - người ta không hề quan tâm đến bất cứ một cái gì khác ngoài lợi ích trực tiếp của bọn chủ thầu đầu cơ xây dựng. Chủ hãng mộc và chủ hãng xây dựng mua chung" (tức là thuê trong một số năm nhất định) "mấy lô đất và dựng trên đó những cái mà người ta gọi là nhà. Có chỗ chúng tôi đã thấy cả một dãy phố chạy dọc theo một cái hào quanh co được sử dụng làm tầng nhà hầm khá sâu không phải tốn tiền đào đất, hơn nữa nhà hầm này không phải dùng làm chỗ chứa đồ, hoặc kho tàng, mà là để cho người ở. Không một nhà nào trong phố ấy thoát khỏi bệnh dịch tả. Và thông thường thì những đường phố trong các vùng phụ cận ấy đều không lát, giữa đường là từng đống phân và từng vũng nước, nhà cửa thì dính lưng vào nhau, chẳng có thiết bị thông gió và thoát nước gì cả, và cả một gia đình bị nhốt vào một xó nhà hầm hoặc một xó gác sát mái".
"Thường là cả một gia đình Ai-rơ-len nằm chen chúc trên một cái giường; nhiều khi một đống rơm bẩn và chăn giải giường bằng bao tải cũ, dùng làm chỗ nằm chung cho cả gia đình; và mọi người đều truỵ lạc như nhau vì nghèo khổ, đần độn và phóng đãng. Nhiều khi các uỷ viên kiểm tra đã thấy hai gia đình ở chung một căn nhà có hai phòng, một phòng dùng làm buồng ngủ cho tất cả, phòng kia dùng làm bếp và nhà ăn chung; thậm chí nhiều khi đến mấy gia đình sống trong một gian nhà hầm ẩm ướt; trong bầu không khí hôi thối của gian hầm đó, từ mười hai tới mười sáu người ở chen chúc; ngoài những nguồn bệnh truyền nhiễm như thế còn có tình trạng người ta nuôi lợn cả ở đấy, và bằng nhiều cách khác đã gây ra sự bẩn thỉu kinh tởm nhất"1).
"quần áo bằng những mụn vải rách nát, cởi ra và mặc vào là một việc hết sức khó khăn chỉ tiến hành trong những ngày lễ hoặc trong những trường hợp đặc biệt long trọng". Người Ai-rơ-len cũng đã đưa vào Anh cái thói quen đi chân đất mà trước kia ở Anh chưa từng có. Ngày nay ở tất cả các thành phố công xưởng, thấy rất nhiều người, nhất là đàn bà và trẻ con, đi chân đất và cái thói quen ấy lan dần sang những người Anh nghèo khổ nhất. Mặc thế nào thì ăn thế vậy: người lao động chỉ kiếm được những cái mà giai cấp có của cho là tồi quá. Trong các thành phố lớn ở Anh, của ngon vật lạ cái gì cũng có, nhưng rất đắt, người lao động phải tính từng xu trong chỉ tiêu, không thể nào bỏ ra nhiều tiền như thế được. Thêm vào đó họ thường chỉ được lĩnh lương vào chiều thứ bảy, đúng là có một vài nơi đã trả lương vào thứ sáu, nhưng sáng kiến này còn chưa thành phổ biến. Như vậy mãi đến tận bốn, năm giờ hoặc đến bảy giờ chiều thứ bảy họ mới ra tới chợ, còn bọn tư sản đã chọn hết những thứ ngon lành nhất từ buổi sáng rồi. Buổi sáng chợ đầy những thức ăn ngon nhất, nhưng khi người lao động ra đến chợ thì những cái tốt nhất đã hết sạch; mà dù có còn đi nữa, thì chắc họ cũng không thể mua được. Khoai tây họ mua thường thuộc loại tồi nhất, rau thì héo, phó-mát thì để lâu và phẩm chất tồi, mỡ lợn ôi, thịt không béo, dai, của súc vật gầy, già, thường là của súc vật ốm hoặc chết, nhiều khi đã gần thối hỏng. Cung cấp cho công nhân thường là nhừng người buôn bán nhỏ; họ mua những hàng tồi, và chính vì hàng kém phẩm chất nên họ mới bán được rẻ như vậy. Những người lao động nghèo khổ nhất còn phải xoay xở một cách đặc biệt để với một số tiền ít ỏi của họ, họ có thể mua được những thực phẩm cần thiết, dù là phẩm chất tồi: vì đến nửa đêm thứ bảy tất cả các cửa hàng đều phải đóng cửa và ngày chủ nhật thì không có mua bán gì, nên khoảng giữa mười và mười hai giờ đêm các cửa hàng bán những thứ hàng không thể để lại đến sáng thứ hai với giá rất rẻ. Nhưng những thức ăn đến mười giờ đêm thứ bảy còn ế lại thì đến sáng chủ nhật, chín phần mười là không ăn được nữa, và đó chính là thức ăn chủ nhật của giai cấp nghèo khổ nhất. Loại thịt mà người lao động mua được thường là không thể ăn được nhưng vì đã mua về thì đành phải ăn thôi. Ngày 6 tháng Giêng 1844 (nếu tôi không nhầm) ở Man-se-xtơ, một toà án địa phương (court leet) xử phạt mười một người bán thịt vì đã bán thịt không thể ăn được. Trong đó, một hàng có nguyên một con bò, một hàng có nguyên một con lợn, một hàng có mấy con cừu, một hàng có năm sáu mươi pao thịt bò; tất cả những thứ ấy đều bị tịch thu vì đã hoàn toàn không thể ăn được nữa. Người ta đã tịch thu 64 con ngỗng quay nhồi thịt cho lễ Nô-en của một trong những người bán thịt ấy, vì bán ế ở Li-vớc-pun, nên được chở đến Man-se-xtơ, khi ra đến chợ thì đã trương phềnh lên và đã xông lên mùi hôi thối. Báo "Manchester Guardian" có tường thuật tỉ mỉ chuyện này, nêu cả tên người và số tiền phạt. Cũng tờ báo đó, trong sáu tuần lễ từ 1 tháng Bảy đến 14 tháng Tám, đã đăng tin về ba vụ tương tự: số báo ngày 3 tháng Bảy đăng tin ở Hây-út đã tịch thu một con lợn 200 pao mà người bán thịt tìm thấy đã chết và đang trương phềnh lên nhưng vẫn đem xẻ thịt ra bán; theo số báo ngày 31 tháng Bảy, hai hàng thịt ở Uy-gan, trong đó một người đã mắc tội này không phải là lần đầu, bị xử 2 và 4 pao xtéc-linh tiền phạt vì đã bán thịt không thể ăn được; cuối cùng, theo số báo ngày 10 tháng Tám, một quầy bán lẻ ở Bôn-tơn bị tịch thu 26 cái dăm-bông không thể ăn được, đem đốt trước công chúng, và bị phạt 20 si-linh. Nhưng đây chưa phải là đã kể hết mọi trường hợp, cũng không thể xem đó là con số trung bình trong sáu tuần để từ đó suy ra con số trung bình hàng năm. Có những thời gian mỗi số báo "Guardian", báo này ra tuần hai kỳ đều có đăng tin về những trường hợp tương tự xảy ra hoặc ở Man-se-xtơ, hoặc ở các thành phố công xưởng bên cạnh. Đồng thời nên nhớ rằng vì phạm vi rộng lớn của các chợ nằm dọc tất cả các phố lớn và vì sự kiểm tra không nghiêm ngặt, cho nên nhiều trường hợp đã lọt qua mắt các viên kiểm tra chợ nến không thì cắt nghĩa làm sao được việc các hàng thịt đã trắng trợn đem cả từng con vật đã thối ra bán? Nếu chú ý rằng với hình phạt quá nhẹ như đã nói trên thì thấy sự cám dỗ của lối buôn bán ấy đối với những người tiểu thương có sức mạnh biết chừng nào; nếu hình dung được một miếng thịt như thế nào mới bị các viên kiểm tra cho là hoàn toàn không thể ăn được và tịch thu, thì không thể tin được là người lao động bình thường có thể mua được thịt ngon và bổ. Nhưng về các mặt khác họ còn phải khổ vì lòng tham của giai cấp tư sản. Bọn thương nhân và bọn chủ xưởng làm giả các loại thực phẩm một cách vô lương tâm nhất, hoàn toàn coi rẻ sức khoẻ của những người buộc phải tiêu thụ những thực phẩm đó. Trên kia ta đã dẫn chứng ở báo "Manchester Guardian", bây giờ ta hãy nghe một tờ báo khác của giai cấp tư sản - tôi thích đưa đối thủ của mình ra làm chứng, - tờ "Liverpool Mercury". Người bán bơ mặn giả làm bơ tươi bằng cách trải qua một lớp bơ tươi trên mặt những tảng bơ mặn, để đánh lừa khẩu vị, hoặc để một pao bơ tươi ở trên cho nếm thử rồi sau đó bán bơ mặn, hoặc rửa bớt muối rồi bán làm bơ tươi. - Đường thì đem trộn bột gạo hoặc những chất gì rẻ tiền rồi mang bán theo giá đường tinh. Những cặn bã nấu xà phòng cũng đem trộn với những thứ khác giả làm đường. Cà-phê bột thì trộn lẫn bột cải đắng hoặc những thứ rẻ tiền khác; nhiều khi làm giả Cà-phê chưa xay bằng cách tạo ra những hình dáng giống hạt cà-phê - Ca-cao thường trộn lẫn với đất sét màu nâu xám nghiền vụn có phết mỡ cừu để cho dễ lẫn với ca-cao thật. - Chè thì trộn lẫn với lá mận gai và những thứ giống như thế hoặc lá chè đã pha rồi đem phơi khô, rang trên tấm đồng nung nóng để lấy lại mầu chè rồi bán làm chè mới. Hạt tiêu thì trộn lẫn với vỏ đậu nghiền thành bột, v.v.. Rượu Poóc-tô thì dứt khoát là làm giả (bằng thuốc màu, cồn và những thứ khác), vì mọi người đều biết chỉ riêng số rượu Poóc-tô tiêu thụ ở Anh đã nhiều hơn số rượu Poóc-tô mà tất cả các vườn nho ở Bồ Đào Nha có thể cung cấp được. Các loại thuốc lá bán ở thị trường đều pha lẫn với đủ mọi thứ đáng tởm". (Ở đây tôi có thể bổ sung rằng việc làm giả thuốc lá phổ biến đến nỗi nhiều tay buôn thuốc lá vào loại có tiếng nhất ở Man-se-xtơ, mùa hè vừa qua đã công khai tuyên bố rằng việc kinh doanh của họ không thể tồn tại nếu không làm giả và tất cả mọi loại xì-gà giá dưới ba pen-ni một điếu đều không phải là thuốc lá nguyên chất). Tất nhiên, không phải chỉ trong các loại thực phẩm mới có sự làm giả, tôi còn có thể kể ra hàng tá ví dụ nữa, như cái thói đê tiện trộn bột thạch cao hoặc bột phấn vào bột mì. Người ta lừa bịp khắp mọi nơi: nỉ mỏng, bít tất, v.v. thì kéo căng ra cho có vẻ dài, và mới giặt lần đầu đã co lại; dạ khổ hẹp hơn quy cách mất một in-sơ rưỡi hoặc ba in-sơ được bán làm dạ khổ rộng; bát đĩa thì tráng men mỏng đến nỗi lớp men bong đi ngay; và còn hàng nghìn sự lừa lọc như vậy nữa. - Tout comme chez nous1*. Nhưng ai là người phải chịu những hậu quả tai hại của sự giả mạo ấy nhiều hơn người lao động? Anh nhà giàu không bị lừa vì anh ta có thể mua giá cao ở các cửa hàng lớn mà các chủ cửa hàng này phải giữ tiếng, vì nếu họ bán hàng xấu và giả thì chính họ lại bị thiệt nhất; ngoài ra, anh nhà giàu còn rất tinh trong việc ăn uống, vị giác khá nhạy của anh ta rất dễ phát hiện sự giả mạo. Nhưng kẻ nghèo, người lao động phải tính từng xu, phải mua được nhiều hàng với số tiền ít ỏi, không thể và cũng không biết chú ý nhiều tới chất lượng, mà càng không biết làm việc đó vì chưa bao giờ có dịp phát triển vị giác của mình, chính kẻ nghèo phải mua tất cả những thực phẩm giả, thường bị nhiễm độc ấy. Họ bắt buộc phải mua ở quầy hàng nhà buôn nhỏ, thậm chí thường phải mua chịu; còn những nhà buôn nhỏ ấy vì vốn ít mà phí tổn kinh doanh lại nhiều, nên ngay cùng một loại hàng, cũng không thể bán rẻ bằng nhà buôn lớn, - và vì khách hàng đòi mua giá rẻ cũng như vì phải cạnh tranh với kẻ khác, cho nên cố ý hay không cũng phải bán những hàng giả. Hơn nữa nếu nhà buôn lớn đã bỏ vào kinh doanh một số vốn to, sẽ mất tín nhiệm và bị phá sản một khi hành vi gian lận bị phát giác, - còn một chủ hiệu nhỏ chỉ cung cấp cho một đường phố nào đó, nếu bị phát giác là gian lận thì sẽ mất gì? Nếu anh ta mất tín nhiệm ở An-cốt-xơ thì anh ta dọn sang Troóc-tơn hoặc Huyn-mơ, ở đó chẳng ai quen biết anh ta và anh ta lại có thể làm ăn gian lận như trước. Mà những hành vi gian lận thì rất ít bị pháp luật truy tố, trừ phi là có liên quan đến việc lậu thuế.- Nhưng người lao động Anh không phải chỉ bị lừa về mặt phẩm chất hàng, mà còn bị lừa cả về mặt số lượng. Cân và thước đo của các nhà buôn nhỏ phần nhiều là không đúng; và trong những báo cáo của cảnh sát, người ta thấy ngày nào những vụ phạt về loại vi phạm ấy cũng có rất nhiều. Vài mẩu tin trong báo "Manchester Guardian" sẽ cho chúng ta thấy rằng những việc gian lận như thế phổ biến đến thế nào trong các khu công nghiệp; ở đây chỉ hạn chế trong một thời gian ngắn, mà trong thời gian đó tôi cũng không có đủ tất cả các số báo trong tay. Báo "Guardian", ngày 16 tháng Sáu 1844. Phiên toà ở Rô-sđên- 4 chủ hiệu bị phạt tiền từ 5 đến 10 si-linh vì dùng quả cân quá nhẹ. - Phiên toà ở Xtốc poóc- Hai chủ hiệu bị phạt tiền 1 si-linh: một trong hai người có 7 quả cân quá nhẹ và 1 cái cân sai, và cả hai trước đây đã bị cảnh cáo. Báo "Guardian", ngày 19 tháng Sáu. Phiên toà ở Rô-sđên - 1 chủ hiệu bị phạt tiền 5 si-linh và 2 nông dân bị phạt 10 si-linh. Báo "Guardian", ngày 22 tháng Sáu. Thẩm phán hoà giải Man-se-xtơ đã phạt tiền 19 chủ hiệu từ 2,5 si-linh đến 2 pao xtéc-linh. Báo "Guardian", ngày 26 tháng Sáu. Phiên toà ở A-stơn - 14 chủ hiệu và nông dân bị phạt tiền từ 2,5 si-linh đến một pao xtéc-linh. - Phiên toà hoà giải ở Hai-đơ - 9 nông dân và chủ hiệu bị phạt 5 si-linh và phải nộp án phí. Báo "Guardian", ngày 9 tháng Bảy. Man-se-xtơ, 16 chủ hiệu phải nộp án phí và phạt tiền từ 10 si-linh trở xuống. Báo "Guardian", ngày 13 tháng Bảy, Man-se-xtơ, 9 chủ hiệu bị phạt tiền từ 2,5 si-linh đến 20 si-linh. Báo "Guardian", ngày 24 tháng Bảy. Rô-sơ-đên, 4 chủ hiệu bị phạt từ 10 đến 20 si-linh. Báo "Guardian", ngày 27 tháng Bảy. Bôn-tơn, 12 chủ hiệu và chủ khách sạn phải nộp án phí. Báo "Guardian", ngày 3 tháng Tám. Bôn-tơn, 3 chủ hiệu bị phạt tiền từ 2,5 đến 5 si-linh. Báo "Guardian", ngày 10 tháng Tám. Bôn-tơn, 1 chủ hiệu bị phạt tiền 5 si-linh. Những nguyên nhân khiến cho chủ yếu là người lao động bị lừa gạt về mặt phẩm chất hàng hoá cũng chính là những nguyên nhân khiến họ bị lừa gạt về mặt số lượng. Sự ăn uống thông thường của mỗi công nhân, tất nhiên khác nhau tuỳ theo tiền lương. Những công nhân được trả lương cao hơn, nhất là những công nhân công xưởng mà trong gia đình mỗi người đều có thể kiếm được ít nhiều, khi mà mọi người đều có việc làm thì ăn uống khá; trên bàn ăn hàng ngày có thịt, và buổi tối có thịt mỡ và pho-mát. Nơi nào tiền lương thấp hơn thì chỉ chủ nhật mới ăn thịt hoặc mỗi tuần ăn hai, ba lần, còn thì ăn bánh mì và khoai tây nhiều hơn. Nơi nào tiền lương thấp hơn nữa thì thịt chỉ còn là tí thịt mỡ cắt thành miếng nhỏ trộn với khoai tây; lương thấp hơn nữa, thì tí thịt mỡ ấy cũng không có, chỉ còn pho-mát, bánh mì, cháo yến mạch (porridge) và khoai tây; cuối cùng, đối với những công nhân lương thấp nhất, tức những người Ai-rơ-len, thì khoai tây là thức ăn duy nhất. Đồng thời, nói chung họ đều uống một thứ nước chè loãng, thỉnh thoảng có đường, hoặc pha ít sữa hay chút rượu; ở Anh, và cả ở Ai-rơ-len, nước chè được coi là đồ uống cũng quan trọng và cần thiết như là cà-phê ở nước Đức chúng ta; không có nước chè uống là nhà cực kỳ nghèo khổ. - Nhưng muốn có tất cả những cái ấy thì điều kiện đầu tiên là công nhân phải có việc làm; khi anh không có việc làm, thì hoàn toàn là nhờ may rủi, anh ta ăn cái gì người ta cho, cái gì xin được hoặc ăn cắp được; nếu không kiếm được gì cả thì cứ việc chết đói, như đã thấy ở trên. Cố nhiên số lượng và phẩm chất thức ăn là do tiền lương quyết định, cho nên những công nhân lương thấp đói ngay trong khi họ có việc làm, nhất là khi họ có gia đình đông người; số công nhân lương thấp ấy lại rất nhiều. Đặc biệt là ở Luân Đôn, nơi mà sự cạnh tranh giữa công nhân cùng tăng lên theo với dân số, tầng lớp công nhân ấy rất đông, nhưng ở các thành phố khác cũng thấy có tầng lớp ấy. Trong tình hình ấy, người ta xoay xở đủ cách, và do không có thức ăn nào khác, người ta phải ăn cả vỏ khoai, lá rau nhặt bỏ đi, hoa quả thối1), và phàm cái gì còn chứa chút ít chất ăn được là người ta đều tham lam vơ vét hết. Khi chưa hết tuần mà tiền lương hàng tuần đã cạn, thì thường trong mấy ngày cuối tuần cả nhà không ăn gì cả, hoặc chỉ ăn chút gì thật cần thiết để khỏi chết đói thôi. Phương thức sống như vậy nhất định phải gây nên vô số bệnh tật và khi bệnh tật chỉ vừa mới bắt đầu xảy ra, nhất là khi người đàn ông đau ốm - người chủ yếu nuôi gia đình, người cần ăn nhiều nhất vì lao lực quá nhiều và do đó cũng là người đầu tiên ốm thì nỗi cùng khổ càng lớn và càng bộc lộ đặc biệt rõ rệt tính tàn nhẫn của xã hội, bỏ mặc cho số phận những thành viên của mình chính khi họ cần đến sự giúp đỡ của xã hội nhiều nhất. Để kết thúc, chúng ta hãy tóm tắt lại những sự việc đã thuật lại ở chương này. Cư dân các thành phố lớn chủ yếu là công nhân, vì nhiều lắm thì cũng hai người công nhân mới có một người tư sản, thường thì là ba người công nhân, có nơi đến bốn người công nhân mới có một người tư sản; những người công nhân đó bản thân không có chút tài sản gì đáng kể và chỉ sống bằng tiền lương và hầu hết là luôn luôn chỉ vừa đủ ăn; cái xã hội gồm những
1* (Năm 1892). Đó là viết cách đây gần 50 năm vào thời đại của những chiếc tàu buồm mỹ lệ. Ngày nay, nếu còn có cái nào đến Luân Đôn, thì chúng bị tống vào các bến chữa tàu, còn sông Têm-dơ thì dày đặc những tàu máy đen sì gớm ghiếc. (Chú thích của Ăng-ghen viết cho bản tiếng Đức năm 1892.) 1) Sau khi tôi viết đoạn mô tả này, tôi đã có dịp đọc một bài báo trong tờ "Illuminated Magazine" (tháng Mười 1844) nói về các khu lao động ở Luân Đôn. Không những trong bài báo đó có nhiều đoạn cơ hồ y hệt như tôi mô tả, mà về nội dung thì chỗ nào cũng hoàn toàn phù hợp. Bài ấy nhan đề là: "Nhà cửa ở của những người nghèo. Trích sổ tay của một bác sĩ y khoa". 99 Ăng-ghen trích dẫn bản tin của mục sư Ôn-xtơn ban đầu đăng trên tờ "The Weekly Dispatch" ("Tin nhanh hàng tuần"), cơ quan của phái tư sản cấp tiến, sau đăng lại trên tờ "The Northern Star" ("Sao Bắc cực") của phái Hiến chương số 338, 4 tháng Năm 1844.- 100 "The Times" ("Thời báo") là tờ báo ra hàng ngày lớn nhất của Anh, có khuynh hướng bảo thủ; được sáng lập ở Luân Đôn năm 1785. 1) Trích trong cuốn: Dr. W. P.Alison, F.R.S.E., fellow and late President of the Royal College of Physicians etc. etc. "Observations on the Management of the Poor in Scotland and its Effects on the Health of Great Towns". Edinburgh, 1840. [Bác sĩ U. P. A-li-xơn, hội viên và cựu chủ tịch Hội phẫu thuật hoàng gia v.v. và v.v.. "Những nhận xét về biện pháp quản lý những người nghèo ở Xcốt-len và ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc ấy đối với tình hình vệ sinh ở các thành phố lớn". Ê-đin-bớc, 1840]. Tác giả là một đảng viên đảng To-ri, có tín ngưỡng tôn giáo, là anh của nhà sử học Ác-si-ban A-li-xơn. 1) "Report to the Home Secretary from the Poor - Law Commissiones, or an Inquiry into the Sanitary Condition of the Labouring Classes of Creat Britain". With Appendices. Presented to both Houses of Parliament in July 1842. - 3 vols, in folio ["Báo cáo của Tiểu ban luật về người nghèo gửi bộ trưởng Bộ Nội vụ nói về kết quả điều tra những điều kiện vệ sinh trong đời sống của các giai cấp lao động ở Đại Bri-ten. Có kèm theo phụ lục. Trình bày trước hai viện vào tháng Bảy 1842 - 3 tập in folio]. - Những tài liệu này bao gồm những báo cáo của các bác sĩ do Ét-vin Sát-uých, thư ký Tiểu ban luật về người nghèo, thu thập và chỉnh lý.
1) "Arts and Artisans at Home and Abroad". By J. C. Simons. Edinburgh, 1839 [Gi.C. Xai-mơn-xơ. "Nghề thủ công và thợ thủ công nghiệp ở nước ta và ở nước ngoài". Ê-đin-bớc, 1839]. Có lẽ bản thân tác giả là người Xcốt-len, thuộc Đảng tự do, do đó có thái độ thành kiến mù quáng đối với mọi phong trào công nhân độc lập. Những đoạn trích trên ở trang 116 và trang tiếp theo. 1) Trong văn bản có chỗ nào nói đến dặm thì hiểu là dặm Anh, 69,5 dặm Anh bằng một độ của đường xích đạo và như vậy là khoảng năm dặm Anh bằng một dặm Đức. 2) Nên nhớ rằng các "nhà hầm" đó không phải là kho chứa đồ thừa mà chính là những chỗ cho người ở. 101 Bản báo cáo mà Ăng-ghen trích dẫn ra ở đây là của một uỷ ban do dân cư ở Hát-đơ-xphin bầu ra ngày 19 tháng Bảy 1844 để điều tra tình hình vệ sinh thành phố, đã được đăng trên tờ "The Northern Star" số 352, ngày 10 tháng Tám 1844. 102 Cớc-xôn Mua là một quả đồi gần Man-se-xtơ, nơi đây đã diễn ra nhiều cuộc họp của công nhân. Ăng-ghen gọi Cớc-xôn Mua là "Núi thánh" để so sánh với Núi thánh cổ La Mã là nơi mà, theo truyền thuyết, năm 494 trước công nguyên, những người bình dân khởi nghĩa chống quý tộc đã rút vào đấy. 1* Cách chơi chữ: "big wigs" có nghĩa là "nhân vật quan trọng" và cũng có nghĩa là "những đảng viên vĩ đại của đảng Vích". 1) "The Moral and Physical Condition of the Working Classes, omployed in the Cotton Manufacture in Manchester". By James Ph. Kay, Dr. Med.2nd edit, 1832 (Bác sĩ y khoa Gi.Ph.Cây "Tình cảnh tinh thần và vật chất của giai cấp công nhân công nghiệp bông sợi ở Man-se-xtơ", xuất bản lần thứ hai, 1832. - Tác giả không phân biệt giữa giai cấp lao động nói chung và công nhân công xưởng, nhưng những phần khác của tập sách đều rất tốt. 1) Vậy mà một đảng viên tự do Anh thông thái đã có lần xác nhận trong "Báo cáo của Tiểu ban điều tra về lao động trẻ em", rằng các sân ấy là mẫu mực của nghệ thuật kiến trúc thành phố vì chúng giống như một loạt những quảng trường nhỏ lộ thiên có thể cải thiện tình trạng thông gió và giúp cho không khí lưu thông! Điều này sẽ đúng nếu như mỗi sân có hai hay bốn lối đi rộng, lộ thiên và đối diện nhau, để cho không khí có thể lưu thông tự do được; nhưng trong các sân không bao giờ có đến hai lối đi lộ thiên như thế, thậm chí đến một lối đi cũng rất hiếm, mà hầu hết chỉ có những lối vào hẹp và lợp kín. 1) Bác sĩ Cây, tác phẩm đã dẫn. 1) Nassau W. Senior "Letters on the Factory Act to the Rt. Hon.the President of the Board of Trade (Chas.Poulett Thomson Esq.)". London, 1837, p. 24 [Nát-xô U.Xê-ni-o "Những bức thư về đạo luật công xưởng gửi Bộ trưởng thương nghiệp (Ngài Sác-lơ Pu-lét Tôm-xơn)". Luân Đôn, 1837, tr. 24]. P. Gaskell "The Manufacturing Population of England, its Moral, Social and Physical Condition, and the Changes, which have arisen from the Use of Steam - Machinery. With an Examination of Infant Labour" Fiat Justitia". - 1833 [P. Ga-xken "Dân cư công nghiệp ở Anh, tình trạng đạo đức, xã hội và thể chất của họ và những biến đổi đã xảy ra từ khi sử dụng máy hơi nước; kèm theo một bản điều tra về lao động trẻ em". "Fiat Justitia". - 1833]. Tác phẩm này chủ yếu là mô tả tình cảnh của những người lao động ở Lan-kê-sia. Tác giả thuộc Đảng tự do, nhưng ông viết tác phẩm này vào lúc mà người của Đảng tự do chưa tự coi mình phải có nghĩa vụ tán dương "cuộc sống hạnh phúc" của người lao động. Vì thế mà ông ta còn chưa có thiên kiến và còn nhìn thấy rõ được những thiếu sót do chế độ hiện nay và nhất là chế độ công xưởng gây ra. Nhưng đồng thời ông ta lại viết trước khi có Tiểu ban điều tra về công xưởng và dựa vào những nguồn tin đáng ngờ vực mà khẳng định một số điều về sau đã bị báo cáo của tiểu ban điều tra bác bỏ. Vì lý do đó và vì tác giả, cũng giống như bác sĩ Cây, đã lẫn lộn giai cấp lao động nói chung với công nhân công xưởng nói riêng, nên mặc dù quyển sách ấy về toàn bộ là tốt nhưng khi sử dụng phải thận trọng đối với một số chi tiết cá biệt. - Lịch sử phát triển của giai cấp vô sản mà tôi trình bày trong "Lời mở đầu" phần lớn dựa vào những tài liệu lấy trong tác phẩm này. 1* - Loại áo vét ngắn bằng nhung sợi bông
1) Thomas Carlyle. "Chartism". London, 1840, p.28 (Tô-mát Các-lai-lơ. "Phong trào hiến chương". Luân Đôn, 1840, tr. 28).- Về Tô-mát Các-lai-lơ, xem ở dưới. 1* Nguyên văn là "bụi quỷ"; là loại vải dệt bằng vải len cũ đã dùng máy bật lại, (tiếng Anh - devil). 1* - Y hệt như ở nước ta. 1) "Weekly Dispatch". tháng Tư hoặc tháng Năm 1844, theo báo cáo về tình hình người nghèo ở Luân Đôn của bác sĩ Xao-vu-đơ Xmít. |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC