TÌNH CẢNH CỦA GIAI CẤP LAO ĐỘNG Ở ANH - MỤC LỤC
TÌNH CẢNH CỦA GIAI CẤP LAO ĐỘNG Ở ANH.
Theo những sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy ______________
LỜI MỞ ĐẦU
C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995. | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh | Bản dịch tiếng Pháp.
Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa thứ hai của thế kỷ XVIII, cùng với việc phát minh ra máy hơi nước và những máy làm bông. Như ta đã biết, những phát minh ấy đã gây nên một bước nhảy vọt trong cuộc cách mạng công nghiệp, cuộc cách mạng mà hiện nay người ta chỉ vừa mới bắt đầu nhận thức được ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của nó thì đồng thời nó cũng đã làm biến đổi toàn bộ xã hội công dân. Anh là nước điển hình về sự biến đổi ấy, biến đổi càng tiến hành lặng lẽ, thì càng mạnh mẽ; do đó, nước Anh cũng là nước điển hình về sự phát triển của giai cấp vô sản, kết quả chủ yếu của sự biến đổi đó. Chỉ có ở Anh mới có thể nghiên cứu toàn diện giai cấp vô sản trên tất cả các mối quan hệ của nó. Ở đây, chúng ta không xét đến lịch sử cuộc cách mạng ấy, cũng như không xét đến ý nghĩa to lớn của nó đối với hiện tại và tương lai. Đó là một đề mục phải dành cho một tác phẩm rộng rãi hơn sau này. Hiện nay, chúng ta chỉ giới hạn ở mấy điểm cần thiết để làm sáng tỏ những sự kiện sau đây, để hiểu rõ tình cảnh hiện tại của giai cấp vô sản Anh. Khi chưa dùng máy móc, việc kéo sợi, dệt vải, đều làm ở nhà người thợ. Vợ và con gái kéo sợi, người chồng đem sợi ấy dệt thành vải; nếu anh ta không tự dệt lấy thì đem sợi đi bán. Các gia đình thợ dệt ấy phần đông sống ở nông thôn, gần thành phố và có thể làm đủ ăn vì lúc đó về mặt nhu cầu vải thì thị trường địa phương còn có ý nghĩa quyết định, thậm chí hầu như là thị trường duy nhất còn sức mạnh của cạnh tranh, sau này tự mở đường với sự xâm chiếm các thị trường nước ngoài và mở rộng buôn bán, bấy giờ còn chưa ảnh hưởng mấy tới tiền lương. Thêm vào đó sự tăng lên không ngừng của nhu cầu trên thị trường trong nước, song song với sự tăng lên từ từ của dân số đã đảm bảo cho mọi người công nhân đều có việc làm; ngoài ra không thể có cạnh tranh mạnh mẽ giữa họ với nhau do điều kiện cư trú phân tán của họ ở nông thôn. Cho nên phần đông những người thợ dệt thậm chí có thể dành dụm được chút ít và thuê được một mảnh đất nho nhỏ để làm trong những lúc rảnh rang - mà thì giờ muốn rảnh bao nhiêu cũng được, bởi vì anh ta muốn dệt nhiều, dệt ít hay dệt lúc nào là tuỳ ý. Thực ra thì về nghề nông anh ta cũng tồi, trồng trọt qua loa và cũng chẳng thu lợi được mấy; nhưng ít ra thì anh ta cũng không phải là một người vô sản; như người Anh thường nói, anh ta đã đóng cọc trên mảnh đất quê hương; anh ta có định sở và, trong xã hội, anh ta đứng cao hơn một bậc so với người công nhân Anh ngày nay. Như vậy người lao động sống một cuộc sống tầm thường và ấm cúng, một cuộc đời ngay thực, yên ổn trong cảnh hoà thuận và được người ta quý trọng; so với những người công nhân sau này thì tình cảnh sinh hoạt vật chất của họ khá hơn nhiều. Họ chả cần gì phải làm quá sức; họ muốn làm bao nhiêu thì làm mà vẫn kiếm đủ dùng; họ có thì giờ rảnh để lao động bồi bổ sức khoẻ ở trong vườn hay ngoài ruộng, bản thân công việc này lại là một sự nghỉ ngơi đối với họ, ngoài ra họ còn có thể tham gia những cuộc vui chơi giải trí của hàng xóm láng giềng; và tất cả các trò chơi đó như đánh ky, chơi bóng v.v. lại có tác dụng rất tốt để bảo vệ sức khoẻ và tăng cường thân thể cho họ. Họ phần nhiều khoẻ mạnh, rắn chắc, thể cách của họ không khác mấy, thậm chí chẳng khác gì thể cách của những người nông dân láng giềng của họ. Con cái họ lớn lên trong không khí lành mạnh của nông thôn, và nếu chúng có giúp đỡ cha mẹ làm việc thì cũng chỉ thỉnh thoảngthôi, chứ đương nhiên không phải chuyện mỗi ngày phải làm tám tiếng hay mười hai tiếng đồng hồ. Có thể dễ dàng hình dung được mức độ đạo đức và trí tuệ của giai cấp đó như thế nào. Họ sống tách rời các thành phố là nơi họ không hề bước chân đến, vì sợi và vải thì họ trao cho những thương nhân lưu động để đổi lấy tiền công; họ tách rời với thành phố đến nỗi có những ông bà già ở sát thành phố mà chưa hề bước chân đến thành phố, cho đến khi máy móc cướp mất thu nhập của họ và lôi cuốn họ ra thành phố kiếm việc làm; về mặt đạo đức và trí tuệ, họ ở cùng trình độ với nông dân, là những người mà phần lớn họ có quan hệ trực tiếp do mảnh đất nhỏ họ lĩnh canh. Họ coi tên squire - tên địa chủ lớn nhất trong vùng - như là "cấp trên đương nhiên" của mình, có gì thì hỏi hắn, có tranh chấp lặt vặt gì với nhau thì nhờ hắn khu xử và tôn kính hắn theo đúng mối quan hệ gia trưởng như thế. Họ là những người "đáng tôn kính", những người chủ nhà tốt, sống rất đạo đức, vì chẳng có lý do gì mà sống thiếu đạo đức, - xung quanh chẳng có tiệm rượu cũng chẳng có chỗ chơi bời bậy bạ; thỉnh thoảng có đi giải khát tí chút thì chủ quán cũng lại là người đáng kính trọng, thường là một tá điền lớn, bán rượu ngon, thích trật tự nghiêm ngặt và đóng cửa sớm. Họ suốt ngày giữ con cái bên họ trong gia đình và giáo dục chúng theo tinh thần phục tùng cha mẹ và kính sợ Thượng đế. Quan hệ gia đình gia trưởng cứ giữ nguyên khi con cái chưa có vợ có chồng. Thanh niên nam nữ sống với bè bạn trong sự hồn nhiên thơ mộng và sự tin cậy lẫn nhau cho tới khi lấy vợ lấy chồng và nếu như quan hệ tình dục trước khi cưới là hiện tượng hầu như phổ biến thì cũng là trên cơ sở cả hai bên đều thừa nhận việc kết hôn là một nghĩa vụ đạo đức, và sau đó lễ cưới lại làm cho mọi việc đâu lại vào đó. Tóm lại, người lao động công nghiệp Anh bấy giờ sống và suy nghĩ như những người công nhân, mà ngày nay thỉnh thoảng còn gặp một vài nơi ở Đức, nghĩa là sống cách biệt và xa lánh, không có hoạt động gì về mặt tinh thần và không có thay đổi gì lớn trong hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Rất hiếm người biết đọc, người biết viết lại càng hiếm hơn; họ đi lễ nhà thờ rất đều, không làm chính trị, không có hoạt động âm mưu, không trầm ngâm suy nghĩ, rất thích hoạt động thể dục, nghe đọc kinh thánh với lòng thành kính được truyền dạy từ thuở nhỏ, và do nhẫn nhục không cần đòi hỏi gì, họ sống rất hoà thuận với các giai cấp có đặc quyền hơn trong xã hội. Nhưng ngược lại, về mặt tinh thần, họ trầm lặng như tờ; họ chỉ sống về những lợi ích nhỏ mọn của bản thân, vì cái khung cửi, vì mảnh vườn cỏn con và không biết gì đến phong trào mạnh mẽ đang lôi cuốn toàn thể loài người ở bên ngoài xóm làng của họ. Họ lấy làm thoải mái với cuộc sống yên tĩnh, tầm thường của mình, và nếu như không có cuộc cách mạng công nghiệp thì họ sẽ không bao giờ rời bỏ lối sống ấy, lối sống thật ra là đầy thi vị và rất ấm cúng nhưng lại không xứng đáng với một con người. Sự thực là họ không phải là những con người, mà chỉ là những cái máy làm việc phục vụ cho một số ít nhà quý tộc là những kẻ cho đến bây giờ vẫn chi phối lịch sử. Cuộc cách mạng công nghiệp chỉ là thúc đẩy tình trạng ấy lên đỉnh của nó bằng cách hoàn toàn biến những người lao động thành những cái máy đơn thuần, và cướp giật nốt cái phần hoạt động độc lập cuối cùng của họ, nhưng cũng chính do đó mà lại đẩy họ tới chỗ phải suy nghĩ và bắt họ phải giành lấy địa vị xứng đáng với con người. Nếu ở Pháp là chính trị, thì ở Anh lại là công nghiệp và phong trào của xã hội công dân nói chung, đã lôi cuốn vào cơn lốc của lịch sử những giai cấp cuối cùng hãy còn hờ hững với lợi ích chung của nhân loại. Phát minh đầu tiên làm thay đổi sâu sắc tình cảnh của người lao động Anh là cái máy sợi gien-ny của anh thợ dệt Giêm-xơ Hác-gri-xơ ở Xtan-hin, gần Blếch-bớc, Bắc Lan-kê-sia (năm 1764). Cái máy ấy là tiền thân thô sơ của cái máy mun sau này; người ta quay máy bằng tay; nhưng các xa quay tay thường chỉ có một cọc suốt, thì máy này có từ mười sáu đến mười tám cọc suốt do một công nhân điều khiển. Nhờ vậy, có thể sản xuất được rất nhiều sợi hơn trước; trước kia cứ một người thợ dệt thì phải ba người kéo sợi luôn tay, mà thường không bao giờ có đủ sợi và người thợ dệt nhiều khi phải chờ đợi, ngày nay thì sợi lại nhiều quá sức làm của số thợ dệt hiện có. Nhu cầu về hàng dệt, vốn đã tăng, lại càng tăng lên nữa khi giá hàng dệt hạ xuống do kết quả của sự giảm chi phí sản xuất sợi nhờ có máy mới. Người ta cần nhiều thợ dệt hơn, và tiền công thợ dệt tăng lên. Bây giờ vì dệt kiếm được nhiều tiền hơn nên anh thợ bỏ lơ mảnh vườn con và dốc sức vào việc dệt vải. Thời đó, một gia đình bốn người lớn với hai đứa trẻ đánh suốt, làm việc một ngày mười tiếng, có thể kiếm được mỗi tuần bốn pao-xtéc-linh (tính ra bằng hai mươi tám ta-le Phổ), và nhiều khi còn được hơn nữa khi hàng chạy và việc nhiều; lại thường có khi với khung cửi của mình, một anh thợ dệt kiếm được tới hai pao-xtéc-linh mỗi tuần. Như vậy là giai cấp thợ dệt kiêm dân cày dần dần mất hẳn đi và trở thành giai cấp thợ dệt mới, hoàn toàn sống bằng tiền công, không có chút tài sản nào, ngay cả tài sản giả tạo dưới hình thức một mảnh đất đi thuê cũng không có và như vậy họ đã trở thành những người vô sản (working men). Thêm vào đó, mối quan hệ trước đây giữa người kéo sợi và người dệt vải cũng bị xoá bỏ. Trước kia, trong chừng mực có thể được, việc kéo sợi và dệt sợi thành vải tiến hành ngay trong một ngôi nhà. Bây giờ vì máy sợi gien-ny cũng như khung cửi đòi hỏi phải có sức lực mới sử dụng được nên đàn ông cũng bắt đầu kéo sợi và có những gia đình toàn thể sống nhờ vào cái máy sợi gien-ny, ngược lại một số gia đình khác thì bắt buộc phải vứt bỏ cái xa quay tay cũ kỹ và lỗi thời và nếu họ không có khả năng mua một cái máy sợi gien-ny thì họ bắt buộc phải sống nhờ vào thu nhập mà cái khung cửi đem lại cho người chủ gia đình. Như vậy là với việc kéo sợi và việc dệt vải bắt đầu sự phân công sau này phát triển vô tận trong công nghiệp. Cái máy đầu tiên còn chưa hoàn hảo ấy xuất hiện không những đã làm cho giai cấp vô sản công nghiệp phát triển mà còn thúc đẩy giai cấp vô sản nông nghiệp ra đời. Cho đến lúc bấy giờ, người ta mới chỉ biết có một số đông tiểu điền chủ gọi là những nông dân tự canh, họ cũng sống một cách thầm lặng, không hoạt động trí óc, và thiếu mọi sinh hoạt tinh thần như những người thợ dệt kiêm dân cày ở bên cạnh họ. Họ cầy cấy trên mảnh đất của mình hoàn toàn theo lối thô sơ cũ của ông cha họ và chống lại mọi điều mới mẻ với sự ngoan cố vốn có của những người nô lệ của tập quán trải qua bao nhiêu đời kiếp vẫn không thay đổi. Trong số đó cũng có nhiều người tá điền nhỏ, nhưng không phải tá điền theo nghĩa hiện nay, mà là những người hoặc do một khế ước thuê đất kế thừa, hoặc do một tục lệ lâu đời nào đó mà được cha ông truyền lại cho mảnh đất trên ấy họ lập nghiệp vững vàng như là đất của chính mình. Ngay khi những người lao động công nghiệp bỏ không làm nghề nông nữa thì nhiều ruộng đất bỏ không và một giai cấp gồm những tá điền lớn đến lập nghiệp trên những ruộng đất ấy; họ thuê hàng năm chục, một trăm, hai trăm a-cơ-rơ hay hơn nữa; họ là những tenanst-at-will (tức là những tá điền mà hàng năm có thể bị người ta từ chối không cho thuê ruộng đất) và hiện nay họ biết tăng thêm thu nhập của đất đai đó bằng cách canh tác tốt hơn và kinh doanh theo quy mô lớn hơn. Họ có thể bán sản phẩm rẻ hơn I-ô-men nhỏ và người này cuối cùng chỉ còn có cách là đem bán mảnh ruộng vườn không đủ nuôi sống mình nữa và mua một cái máy sợi gien-ny hay một cái khung cửi, hoặc là đi làm thuê cho người tá điền lớn, với tư cách là người làm công nhật, người vô sản nông thôn. Với tính lạc hậu bẩm sinh và phương pháp làm ruộng cẩu thả do cha ông truyền lại mà anh ta không thể khắc phục được thì anh ta không còn có con đường nào khác, một khi anh ta bắt buộc phải cạnh tranh với những người biết canh tác đất đai một cách hợp lý hơn và có mọi thuận lợi do nền kinh doanh lớn và do bỏ vốn để cải tạo chất đất đem lại. Nhưng sự phát triển của công nghiệp không phải chỉ dừng lại ở đây. Một vài nhà tư bản bắt đầu đặt những máy sợi gien-ny vào những ngôi nhà lớn và dùng sức nước cho máy chạy, như vậy họ có thể rút bớt số công nhân và bán sợi với giá rẻ hơn những người kéo sợi cá thể còn phải quay máy bằng tay. Người ta luôn luôn tìm cách cải tiến cấu tạo của máy sợi gien-ny, đến nỗi chiếc máy lúc nào cũng có thể trở thành cổ lỗ, cần phải cải tiến hoặc thay máy mới, và nếu như nhà tư bản còn có thể đứng vững được bằng cách dùng sức nước để chạy cả những máy cũ, thì đối với anh thợ kéo sợi cá thể điều đó lại không thể được theo với thời gian. Nếu như đó mà chế độ công xưởng đặt được cơ sở thì nhờ cái máy sợi con do anh thợ cạo Ri-sác Ác-crai-tơ ở Pre-xtơn Bắc Lan-kê-sia phát minh năm 1767, chế độ ấy lại mở rộng thêm. Cái máy này, mà ở Đức thường gọi là Kêttnstuhl, cùng với máy hơi nước là phát minh về máy móc quan trọng nhất của thế kỷ XVIII. Ngay từ đầu, nó đã được thiết kết trên cơ sở được chế tạo để chạy với động cơ và những nguyên lý hoàn toàn mới. Năm 1785 Xa-miu-en Crơm-tơn ở Phớc-vút, tỉnh Lan-kê-sia đã kết hợp những đặc điểm của máy sợi gien-ny và máy sợi con để chế thành máy mun và cũng khoảng thời gian ấy khi mà Ác-crai-tơ phát minh được máy chải và máy sợi thô, thì trong nghề kéo sợi, chế độ công xưởng trở thành chế độ thống trị duy nhất. Dần dần, do một số cải biến nhỏ, người ta bắt đầu sử dụng những máy ấy trong việc kéo sợi len, rồi sau đó (khoảng mười năm đầu thế kỷ XIX), trong việc kéo sợi lanh, như vậy là loại những công việc làm bằng tay ra khỏi hai ngành này. Nhưng người ta vẫn không dừng lại ở đây; Trong những năm cuối của thế kỷ XVIII, một mục sư nông thôn là bác sĩ Các-rai-tơ, phát minh ra khung cửi máy và khoảng 1804 đã cải tiến nó đến mức độ có thể cạnh tranh thắng lợi được với thợ dệt tay. Máy hơi nước do Giêm sơ Oát phát minh năm 1764 và được áp dụng từ 1785 để chạy máy sợi, đã khiến những máy móc ấy trở thành quan trọng bội phần. Nhờ có những phát minh về sau mỗi năm một hoàn thiện ấy, lao động bằng máy móc đã thắng lao động bằng chân tay trong các ngành chủ yếu của công nghiệp Anh; và, toàn bộ lịch sử sau đó của nền công nghiệp Anh chỉ là thuật lại tình hình người lao động thủ công đã bị máy móc đánh bật khỏi hết vị trí này đến vị trí khác như thế nào. Kết quả là: một mặt những hàng hoá công xưởng giảm giá nhanh chóng, thương nghiệp và công nghiệp phồn thịnh, hầu hết các thị trường nước ngoài không có quan thuế bảo hộ bị chiếm đoạt, tư bản và tài sản quốc dân tăng lên nhanh chóng; mặt khác, giai cấp vô sản tăng lên còn nhanh hơn nhiều về số lượng, giai cấp công nhân mất mọi tài sản, mất mọi niềm tin vào công ăn việc làm, phong tục đồi bại, chính trị rối ren, và tất cả những sự kiện rất khó chịu đối với các giai cấp có của ở Anh mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở đây. Trên đây ta đã thấy chỉ một cái máy thô sơ như máy sợi gien-ny cũng đã gây bao nhiêu biến đổi trong địa vị xã hội của những giai cấp lớp dưới cho nên ta sẽ chẳng lấy gì làm ngạc nhiên về tác dụng gây nên bởi cả một hệ thống máy móc bổ sung cho nhau và cấu tạo tinh vi, tiếp nhận nguyên liệu của ta để trao lại cho ta những tấm vải dệt hoàn hảo. Tuy nhiên, chúng ta hãy theo dõi kỹ càng hơn sự phát triển của công nghiệp Anh 1* và hãy bắt đầu bằng ngành chủ yếu là công nghiệp bông. Trong những năm 1771-1775, con số trung bình về nhập khẩu bông chưa cán hàng năm chưa tới 5 triệu pao mà năm 1841 con số ấy đã là 528 triệu và năm 1844 lên tới trên 600 triệu. Năm 1834, nước Anh xuất khẩu 556 triệu i-ác vải, 76,5 triệu pao sợi bông và 1 200 000 pao xtéc-linh hàng dệt kim bằng bông. Cũng năm ấy, công nghiệp bông sử dụng tới hơn 8 triệu cọc sợi, 110 000 khung cửi máy và 250 000 khung cửi tay, không kể những máy sợi con, và theo thống kê của Mắc-Cu-lốc thì trong toàn Vương quốc liên hợp có gần một triệu rưởi người trực tiếp hoặc gián tiếp sống nhờ ngành công nghiệp ấy và trong số này chỉ có 220 000 người làm trong các nhà máy; động lực dùng trong các công xưởng ấy thì sức hơi nước là 33 000 sức ngựa, và sức nước là 11 000 sức ngựa. Ngày nay những con số ấy đã bị vượt xa và chúng ta có thể không ngần ngại mà công nhận rằng về số lượng và công suất máy móc, cũng như về số lượng công nhân, năm 1845 đã gấp rưỡi năm 1834. Tỉnh Lan-kê-sia là trung tâm, cũng là cái nôi của công nghiệp bông. Công nghiệp này đã hoàn toàn cách mạng hoá biến tỉnh ấy từ một bãi lầy âm u, rất ít khai khẩn thành một địa phương náo nhiệt hoạt động sôi nổi; trong 80 năm làm tăng dân số lên gấp mười lần, và, như là có chiếc gậy thần nó đã làm mọc lên những thành phố khổng lồ như Li-vớc-pun và Man-se-xtơ, gồm đến 70 vạn dân, và các vụng ngoại ô: Bôn-tơn (6 vạn dân), Rô-sđên (7 vạn rưởi dân), Ôn-đêm (5 vạn dân), Pre-xtơn (6 vạn dân), A-stơn và Xtê-li-brít-giơ (4 vạn dân), và cả một loạt thành phố công xưởng khác. Lịch sử Nam Lan-kê-sia đã được chứng kiến những điều kỳ diệu nhất của thời hiện đại, dù cho không thích nói tới, và những điều kỳ diệu ấy chính là do công nghiệp bông đã tạo nên. Ngoài ra, Gla-xgô ở xứ Xcốt-len là trung tâm của khu vực bông thứ hai gồm tỉnh La-nác-sia và tỉnh Ren-phriu-sia và ở đây cũng vậy, dân số thành phố chủ yếu này từ khi bắt đầu có ngành công nghiệp ấy cho đến nay đã tăng từ 3 vạn lên 30 vạn. Nghề dệt kim bít tất ở Nốt-tinh-hêm và Đớc-bi, do việc hạ giá sợi, cũng đã được đẩy lên một bước mới, và một bước thứ hai do sự cải tiến máy dệt kim khiến từ nay trên một máy có thể đồng thời dệt hai chiếc bít tất. Nghề làm đăng ten cũng trở thành một ngành công nghiệp quan trọng từ năm 1777 là năm phát minh được máy dệt tuyn; ít lâu sau, Lin-đli phát minh máy làm đăng ten và sau đó, năm 1809, Hít-cớt phát minh máy ống sợi. Công việc làm đăng ten nhờ đó được đơn giản hoá rất nhiều, và do giá hạ, sự tiêu dùng đăng ten tăng lên rất nhiều đến nỗi hiện nay có tới ít ra là 20 vạn người sống nhờ ngành này. Nhưng trung tâm chủ yếu của công nghiệp ấy là Nốt-tinh-hêm, Lê-xtơ và ở miền Tây nước Anh (Uyn-tsia, Đê-vơn-sia, v.v.). những ngành phụ thuộc vào công nghiệp bông, như ngành tẩy trắng, ngành nhuộm, ngành in hoa, cũng phát triển như vậy. Nhờ dùng clo thay cho ôxy trong việc tẩy trắng, nhờ sự tiến bộ nhanh chóng của ngành hoá học có ảnh hưởng đến ngành nhuộm và in hoa, và nhờ một loạt phát minh rực rỡ nhất trong lĩnh vực máy móc thúc đẩy sự phát triển của ngành in hoa, những ngành này đã được sự thúc đẩy, sự thúc đẩy này cộng với sự mở rộng nhu cầu do sự phát triển của nghề sản xuất sợi bông gây nên, làm cho những ngành công nghiệp ấy đạt đến mức thịnh vượng chưa từng thấy. Trong nghề làm len, cũng có hoạt động tương tự; trước kia đó là ngành chủ yếu của công nghiệp Anh, nhưng sản phẩm những năm đầu so với ngày nay thật không đáng kể. Năm 1782, do thiếu công nhân, số lông cừu thu hoạch trong ba năm trước vẫn chưa được chế biến, và nhất định vẫn còn để đó nếu không có sự viện trợ của máy móc mới phát minh để kéo len thành sợi. Việc dùng các máy móc ấy để kéo sợi len tiến hành có kết quả tốt. Từ đó ở các khu chế biến len cũng bắt đầu có sự tiến triển nhanh chóng như ở các khu bông vải sợi. Năm 1738 ở khu vực phía tây Y-oóc-sia dệt được 7 vạn rưởi tấm vải len nhưng năm 1817 thì dệt được 49 vạn tấm; và công nghiệp len phát triển nhanh chóng đến nỗi ngay năm 1834 đã xuất khẩu nhiều hơn năm 1825 tới 45 vạn tấn. Năm 1801, người ta làm được 101 triệu pao (trong đó có 7 triệu nhập khẩu); năm 1835 thì làm 180 triệu pao (trong đó có 42 triệu nhập khẩu). Trung tâm chính của nền công nghiệp ấy là khu vực phía tây Y-oóc-sia; ở đây len dài xơ được chế biến làm len đan v.v., đặc biệt là ở Brát-phoóc, còn len ngắn xơ được chế biến làm loại sợi săn và để dệt dạ thì làm ở các thành phố khác: Lít-xơ, Ha-li-phắc, Hát-đơ-xphin, v.v., rồi đến một phần của Lan-kê-sia tiếp giáp với Y-oóc-sia, vùng lân cận Rô-sđên là nơi mà ngoài việc làm các sản phẩm bằng bông, người ta còn dệt nhiều hàng nỉ mỏng, và sau hết miền Tây nước Anh là nơi sản xuất những hàng dạ tinh xảo nhất. Ở đây, dân số cũng tăng một cách rất đáng chú ý:
Số dân ấy, từ 1831 đến nay còn tăng lên ít ra là 20 đến 25 %. Năm 1835, trong toàn Vương quốc liên hợp có 1 313 xưởng máy kéo sợi len với 71 300 công nhân; nhưng số ấy chỉ mới là một phần nhỏ trong con số đông đảo những người trực tiếp hoặc gián tiếp sống bằng nghề làm len, và hầu như hoàn toàn không kể những thợ dệt len. Trong ngành công nghiệp lanh, sự tiến bộ có muộn hơn vì tính chất tự nhiên của thứ nguyên liệu này làm cho rất khó ứng dụng các máy kéo sợi. Thực ra thì ngay từ những năm cuối thế kỷ XVIII ở Xcốt-len đã có thử làm việc ấy, nhưng mãi đến năm 1810, người Pháp là Gi-ra mới thực hiện thành công trên thực tế việc kéo sợi lanh bằng máy. Song những máy của Gi-ra chỉ chiếm được vị trí quan trọng xứng đáng trên đất Anh sau khi đã cải tiến ở Anh và được áp dụng một cách rộng rãi ở Lít-xơ, Đơn-đi và Ben-phát. Từ đó, công nghiệp lanh ở Anh mới bắt đầu phát triển nhanh chóng. Năm 1814, ở Đơn-đi nhập khẩu 3 000 tấn 1* lanh, năm 1833 19 000 tấn lanh và 3 400 tấn gai. Vải gai xứ Ai-rơ-len xuất cảng sang Anh tăng từ 32 triệu i-ác (năm 1800) lên 53 triệu (năm 1825) mà phần lớn lại đem xuất khẩu một lần nữa; việc xuất khẩu vải lanh của Anh và Xcốt-len tăng từ 24 triệu i-ác (năm 1820) lên 51 triệu (năm 1833). Số xưởng máy sợi lanh năm 1835 lên tới 347 xưởng với 33 000 công nhân; một nửa số ấy ở Nam Xcốt-len, hơn 60 xưởng ở khu vực phía tây Y-oóc-sia (Lít-xơ và các vùng phụ cận), 25 xưởng ở Ben- phát thuộc Ai-rơ-len, và số còn lại ở Đoóc-xét-sia và Lan-kê-sia. Việc dệt lanh tiến hành ở Nam Xcốt-len và một số nơi ở Anh, nhưng chủ yếu là ở Ai-rơ-len. Người Anh cũng đạt được những thành tích rất lớn trong nghề tơ lụa. Trong công việc này, họ nhận được nguyên liệu đã kéo thành sợi từ miền Nam châu Âu và từ châu Á; công việc chính là xe những sợi tơ rất mảnh lại với nhau (đánh sợi). Năm 1824 về trước, công nghiệp tơ lụa ở Anh bị trở ngại nhiều vì thuế tơ mộc rất nặng (mỗi pao 4 si-linh) và nó chỉ có được thị trường duy nhất ở Anh và ở các thuộc địa của Anh nhờ quan thuế bảo hộ. Sau đó, thuế nhập khẩu hạ xuống đến một pen-ni, và lập tức số công xưởng tăng lên rất nhiều. Trong một năm số cọc sợi tăng từ 78 vạn lên 118 vạn, và mặc dầu ngành công nghiệp ấy nhất thời bị tê liệt do cuộc khủng hoảng thương nghiệp năm 1825, nhưng ngay năm 1827 trong lĩnh vực đó đã sản xuất nhiều hơn bao giờ hết, vì tay nghề về kỹ thuật và kinh nghiệm của người Anh đã làm cho máy xe sợi của họ hơn hẳn so với những máy móc vụng về của những kẻ cạnh tranh với họ. Năm 1835 Đại Bri-ten có 263 xưởng xe sợi tơ với 3 vạn công nhân; phần lớn những xưởng tập trung ở Si-sia (Mác-cơn-xphin, Cơn-gli-tơn và các vùng phụ cận); ở Man-se-xtơ và Xơn-mơ-xét-sia. Ngoài ra còn có nhiều xưởng chế biến những mụn tơ của kén tằm làm thành một thứ sợi đặc biệt (spunsilk) là món hàng người Anh cung cấp cả cho các xưởng dệt lụa ở Pa-ri và Ly-ông. Lụa chế biến bằng cách đó chủ yếu được dệt ở Xcốt-len (Pây-sli, v.v.) và ở Luân Đôn (Spi-tan-phin), nhưng cũng được dệt cả ở Man-se-xtơ và các nơi khác nữa. Song sự phát triển to lớn của công nghiệp Anh từ năm 1760 không phải chỉ giới hạn trong phạm vi chế tạo hàng vải. Một khi đã có đà phát triển thì nó lan ra khắp mọi ngành của hoạt động công nghiệp, và rất nhiều phát minh không liên quan chút gì với những phát minh đã nói ở trên, cũng trở nên quan trọng bội phần vì diễn ra đúng vào giữa lúc phong trào công nghiệp phát triển phổ biến. Nhưng mặt khác, một khi thực tiễn đã chứng minh tác dụng lớn lao của sức cơ giới trong công nghiệp, thì người ta tìm đủ mọi cách để sử dụng sức ấy về mọi mặt và để bắt nó làm cho các nhà phát minh và các chủ xưởng riêng biệt; thêm vào đó chính nhu cầu về máy móc, về chất đốt và nguyên liệu đã trực tiếp đòi hỏi đông đảo công nhân và các ngành công nghiệp riêng biệt tăng cường hoạt động lên gấp đôi. Chính máy hơi nước đã làm cho các mỏ than rộng lớn ở Anh lần đầu tiên trở nên quan trọng; chỉ đến bây giờ, việc chế tạo máy móc mới bắt đầu và cùng với việc chế tạo máy móc, người ta chú ý hơn đến các xí nghiệp khai thác quặng sắt cung cấp nguyên liệu cho ngành sản xuất này. Sự tiêu thụ len tăng thêm làm cho nghề chăn cừu ở Anh phát triển và sự tăng nhập khẩu thêm len, lanh và tơ làm cho đội thương thuyền của Anh tăng lên. Phát triển mạnh nhất là nghề sản xuất sắt. Trước kia các mỏ sắt rất giàu ở Anh ít được khai thác; người ta thường dùng than củi để nấu quặng, than này do sự phát triển của nông nghiệp và sự phá rừng nên sản xuất ngày càng ít, ngày càng đắt. Mãi đến thế kỷ trước mới bắt đầu dùng than đá đã được luyện (than cốc), và từ năm 1780 người ta mới phát minh một phương pháp mới cho phép biến quặng sắt đã nấu chảy trong lò than cốc, thành sắt rèn được, mà trước đó chỉ có thể thu được gang. Đó là phương pháp rút các-bon bị trộn lẫn trong sắt khi sắt nung chảy, mà người Anh gọi là phương pháp pút-lin; phương pháp này đã mở ra cho nền sản xuất sắt ở Anh một trường hoạt động hoàn toàn mới. Người ta xây những lò cao lớn gấp năm mươi lần so với trước kia; người ta đơn giản hoá việc nấu chảy quặng bằng cách thổi gió nóng, và nhờ vậy mà sản xuất được sắt rẻ đến nỗi có thể dùng để làm vô số đồ trước kia làm bằng gỗ hoặc bằng đá. Năm 1788, Tô-mát Pê-nơ một nhà dân chủ nổi tiếng, xây dựng chiếc cầu sắt đầu tiên ở Y-oóc-sia, và liền sau đó, hàng loạt cầu sắt khác xuất hiện; cho đến ngày nay thì hầu hết các cầu, nhất là các cầu đường xe lửa, đều làm bằng gang, và ngay ở Luân Đôn, trên sông Têm-dơ, cũng có một cái cầu xây dựng bằng vật liệu ấy (cầu Xao-tơ-oác); những cột sắt, bệ máy làm bằng sắt, v.v., đã trở thành rất phổ biến, và từ khi dùng đèn khí và đường sắt thì việc sản xuất sắt ở Anh lại có những lĩnh vực tiêu thụ mới. Dần dần nhờ có máy móc người ta đã bắt đầu sản xuất cả ốc vít và đinh nữa. Năm 1760 Hơn-tơ-xmen, sinh trưởng ở Sép-phin-đơ, đã phát minh ra phương pháp đúc thép bỏ được rất nhiều động tác thừa và làm cho có thể sản xuất nhiều sản phẩm rất rẻ mà trước kia chưa từng biết đến. Nhờ chất lượng của nguyên liệu cao hơn, cũng như nhờ công cụ cải tiến hơn, nhờ trang bị máy móc mới và nhờ sự phân công lao động quy mô lớn việc sản xuất đồ dùng bằng kim loại ở Anh lần đầu tiên trở nên quan trọng. Dân số Bớc-minh-hêm tăng từ 73000 (năm 1801) lên 20 vạn (năm 1844), dân số Sép-phin-dơ từ 46000 (năm 1801) lên 11000 (năm 1844) và chỉ riêng một thành phố này năm 1836 đã tiêu thụ hết 515000 tấn than. Năm 1805 xuất khẩu 4300 tấn đồ dùng bằng sắt và 4600 tấn gang; năm 1834, xuất khẩu 16200 tấn đồ dùng bằng sắt và 107000 tấn gang, và tổng sản lượng sắt năm 1740 không quá 17000 tấn, năm 1834 lên tới 700 000 tấn. Hàng năm riêng số than dùng để luyện gang đã tiêu thụ hết hơn 3 triệu tấn; thậm chí rất khó hình dung nổi tầm quan trọng lớn lao của các mỏ than trong sáu mươi năm trở lại đây. Tất cả các mỏ than trên đất Anh và đất Xcốt-len bây giờ đều được khai thác, và chỉ riêng những hầm mỏ ở Noóc-tơm-bớc-len và Đớc-am hàng năm đã sản xuất hơn 5 triệu tấn than để xuất khẩu và dùng từ 40 000 đến 50 000 công nhân. Theo tin tức của tờ "Durham Chronicle" việc khai thác hầm mỏ trong hai tỉnh đó như sau: năm 1753: 14 hầm mỏ năm 1800: 40 hầm mỏ năm 1836: 76 hầm mỏ và năm 1843: 130 hầm mỏ Mặt khác, tất cả các hầm mỏ ngày nay đều được khai thác khẩn trương hơn trước nhiều. Việc khai thác các mỏ thiếc, mỏ đồng và mỏ chì cũng phát triển tương tự, và đi đôi với sự phát triển sản xuất thuỷ tinh, một ngành công nghiệp mới là sản xuất đồ gốm cũng hình thành, ngành này khoảng năm 1763 nhờ Giô-đi-a Uết-giơ-út mà trở nên rất quan trọng. Ông là người đầu tiên đã căn cứ vào những nguyên tắc khoa học để làm đồ gốm đã thúc đẩy phát triển thẩm mỹ nghệ thuật và đã xây dựng những xưởng sản xuất đồ gốm (potteries) ở Bắc Xtáp-phoóc-sia, một khu rộng 8x8 dặm Anh, trước kia cằn cỗi, hoang vu, thì ngày nay đầy công xưởng và nhà ở và nuôi sống hơn 6 vạn người. Tất cả đều bị cuộn hẳn vào dòng thác chung ấy. Nông nghiệp cũng đã có chuyển biến. Không phải chỉ là sự chiếm hữu và canh tác đất đai đã chuyển vào tay người khác như chúng ta đã thấy ở trên, nông nghiệp còn bị ảnh hưởng về mặt khác nữa. Các tá điền lớn bỏ vốn vào việc cải tạo chất đất, phá những rào dậu không cần thiết, chống úng, bón phân, dùng những công cụ tốt hơn và áp dụng chế độ luân canh có hệ thống (cropping by rotantion). Họ cũng nhờ vào sự tiến bộ của khoa học; ông H.Đê-vi đã thành công trong việc áp dụng hoá học vào nông nghiệp, còn sự phát triển của kỹ thuật thì đã mang lại cho các tá điền lớn rất nhiều thuận lợi. Thêm vào đó, do tăng dân số, nhu cầu về nông phẩm cũng tăng nhanh đến nỗi mặc dầu từ năm 1760 đến hết năm 1834, có 6 840 450 a-cơ-rơ đất hoang đã được khai khẩn, thế mà nước Anh trước kia vẫn xuất khẩu lúa mì bây giờ phải nhập khẩu lúa mì. Về mặt kiến thiết các đường giao thông cũng có hoạt động khẩn trương như vậy. Từ năm 1818 đến hết năm 1829, ở Anh và Oen-xơ đã xây đắp một nghìn dặm Anh đường lát theo quy cách nhất định là rộng 60 phút, và hầu hết các đường lát cũ đều được sửa chữa lại theo hệ thống Mác A-đam. Ở Xcốt-len, ngành công trình công cộng đã xây đắp từ 1803 khoảng chín trăm dặm Anh đường lát và hơn một nghìn chiếc cầu, nhờ đó mà nhân dân miền núi Xcốt-len lập tức được tiếp xúc với văn minh. Trước kia dân miền núi phần lớn làm nghề săn bắn trộm hoặc buôn lậu; bây giờ họ trở thành những nhà nông hoặc thợ thủ công cần cù, và mặc dầu người ta đã lập ra những trường hợp riêng để bảo tồn ngôn ngữ Gô-loa, nhưng do ảnh hưởng của văn minh Anh, phong tục và ngôn ngữ Gô-loa-Xen-tơ cũng nhanh chóng biến mất. Ở Ai-rơ-len cũng vậy. Trước kia giữa các tỉnh Coóc, Li-mơ-rích và Cơ-ri là một vùng đất hoang vu, không có đường xe đi, vì hiểm trở nên đã trở thành sào huyệt của mọi kẻ bất lương và thành luỹ của dân tộc Xen-tơ - Ai-rơ-len ở miền Nam Ai-rơ-len; ngày nay người ta đã xẻ những đường ngang dọc và đã mở đường cho văn minh xâm nhập vào vùng hoang vắng ấy. Toàn Đại Bri-ten, và đặc biệt nước Anh, cách đây sáu mươi năm còn có những đường sá cũng xấu như đường sá nước Pháp hoặc nước Đức hồi đó, ngày nay đã có một mạng lưới đường lát đẹp đẽ nhất; và tất cả những con đường này cũng như hầu hết mọi cái ở Anh, đều là công trình của các nhà kinh doanh tư nhân, bởi vì nhà nước không làm hoặc hầu như không làm gì để đóng góp vào đó. Trước năm 1755, nước Anh hầu như không có kênh đào. Năm 1755, ở Lan-kê-sia đào con kênh từ Xên-ki Brúc đến Xanh Hê-len; năm 1759, Giêm-xơ Brin-dli đào con kênh lớn đầu tiên, tức kênh quận công Brít-giơ-oa-tơ, chạy từ Man-se-xtơ và các mỏ than xung quanh đến cửa sông Mớc-xây, kênh này đến gần Bác-tơn thì vượt qua sông E-ru-en bằng một cái máng dẫn nước. Từ đó hệ thống kênh đào của nước Anh bắt đầu được kiến thiết, mà Brin-đli là người đầu tiên đã nêu lên tầm quan trọng của nó. Từ đấy người ta đào nhiều kênh khắp mọi hướng và đã nạo vét các sông để sông chạy tàu thuỷ. Riêng ở Anh có 2200 dặm kênh, và 1800 dặm đường sông tàu chạy được. Ở Xcốt-len đã đào con kênh Ca-lê-đô-ni cắt ngang qua xứ này, ở Ai-rơ-len cũng đào nhiều kênh. Những công trình này cũng như các đường sắt và các đường bộ lớn hầu hết là do tư nhân hoặc các công ty của tư nhân đứng ra làm. Đường sắt thì chỉ mới xây dựng trong thời gian gần đây. Con đường sắt lớn đầu tiên là đường từ Li-vớc-pun đến Man-se-xtơ (thông xe năm 1830); từ đó, các thành phố lớn đều có đường sắt nối liền nhau. Luân Đôn nối với Xao-tơ-ăm-tơn, Brai-tơn, Đu-vrơ, Cơn-se-xtơ, Căm-brít-giơ, Ét-xe-tơ (qua Bri-xtơn) và Bớc-minh-hêm; Bớc-minh-hêm nối với Glô-xtơ, Li-vớc-pun, Lan-kê-xtơ (qua Niu-tơn và Uy-gan và qua Man-se-xtơ và Bôn-tơn), rồi nối với Lít-xơ (qua Man-se-xtơ và Ha-li-phắc, và qua Lê-xtơ, Đớc-bi và Sép-phin-đơ); Lít-xơ nối với Hun và Niu-cát-xơn (qua Y-oóc). Từ đó còn phải có thêm rất nhiều những đường nhánh dự định sẽ làm hoặc đang xây dựng, do đó không bao lâu nữa sẽ có thể đi từ Ê-đin-bớc đến Luân Đôn chỉ trong một ngày. Hơi nước không những đã cách mạng hoá các phương tiện giao thông đường bộ, mà cũng làm cho giao thông đường thuỷ thay đổi hẳn. Chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước đầu tiên được hạ thuỷ tại sông Hớt-xơn ở Bắc Mỹ năm 1807, còn ở Đại Bri-ten chiếc đầu tiên được hạ thuỷ trên sông Clai-đơ năm 1811. Từ đó, ở Anh đã đóng hơn 600 tàu thuỷ chạy bằng hơi nước và năm 1836, hơn 500 chiếc đậu ở các bến cảng Anh. Đấy là tóm tắt lịch sử công nghiệp Anh trong sáu mươi năm gần đây, một thiên lịch sử chưa từng thấy trong sử sách của loài người. Cách đây sáu mươi - tám mươi năm, nước Anh là một nước giống như mọi nước khác, với những thành phố nhỏ bé, công nghiệp ít ỏi và kém phát triển, dân cư thưa thớt mà chủ yếu là nhân khẩu nông nghiệp. Ngày nay nước Anh là nước có một không hai, với thủ đô gồm hai triệu rưởi dân, với nhiều thành phố công xưởng khổng lồ, với một nền công nghiệp cung cấp hàng hoá cho toàn thế giới và chế tạo hầu hết mọi thứ bằng những máy móc phức tạp nhất, với những người dân cần cù yêu lao động, thông minh và ở rất tập trung, trong số này, nhân khẩu công nghiệp 1* chiếm đến hai phần ba, và bao gồm các giai cấp khác hẳn, hơn thế nữa lại là một dân tộc khác hẳn, có những phong tục khác trước. Cuộc cách mạng công nghiệp đối với Anh có ý nghĩa quan trọng ngang với cuộc cách mạng chính trị đối với nước Pháp và cuộc cách mạng triết học đối với nước Đức. Và từ nước Anh năm 1760 đến nước Anh năm 1844 có một khoảng cách ít ra cũng lớn bằng khoảng cách giữa nước Pháp dưới "ancien régine" 2* và nước Pháp của Cách mạng tháng Bảy. Nhưng sản phẩm quan trọng nhất của cuộc cách mạng công nghiệp ấy là giai cấp vô sản Anh. Chúng ta thấy việc sử dụng máy móc đã dẫn đến sự ra đời của giai cấp vô sản như thế nào. Công nghiệp mở mang nhanh chóng đòi hỏi phải có bàn tay công nhân; tiền lương tăng lên và do đó từng đám lao động từ các khu công nghiệp lũ lượt kéo ra thành thị. Dân số tăng lên nhanh chóng lạ thường, và hầu hết số dân tăng đó là thuộc về giai cấp công nhân. Mặt khác, ở Ai-rơ-len, mãi đến đầu thế kỷ XVIII tình hình mới được yên tĩnh; ở đây dân số đã giảm mất trên một phần mười do bị người Anh tàn sát một cách dã man trong các cuộc nổi dậy trước kia, ngày nay cũng tăng lên nhanh, đặc biệt là từ khi sự phát triển của công nghiệp bắt đầu thu hút rất nhiều người Ai-rơ-len sang Anh. Những thành phố công xưởng và thương nghiệp lớn của Đại Bri-ten đã được mọc lên như thế, trong đó ít ra cũng có ba phần tư dân số là thuộc giai cấp công nhân, còn giai cấp tiểu tư sản chỉ gồm những người tiểu thương và một số rất ít thợ thủ công. Nhưng, nền công nghiệp mới ra đời có thể lớn mạnh nhanh chóng như vậy chỉ là vì nó đã thay công cụ bằng máy móc, thay xưởng thợ bằng công xưởng, và chính do đó đã biến những người lao động trong giai cấp trung gian thành giai cấp vô sản lao động và bọn lái buôn lớn trước kia thành chủ xưởng; nó đã loại trừ giai cấp tiểu tư sản và quy mọi sự khác biệt trong dân cư thành sự đối lập giữa công nhân và nhà tư bản. Và ngoài phạm vi công nghiệp theo nghĩa hẹp, trong ngành thủ công nghiệp và ngay cả trong ngành thương nghiệp, hiện tượng tương tự cũng đã xảy ra. Thay thế những thợ cả và thợ bạn trước kia, một mặt là những nhà đại tư bản, và mặt khác là những công nhân không có chút triển vọng nào vươn lên khỏi địa vị giai cấp của mình; nghề thủ công biến thành sản xuất trong công xưởng, việc phân công lao động được thực hiện hết sức chặt chẽ, và các thợ cả loại nhỏ vì không cạnh tranh được với các xí nghiệp lớn cũng bị đẩy vào hàng ngũ giai cấp vô sản. Nhưng đồng thời, với sự tiêu diệt sản xuất thủ công nghiệp trước kia, với sự biến mất của giai cấp tiểu tư sản, người lao động cũng mất hết mọi khả năng trở thành nhà tư sản. Trước đó, họ luôn luôn có hy vọng lập được cho mình một xưởng thợ và sau đó có thể thuê ít người thợ bạn; nhưng bây giờ, khi mà chính các thợ cả đã bị các chủ xưởng loại trừ, khi mà muốn mở một xí nghiệp độc lập thì phải có vốn lớn, thì giai cấp công nhân lần đầu tiên mới thật sự trở thành một giai cấp cố định trong nhân dân, còn trước kia thì địa vị của người lao động thường chỉ là giai đoạn quá độ để tiến lên địa vị anh tư sản. Bây giờ ai đã sinh ra là người lao động thì không có triển vọng nào khác là suốt đời làm người lao động. Cũng chính vì thế mà chỉ từ nay giai cấp vô sản mới có thể tiến hành những cuộc vận động độc lập của mình. Quần chúng lao động hết sức đông đảo hiện tràn ngập cả nước Đại Bri-ten ngày nay đã nảy sinh như vậy, địa vị xã hội của họ mỗi ngày một bắt buộc thế giới văn minh phải chú ý đến. Tình cảnh của giai cấp công nhân cũng tức là tình cảnh của tuyệt đại đa số nhân dân Anh. Đó là vấn đề số phận của hàng triệu người không tài sản ấy như thế nào, những người làm ngày nào xào ngày ấy, những người mà trí sáng tạo và bàn tay lao động đã làm nên sự vĩ đại của Anh, những người càng ngày càng có ý thức về sức mạnh của mình và càng ngày càng đòi hỏi cấp thiết hơn phần quyền lợi của họ trong tài sản xã hội, vấn đề ấy, từ ngày có dự luật cải cách 96, đã trở thành một vấn đề của toàn dân tộc. Mọi cuộc tranh luận hơi quan trọng một chút của nghị viện đều có thể quy vào vấn đề này, và mặc dù giai cấp tư sản Anh cho đến nay vẫn không muốn thừa nhận điều ấy, mặc dù họ tìm cách trốn tránh lờ tịt vấn đề lớn ấy và đưa lợi ích của bản thân họ lên thành lợi ích chân chính của dân tộc, những thủ đoạn ấy cũng chẳng giúp ích gì cho họ. Với mỗi kỳ họp nghị viện, vấn đề giai cấp công nhân càng thêm quan trọng, còn lợi ích của giai cấp tư sản lại tụt xuống địa vị thứ yếu, và tuy trong nghị viện giai cấp tư sản là lực lượng chủ yếu, thậm chí là lực lượng duy nhất nữa, nhưng kỳ họp gần đây nhất vào năm 1844, vẫn là một cuộc thảo luận liên tục về vấn đề người lao động (dự luật về người nghèo, dự luật về công xưởng, dự luật về quan hệ giữa chủ và tớ). Tô-mát Đơn-cơm-bơ, người đại diện cho giai cấp công nhân ở hạ nghị viện, là nhân vật trung tâm của kỳ họp ấy; trong khi đó giai cấp tư sản tự do với yêu sách đòi bãi bỏ đạo luật về ngũ cốc, và giai cấp tư sản cấp tiến với đề nghị bỏ thuế, đã đóng một vai trò rất thảm hại. Ngay cả các cuộc tranh luận về Ai-rơ-len, về thực chất cũng chỉ là tranh luận về tình cảnh của giai cấp vô sản Ai-rơ-len và về các biện pháp nhằm giúp đỡ họ. Nhưng cũng đã đến lúc giai cấp tư sản Anh cần phải nhượng bộ những người lao động là những người không cầu xin nhưng đe doạ và yêu sách; vì không lâu nữa sẽ có thể là quá muộn rồi. Tuy vậy, giai cấp tư sản Anh, và nhất là bọn chủ xưởng là những kẻ trực tiếp làm giàu trên sự bần cùng của người lao động, lại không muốn biết gì về sự bần cùng ấy. Tự cho mình là giai cấp mạnh nhất, là giai cấp đại diện của dân tộc, giai cấp tư sản lấy làm xấu hổ không dám vạch trần trước thế giới cái mụn lở ấy của nước Anh; họ không muốn thú nhận rằng những người lao động rất cùng cực, bởi vì chính họ, giai cấp có của, giai cấp của các nhà công nghiệp, phải chịu trách nhiệm tinh thần về tình cảnh nghèo khổ ấy. Do đó mà những người Anh có học vấn - và trên lục địa, người ta chỉ biết có bọn này, - tức là giai cấp tư sản, thường cười mỉa mai khi người ta nói với họ về tình cảnh của người lao động, do đó mà toàn thể giai cấp tư sản đều có một đặc điểm là hoàn toàn không hiểu gì về người lao động; do đó mà họ mắc phải những điều lầm lẫn đáng buồn cười ở trong nghị viện cũng như ở ngoài nghị viện mỗi khi nói đến tình cảnh của giai cấp vô sản; do đó, họ vẫn tươi cười vô tư mà sống trên một miếng đất lún dần ngay dưới chân họ và bất cứ lúc nào cũng có thể sụp đổ - một ngày gần đây một tai họa như thế tất nhiên sẽ xảy ra cũng như là tác dụng của một định luật toán học hay cơ học; do đó mà có tình trạng lạ lùng là người Anh chưa hề có một quyển sách hoàn hảo nào nói về tình cảnh của công nhân nước họ, mặc dù là họ đã "nghiên cứu" và "cải thiện" tình cảnh ấy không biết bao nhiêu năm rồi. Nhưng cũng do đó mà sinh lòng phẫn nộ sâu sắc của toàn thể giai cấp công nhân, từ Gla-xgô đến Luân Đôn, đối với những kẻ giàu có đã bóc lột có hệ thống những người lao động, rồi sau đó lại nhẫn tâm bỏ mặc thây họ. Lòng phẫn nộ ấy chẳng bao lâu nữa (người ta hầu như có thể tính trước được) sẽ bùng nổ thành một cuộc cách mạng, mà nếu đem so sánh với cuộc cách mạng đó thì cuộc cách mạng Pháp đầu tiên và năm 1794 chỉ là một trò chơi trẻ con. 1* Theo cuốn sách : Porter. "Progress of the Nation" London, 1836- I vol., 1838 - II vol., 1843 - III vol. [Po-tơ. "Sự tiến bộ của dân tộc". Luân Đôn, tập I, 1836; Tập II, 1838, tập III, 1843] (theo những tài liệu chính thức) và theo nhiều nguồn tư liệu khác phần lớn cũng chính thức như vậy.
(Năm 1892). Ở đây khái luận lịch sử về cách mạng công nghiệp có một vài chi tiết chưa được chính xác, nhưng trong những năm 1843-1844 chưa có những nguồn tư liệu tốt hơn 94. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1892). 1* Tấn của Anh bằng 2 240 pao, gần 1 000 ki-lô-gam. 1* Trong các bản tiếng Anh xuất bản năm 1887 và năm 1892, sau chữ "công nghiệp" có chữ "và thương nghiệp". 2* - chế độ cũ 96 Chỉ cuộc cải cách luật bầu cử do nghị viện Anh tiến hành vào tháng Sáu 1832. Cuộc cải cách này nhằm chống lại sự lũng đoạn chính trị của bọn quý tộc ruộng đất và tài chính, mở rộng cửa nghị viện cho đại biểu của giai cấp tư sản công nghiệp. Giai cấp vô sản và giai cấp tiểu tư sản là lực lượng chủ yếu trong cuộc đấu tranh đòi quyền cải cách, bị giai cấp tự do lừa gạt, đã không giành được quyền bầu cử. |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC