Ngay cả giai đoạn đầu của tư tưởng triết học Parmenides cũng in đậm ấn tích của Anaximander, giai đoạn này đã phát sinh ra một hệ thống hoàn bị về triết học vật lý, đáp ứng với những câu hỏi do Anaximander nêu lên. Về sau, khi Parmenides bị vồ chụp trong cơn run rẩy giá băng của sự trừu tượng và khi ông nêu lên cái nguyên lý tối sơ nhất có thể có được về vấn đề thực thể và phi thể, thì trong vô số những học thuyết đi trước bị nguyên lý thủ tiêu, có cả hệ thống trước đấy của chính ông.
Các nhà nữ quyền từ lâu đã cử chọn hình tượng anh hùng của mình: Hypatia, ở Alexandria, vào thế kỉ thứ 5, bậc thầy về triết học Plato và toán học cao cấp. Hypatia trở thành một biểu tượng, nhưng không may, về các tác phẩm của bà nay chỉ còn các truyền thuyết, bởi vì chúng đã biến mất, và bà cũng biến mất, đúng thực là bị một nhóm người Kitô giáo cuồng động sẻ ra từng mảnh, mà theo một vài nhà sử học là do sự khuyến giục của nhân vật Cyril ở Alexandria, người mà sau đó được phong thánh dù không phải do chuyện này. Thế thì chỉ có một Hypatia thôi sao?
Trong cái gọi là xã hội giai cấp, người phụ nữ bắt đầu chuyển từ vị trí là người tạo ra giá trị, là những người thiết lập các mạng lưới quan hệ trao đổi và có quyền sử dụng những cơ chế được công bố một cách công khai để điều hòa lợi ích của phụ nữ, sang vị trí người phục dịch trong gia đình nhà chồng hay trong các nhóm thân tộc của họ.
PLATON (khoảng 427-347tcn) | Lê Tôn Nghiêm dịch || Đây là những triết gia chính cống trong số những đồng hương của tôi. Họ nghe rằng: Antiphon, phải chính Antiphon, đã thường giao dịch với một ông nào đó tên Pythodore
ALBERT CAMUS (1913-1960) | NGUYỄN ĐỨC DÂN dịch || Sở dĩ cái huyền thoại này mang tính bi kịch là vì nhân vật của nó là một người có ý thức, quả thực nỗi khó nhọc của ông sẽ là ở chỗ nào, khi mà cứ mỗi bước chân ông lại được nâng đỡ bởi
Heraklit thành Ephesus tấn công vào đêm tối thần bí đang bao phủ vấn đề biến dịch nơi Anaximander, và rạch sáng đêm tối đó bằng một lằn chớp linh thiêng. Ông tuyên bố: “Tôi đã chiêm nghiệm sự biến dịch. Và chưa từng có ai như tôi đã nhìn ngắm với biết bao là chú tâm cái triều lưu cùng nhịp điệu miên viễn của vạn vật. Và tôi đã thấy gì?
Tôi đã nhiều lần cho rằng phân tích tình trạng áp bức nữ giới và nguồn gốc của tình trạng ấy cần tách thành hai khía cạnh vấn đề: lịch sử và quan niệm. Khía cạnh lịch sử đòi hỏi huyền thoại về “lối mô tả tộc người ở thì hiện tại” (“ethnographic present”) phải hoàn toàn bị xóa bỏ và các nhà nhân loại học
Toàn bộ triết học của Feuerbach quy tụ 1) vào triết học tự nhiên, - thụ động yêu tha thiết thiên nhiên, hâm mộ bái phục trước vẻ tuyệt diệu và hùng mạnh vạn năng của thiên nhiên, 2) vào nhân học, cụ thể là a) vào sinh lý học - những gì được nói trong lĩnh vực này không chứa đựng điều gì mới mẻ hơn những gì mà các nhà duy vật chủ nghĩa đã nói về sự thống nhất giữa thể xác và linh hồn
Lí thuyết về sự bình đẳng mà những nhà nữ quyền của thế kỉ mười chín đã sử dụng trong cuộc tranh đấu của họ cho những quyền của đàn bà đã xuất phát từ triết học chính trị tự do, vốn cho rằng tất cả đàn ông phải bình đẳng trước luật pháp, rằng không ai nên có những đặc quyền hoặc những quyền đặc biệt
Nếu nền phê bình đại học không có gì khác ngoài cương lĩnh mà nó đã tuyên bố là phải xác lập chặt chẽ các sự kiện tiểu sử hay các sự kiện văn học, thì nói cho thật tình, ta khó lòng biết được tại sao nó lại duy trì mối quan hệ ít căng bức nhất với nền phê bình ý hệ. Những kết quả thu được của thuyết thực chứng (positivisme), cả những sự đòi hỏi của nó, là không thể đảo ngược
Nếu muốn biện chính cho triết học, thì người ta phải chứng minh tại sao những dân tộc lành mạnh lại cần đến triết học và họ đã dùng nó vào việc gì. Nếu thực hiện được chuyện đó, có lẽ ngay cả những dân tộc bệnh hoạn cũng sẽ nhờ vậy mà có được tri thức hữu ích về những lý lẽ theo đó triết học là có hại cho họ.
Lẽ tất nhiên là cái lối hình thái này (typology) cũng giống như bất cứ hình thái nào khác; tuy vậy nó không hẳn là vô dụng trong công việc phân tích những va chạm tri thức và chính trị đương thời. Tôi sợ là những ý niệm về đặc tính chống hiện đại, thêm vào cùng với lối động chạm tới tiền hiện đại tính (pre-modernity), trở lên càng ngày càng phổ biến trong những nhóm chủ trương cái khả thể văn hóa khác biệt. Khi ta quan sát những biến đổi hình thái của ý thức nơi các đảng phái chính trị ở Ðức
Nỗ lực muốn thử trần thuật lại ở đây lịch sử của các triết gia Hy Lạp thời Cổ đại khác biệt với các dự tính tương tự, do ở tính cách vắn gọn của nó. Muốn đạt đến sự vắn gọn này, đối với mỗi triết gia, tôi chỉ kể ra một số rất ít những học thuyết của họ, do đó quả là khiếm khuyết.
Con người bởi có lý trí nên không chịu dừng bước trước những hiểu biết nửa chừng. Cảm quan được giúp sức bởi những thể tiên nghiệm (formes a priori) và bởi những phạm trù của tri năng (catégories de l'entendement) đã đem lại cho con người những hiểu biết về hiện tượng.
Khi Kant bắt đầu giảng dạy tại đại học Konigsberg thì triết học Tây phương đang bị chi phối bởi hai trào lưu tư tưởng chính: một bên là những đề án có tính cách quyết đoán của Leibniz và Wolf, bên kia là những tác phẩm thiên về hoài nghi chủ nghĩa của David Hume. Những người thuộc phe quyết đoán tin rằng có đủ chứng cớ để chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế, sự bất diệt của linh hồn, tính tự do của con người.
Việc bộ Cương yếu này được in và, như thế, được xuất hiện trước cử tọa rộng rãi, đã cho tôi cơ hội làm rõ hơn một số Nhận xét mà mục đích hàng đầu là bình luận ngắn gọn về một số quan niệm gần gũi hoặc khác biệt với các quan niệm của tôi, về những hệ luận xa hơn của lập luận của tôi và về nhiều vấn đề khác ắt sẽ chỉ có thể minh giải thực sự trong bản thân các bài giảng.