KHỞI ĐẦU PHỎNG ĐOÁN VỀ LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI (1785)
Tác giả: Immanuel Kant Đinh Hồng Phúc dịch
Trong tiến trình lịch sử, quả thực việc đưa ra các phỏng đoán để lấp các khoảng trống trong sử liệu là điều có thể chấp nhận được, bởi lẽ những gì diễn ra trước đó xét như là nguyên nhân xa xôi và những gì xảy ra sau đó xét như là kết quả có thể cung cấp một chỉ dẫn khá đảm bảo để tìm ra các nguyên nhân trung gian, qua đó có thể làm rõ được bước quá độ giữa các sự kiện. Tuy nhiên, việc để một lịch sử chỉ nảy sinh từ những phỏng đoán xem ra chẳng có gì khá hơn so với việc viết phác thảo một câu chuyện tiểu thuyết. Quả thực, một lịch sử như thế chưa xứng để gọi là "lịch sử phỏng đoán", mà chỉ là một tác phẩm hư cấu (a) đơn thuần. Tuy nhiên, những điều không được phép mạo hiểm trong quá trình nghiên cứu sự tiến triển của lịch sử các hành động con người vẫn có thể được thử nghiệm thông qua phỏng đoán về khởi đầu đầu tiên của nó, miễn là điều đó phù hợp với tự nhiên. Vì sự khởi đầu ấy không nên được bịa ra bằng câu chuyện hư cấu(b) mà chỉ có thể được rút ra từ kinh nghiệm, nếu ta tiền giả định rằng kinh nghiệm ở giai đoạn ban đầu của nó không tốt cũng chẳng tệ hơn những gì hiện nay ta đang gặp phải: một tiền giả định phù hợp với nguyên tắc tương tự trong tự nhiên và không có gì là liều lĩnh cả. Do đó, một lịch sử về sự phát triển ban đầu của tự do từ khuynh hướng sơ thủy của nó trong bản tính của con người là điều gì đó hoàn toàn khác với lịch sử của tự do trong sự tiến triển của nó, vốn chỉ có thể dựa trên các tài liệu ghi chép. Tuy nhiên, vì phỏng đoán không nên đưa ra những đòi hỏi quá mức về sự đồng tình, mà cùng lắm chỉ nên được coi như một hoạt động của của năng lực tưởng tượng, đi kèm với lý trí, nhằm thư giãn và cải thiện sức khỏe tinh thần, chứ không phải được tuyên bố như một công việc nghiêm túc: nên chúng cũng không thể so sánh với loại lịch sử dựa trên cùng một sự kiện, nhưng được trình bày và tin tưởng như một ghi chép thực tế, mà sự kiểm chứng của nó dựa trên những cơ sở hoàn toàn khác, chứ không chỉ đơn thuần dựa vào triết học tự nhiên. Chỉ vì lý do này, và vì ở đây tôi chỉ dám thực hiện một chuyến đi mang tính giải trí, tôi hy vọng mình có thể được ban đặc ân sử dụng một văn kiện thiêng liêng làm bản đồ chỉ lối cho mình, và đồng thời tưởng tượng rằng hành trình của tôi, dù được bay trên đôi cánh của trí tưởng tượng nhưng vẫn có sợi chỉ dẫn được lý trí kết nối với kinh nghiệm có thể trùng khớp với đường nét đã được lịch sử (c) phác thảo trước đó. Độc giả sẽ mở các trang của văn kiện đó (Sách Sáng thế, chương 2 đến chương 6) và từng bước kiểm tra xem liệu con đường mà triết học dựa trên các khái niệm lựa chọn có phù hợp với con đường mà câu chuyện (d) đã chỉ ra hay không. Nếu không muốn chìm đắm (e) trong những phỏng đoán, thì ta cần phải bắt đầu từ điều mà lý trí của con người không thể suy diễn từ các nguyên nhân tự nhiên trước đó, cụ thể là: từ sự tồn tại của con người; và hơn nữa, từ con người trong hình dáng đã hoàn thiện, vì họ phải tự mình xoay xở mà không có sự trợ giúp của người mẹ; trong một cặp đôi, để họ có thể duy trì nòi giống; và chỉ trong một cặp đôi duy nhất, để chiến tranh không bùng phát ngay lập tức, khi con người gần gũi nhau nhưng lại xa lạ với nhau; đồng thời cũng để tự nhiên không bị đổ lỗi rằng, do sự khác biệt về dòng dõi, nó đã không sắp đặt tính hợp quần một cách phù hợp nhất cho họ, như là mục đích tối cao của định mệnh con người; bởi sự thống nhất của gia đình, nơi con người được sinh ra, chắc chắn là cách sắp đặt tốt nhất cho mục đích này. Tôi đặt cặp đôi này vào một nơi an toàn trước sự tấn công của loài thú dữ và được thiên nhiên chu cấp dồi dào mọi phương tiện sinh sống, như thể trong một khu vườn, ở một vùng khí hậu luôn ôn hòa. Và điều quan trọng hơn nữa, tôi chỉ xem xét cặp đôi này sau khi họ đã đạt được một bước tiến lớn trong kĩ năng sử dụng các năng lực của mình; vì thế, tôi không bắt đầu với trạng thái hoàn toàn thô sơ của bản tính con người;(f) bởi lẽ nếu tôi cố gắng lấp đầy khoảng trống đó, có lẽ đã tồn tại trong thời gian dài, thì điều đó có thể dẫn đến quá nhiều phỏng đoán không cần thiết cho người đọc, trong khi khả năng chính xác của chúng lại quá thấp. Do đó, con người đầu tiên có thể đứng và đi; anh ta có thể nói (Sách Sáng thế2: 20[1]),(*) thậm chí có thể bày tỏ, tức là nói theo các từ ngữ và khái niệm (g) có liên kết, vì thế có thể tư duy. Đây đều là những kỹ năng mà anh ta phải tự mình đạt được (vì nếu chúng là bẩm sinh thì chúng cũng sẽ được di truyền, điều này trái với kinh nghiệm thực tế); nhưng tôi giả định rằng vào thời điểm đó, anh ta đã có được những kỹ năng này, chỉ để có thể tập trung vào việc xem xét sự phát triển về mặt đạo đức trong hành động và sự kiềm chế của mình, và quá trình phát triển này nhất thiết phải có những kỹ năng ấy làm điều kiện tiên quyết. Bản năng, tiếng nói của Thiên Chúa mà mọi loài động vật đều nghe theo, chắc chắn là thứ duy nhất dẫn dắt con người thuở ban sơ.[2] Nó cho phép anh ta ăn những thứ này, nhưng lại cấm anh ta ăn những thứ khác (Sách Sáng thế 3:2–3).[3] – Nhưng để giải thích điều này, không cần giả định về một bản năng đặc biệt nào đó đã mất đi; nó có thể chỉ đơn thuần là khứu giác và mối liên hệ tự nhiên giữa nó với vị giác. Hơn nữa, vị giác cũng có sự kết nối quen thuộc với các cơ quan tiêu hóa, cùng với năng lực dự cảm giúp nhận biết được loại thức ăn nào hợp với mình và loại nào thì không, điều mà ngay cả ngày nay chúng ta vẫn có thể nhận thấy. Chúng ta thậm chí không cần giả định rằng giác quan này ở cặp đôi đầu tiên đã từng nhạy bén hơn so với con người ngày nay; bởi lẽ, ai cũng hiểu rằng có một sự khác biệt lớn trong khả năng tri giác giữa những người chỉ dựa vào giác quan của mình và những người vừa cảm nhận vừa bận tâm suy nghĩ. Chính sự chi phối của suy nghĩ đã khiến họ phân tâm, sao nhãng với những cảm giác tự nhiên của mình. Khi con người còn ngây thơ và chỉ làm theo tiếng gọi của tự nhiên, anh ta cảm thấy mọi việc đều ổn thỏa. Nhưng rồi lý trí bắt đầu trỗi dậy tìm cách so sánh giữa những gì mang lại sự thỏa mãn với những gì được nhận thức qua một giác quan khác ngoài giác quan vốn gắn liền với bản năng, như thị giác. Dựa trên sự tương đồng giữa những gì từng mang lại thỏa mãn trước đây, con người đã dần mở rộng hiểu biết của mình về cách tìm kiếm nguồn thức ăn vượt ra khỏi giới hạn của bản năng (Sách Sáng thế 3:6).[4] Thử nghiệm(h) này có thể đã diễn ra một cách suôn sẻ, mặc dù bản năng không khuyến khích điều đó, miễn là nó không mâu thuẫn với bản năng. Tuy nhiên, một đặc tính của lý trí là với sự trợ giúp của năng lực tưởng tượng nó có thể tạo ra những ham muốn không chỉ không cần đến sự chỉ dẫn của động lực tự nhiên mà thậm chí còn đi ngược lại với động lực đó; và những ham muốn này ban đầu được gọi là sự thèm khát; nhưng thông qua chúng, dần dần sinh ra cả một tập hợp các khuynh hướng không cần thiết, thậm chí trái với bản tính tự nhiên, được gọi là khoái lạc, và thậm chí còn đi ngược lại bản tính tự nhiên. Lý do khiến con người từ bỏ động lực tự nhiên có thể chỉ bắt nguồn từ một điều rất nhỏ nhặt; thế nhưng, sự thành công trong lần thử nghiệm đầu tiên – cụ thể là việc trở nên ý thức rằng lý trí của mình là một năng lực có thể vượt qua các giới hạn mà mọi loài động vật bị ràng buộc – lại mang ý nghĩa vô cùng quan trọng và quyết định đối với cách sống của con người. Do đó, nếu chỉ là một loại trái cây có vẻ ngoài hấp dẫn, nhờ sự tương đồng với những loại trái ngon mà con người đã từng nếm thử, khiến anh ta bị thôi thúc muốn ăn thử; nếu thêm vào đó ví dụ về một con vật mà bản tính tự nhiên của nó hợp với việc thưởng thức trái cây ấy, mặc dù điều đó lại không có lợi cho con người; vì thế nếu có một bản năng tự nhiên chống lại hành động đó, thì điều này đã đủ để lý trí có cơ hội tranh cãi với tiếng nói của tự nhiên (Sách Sáng thế 3:1)[5] và mặc cho sự phản đối của bản năng, việc thực hiện thử nghiệm đầu tiên sự lựa chọn tự do, vì là lần đầu nên có thể không diễn ra như mong đợi. Cho dù sự tổn hại có thể nhỏ bé đến mức nào chăng nữa thì nó vẫn là thứ giúp con người mở mắt ra (Sách Sáng thế 3:7)[6] Anh ta nhận ra mình có khả năng chọn cho mình một cách sống, không bị bó buộc vào một cách sống duy nhất như các loài vật khác. Tuy nhiên, ngay sau niềm vui thoáng qua khi nhận ra sự vượt trội rõ ràng của mình, nỗi lo âu và sợ hãi đã nhanh chóng ập đến. Anh ta bối rối không biết làm thế nào để xử lý năng lực mới được phát hiện này, khi bản thân vẫn chưa hiểu rõ các thuộc tính tiềm ẩn và những tác động lâu dài của mọi thứ xung quanh. Anh ta như thể đang đứng bên bờ vực thẳm; bởi lẽ, từ những đối tượng cụ thể mà trước đây bản năng đã định hướng cho ham muốn của anh ta, giờ đây mở ra một sự vô hạn những lựa chọn tương tự; trong thế giới vô tận đó, anh vẫn chưa biết cách định hướng hay tìm lối đi cho mình. Một khi đã nếm trải trạng thái tự do này, anh không còn có thể quay trở lại tình trạng phục tùng (dưới sự thống trị của bản năng) như trước đây nữa. Bên cạnh bản năng nuôi dưỡng, nhờ đó tự nhiên đảm bảo sự sinh tồn cho từng cá thể, thì bản năng tính dục, nhờ đó tự nhiên duy trì được giống loài, là bản năng vượt trột hơn cả. Một khi lý trí được khơi dậy, nó không bỏ qua việc thể hiện ảnh hưởng của mình lên bản năng này. Con người sớm nhận ra rằng sự kích thích tính dục, ở loài động vật chỉ dựa trên một xung lực thoáng qua và chủ yếu mang tính chu kỳ, có thể được kéo dài và thậm chí gia tăng cường độ nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng, tất nhiên, chủ yếu quan tâm đến sự điều độ; nhưng đồng thời, nó cũng hoạt động bền vững và đều đặn hơn khi đối tượng của nó được tách rời khỏi các giác quan, và anh ta nhận thấy rằng điều này giúp ngăn chặn sự buồn chán đi kèm với việc thỏa mãn những ham muốn chỉ mang tính động vật. Chiếc lá vả (Sách Sáng thế 3:7)[7] do đó là sản phẩm của một biểu hiện lý trí vượt trội hơn rất nhiều so với những gì mà nó đã thể hiện trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Bởi vì làm cho một khuynh hướng trở nên nội tại và lâu bền hơn bằng cách rút đối tượng của nó ra khỏi các giác quan, đã cho thấy lý trí đã có ý thức về việc kiểm soát các xung lực, chứ không chỉ đơn thuần như ở bước đầu tiên, là khả năng phục vụ cho những xung lực đó trong một phạm vi nhỏ hơn hoặc lớn hơn. Sự từ chối chính là bước đi đầu tiên giúp con người chuyển từ những kích thích mang tính cảm giác đơn thuần sang những cảm xúc lý tưởng hóa, từ ham muốn bản năng của loài vật dần dần tiến hóa thành tình yêu; và cùng với tình yêu, con người vượt ra khỏi cảm giác dễ chịu tạm thời để hướng đến sở thích về cái đẹp, ban đầu chỉ thấy có ở con người nhưng sau đó cũng thấy có trong tự nhiên. Hơn nữa, sự đúng mực(k), một xu hướng được thể hiện qua hành vi(l)đúng đắn nhằm tạo ảnh hưởng khiến người khác tôn trọng chúng ta (thông qua việc che giấu những điều có thể khơi dậy sự coi thường) xét như là nền tảng chân thực của mọi mối quan hệ xã hội đúng nghĩa, đã mang lại gợi ý đầu tiên cho sự hình thành(m) con người với tư cách là một sinh vật có đạo đức(n). Đây là một khởi đầu nhỏ bé nhưng lại mang tính bước ngoặt, bởi vì nó mở ra một hướng đi hoàn toàn mới cho phương thức tư duy, và còn quan trọng hơn cả toàn bộ chuỗi phát triển văn hóa rộng lớn không thể đo lường được sau này. Bước thứ ba của lý trí, sau khi đã hòa mình vào các nhu cầu đầu tiên được cảm nhận tức thời, là dự liệu có cân nhắc về tương lai. Đây là năng lực không chỉ để tận hưởng khoảnh khắc hiện tại mà còn để hình dung và chuẩn bị cho những khoảng thời gian sắp tới, dù chúng có thể rất xa vời. Đây chính là đặc điểm nổi bật nhất của con người, cho phép họ định hướng và chuẩn bị cho những mục tiêu(o) lớn lao hơn trong cuộc đời – nhưng đồng thời nó cũng là nguồn suối không bao giờ cạn của những mối lo lắng và bất an, bởi tính bất định của tương lai, đó là điều mà tất cả mọi loài vật khác đều miễn trừ (Sách sáng thế 3: 13-19).[8] Người đàn ông, với trách nhiệm nuôi sống bản thân và vợ mình, cũng như những đứa con trong tương lai của họ, đã thấy trước những khó khăn ngày càng chồng chất của công việc lao động; người đàn bà thấy trước những nỗi cơ cực mà tự nhiên đã áp đặt lên giới tính của mình, và thêm vào đó là phải chịu những áp lực từ phía người đàn ông có quyền lực hơn. Cả hai đều thấy trước với nỗi sợ hãi, sau một cuộc đời đầy khó nhọc, nơi hậu cảnh của bức tranh, điều mà tất cả các loài động vật đều không thể tránh khỏi, nhưng chẳng khiến chúng bận tâm – đó là cái chết, và họ dường như tự trách bản thân và coi việc sử dụng lý trí, thứ gây ra mọi nỗi khổ đay này, là một tội lỗi. Có lẽ viễn cảnh an ủi duy nhất giúp họ đứng vững là hy vọng tiếp tục sống trong lòng con cháu, những người có thể có điều kiện sống tốt hơn hoặc có thể giúp nhau vượt qua khó khăn với tư cách là những thành viên của một gia đình (Sách Sáng thế 3: 16-20).[9] Bước thứ tư và cũng là bước cuối cùng mà lý trí thực hiện trong việc nâng con người hoàn toàn vượt lên trên cộng đồng tự nhiên giữa con người và loài vật, chính là việc con người (mặc dù chỉ mơ hồ) nhận ra rằng bản thân mình thực sự là mục đích của tự nhiên, và không một sinh vật nào trên trái đất có thể cạnh tranh vị trí này với anh ta. Lần đầu tiên con người nói với con cừu: Tự nhiên đã ban cho ngươi lớp da mà ngươi đang mang không phải dành cho ngươi, mà là dành cho ta, rồi anh ta lột lớp da đó của con cừu và mặc lên mình (Sách Sáng thế3:21),[10] anh ta nhận ra một đặc quyền mà anh ta có, do bản tính của mình, đối với tất cả loài vật, và từ đó, anh ta không còn coi chúng là đồng loại nữa, mà xem chúng như là những phương tiện và công cụ được giao phó cho ý chí của mình để đạt được những mục tiêu theo ý muốn. Quan niệm này (mặc dù còn mơ hồ) bao hàm ý nghĩ đối lập: rằng anh ta không được phép nói như vậy với bất cứ con người nào, mà phải coi họ như là những người bình đẳng trong việc chia sẻ những món quà mà tự nhiên ban tặng – một sự chuẩn bị từ sớm cho những giới hạn mà lý trí sẽ đặt ra đối với ý chí trong tương lai, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau, và điều này cần thiết hơn rất nhiều so với sự cảm mến hay tình yêu để thiết lập xã hội. Và vì thế, con người đã bước vào trạng thái bình đẳng với tất cả các hữu thể có lý trí khác, bất kể địa vị của họ là gì (Sách Sáng thế 3:22)[11]; cụ thể là về việc khẳng định bản thân mình là một mục đích, cũng được người khác coi trọng đúng với tư cách đó, và không bị người khác sử dụng chỉ như là phương tiện cho những mục đích khác. Trong điều này, chứ không phải trong lý trí chỉ được coi như một công cụ để thỏa mãn các xu hướng khác nhau, mà nền tảng của sự bình đẳng không giới hạn của con người được xác lập – ngay cả với những hữu thể cao cấp hơn, dù họ vượt trội đến mức không thể so sánh được về thiên tư tự nhiên, không ai trong số họ, vì thế, có quyền đối xử và định đoạt con người chỉ theo ý muốn của mình. Do đó, bước đi này cũng đồng thời gắn liền với việc giải phóng con người khỏi lòng mẹ của tự nhiên – một sự thay đổi vừa tôn vinh con người nhưng đồng thời cũng rất nguy hiểm, bởi nó đưa con người ra khỏi trạng thái an toàn và vô lo của sự bảo bọc thời thơ ấu, tựa như bị đẩy ra khỏi một khu vườn, nơi anh ta từng được chăm sóc đầy đủ mà không cần bất kỳ sự nỗ lực nào từ phía anh ta (Sách Sáng thế 3:23),[12] và đẩy anh ta vào thế giới rộng lớn, nơi đầy rẫy những lo âu, khó nhọc và những tai ương chưa lường trước đang chờ đợi anh ta. Trong tương lai, sự vất vả của cuộc sống sẽ thường xuyên khơi dậy trong anh ta niềm khao khát về một thiên đường, sản phẩm của trí tưởng tượng của anh ta, nơi mà anh ta có thể mơ mộng qua ngày hoặc tiêu phí cuộc đời mình trong sự nhàn rỗi yên bình và hòa bình vĩnh cửu. Nhưng giữa anh ta và chốn hạnh phúc tưởng tượng đó là một lý trí không ngơi nghỉ luôn xen vào, đó là thứ thúc đẩy anh ta phải phát triển những khả năng vốn có trong mình một cách không thể cưỡng lại, đồng thời không cho phép anh ta quay trở lại trạng thái thô sơ và giản đơn mà nó từng kéo anh ta ra khỏi (Sách Sáng thế 3:24).[13] Tuy nhiên, lý trí vẫn thúc đẩy anh ta tiến lên để gánh lấy một cách kiên nhẫn những công việc nặng nhọc mà anh ta ghét bỏ, và chạy theo những thứ phù phiếm mà anh ta khinh thường, và thậm chí còn quên cả cái chết – nỗi sợ lớn nhất của anh ta – chỉ vì những điều tầm thường nhỏ nhặt mà anh ta còn sợ mất đi hơn.
NHẬN XÉT Từ sự trình bày này về lịch sử ban đầu của loài người, ta có thể rút ra nhận xét rằng việc con người rời khỏi thiên đường, nơi lý trí xác định là chỗ ở đầu tiên của giống loài mình, thực chất là một bước chuyển từ trạng thái thô sơ của một sinh vật thuần túy động vật sang nhân tính, từ "xe tập đi"(p) của bản năng sang sự hướng dẫn của lý trí – nói ngắn gọn, là từ tình trạng bị tự nhiên giám hộ (q) sang trạng thái tự do. Việc con người được hay mất qua sự thay đổi này không còn là điều đáng bàn, nếu chúng ta xét đến thiên chức của giống loài. Thiên chức ấy không gì khác ngoài việc không ngừng hướng tới sự hoàn thiện, dù những nỗ lực ban đầu để đạt được mục tiêu này – vốn chỉ là những bước khởi đầu trong một chuỗi dài các thế hệ nối tiếp nhau – có thể đầy sai sót. Tuy nhiên, tiến trình này, mặc dù đối với giống loài là sự cải thiện từ trạng thái tồi tệ sang tốt đẹp hơn, lại không mang ý nghĩa tương tự đối với từng cá nhân. Trước khi lý trí thức tỉnh, con người chưa có mệnh lệnh cũng như cấm đoán nào, và vì thế cũng chưa có sự vi phạm, nhưng khi lý trí bắt đầu làm công việc của nó, – dù còn non nớt – và phải đối đầu với bản năng đầy mạnh mẽ, thì những đau khổ là điều không thể tránh khỏi, và tệ hơn nữa, khi lý trí phát triển hơn, những thói xấu lại nảy sinh – những thứ hoàn toàn xa lạ với trạng thái vô tri, và vì thế cũng là trạng thái vô tội. Bước đầu tiên ra khỏi trạng thái này, do đó, về mặt đạo đức là một sự sa ngã; còn về mặt thể chất, hàng loạt những đau khổ chưa từng biết đến trong cuộc sống là hệ quả của sự sa ngã này, và vì vậy trở thành hình phạt. Lịch sử của tự nhiên vì thế bắt đầu từ cái thiện, bởi đó là công trình của Thượng đế; còn lịch sử của tự do bắt đầu từ cái ác, bởi đó là công trình của con người.[14] Đối với cá nhân, khi sử dụng tự do chỉ để nhìn vào chính mình, sự thay đổi này là một sự mất mát; nhưng đối với tự nhiên, vốn theo đuổi mục tiêu thông qua con người để phục vụ giống loài, đó lại là một sự thu hoạch. Vì vậy, cá nhân có lý do để quy trách mọi đau khổ mà mình phải chịu và mọi điều ác mà mình gây ra cho chính lỗi lầm của mình; đồng thời, với tư cách là một thành viên của cái toàn thể (giống loài), cá nhân cũng có lý do để ngưỡng mộ và ca ngợi sự khôn ngoan cùng tính mục đích trong sự sắp đặt này. Bằng cách này, ta có thể dung hòa các luận điểm nổi tiếng của J.-J. Rousseau, khiến chúng trở nên nhất quán và hợp lý hơn, dù những luận điểm này thường bị diễn giải sai và trông như mâu thuẫn với nhau. Trong các tác phẩm về ảnh hưởng của khoa học và về sự bất bình đẳng của con người,[15] ông chỉ ra một cách chính xác mâu thuẫn không thể tránh khỏi giữa văn hóa và bản tính tự nhiên của loài người với tư cách là một giống loài tự nhiên, trong đó mỗi cá thể đều hoàn toàn có thể hoàn thành vai trò của mình; nhưng trong Émile, Khế ước xã hội [16] và các bài viết khác, ông lại tìm cách giải quyết vấn đề khó hơn: làm thế nào để văn hóa tiếp tục phát triển nhằm phát huy đầy đủ các tiềm năng của nhân loại với tư cách là một giống loài đạo đức, theo cách sao cho trạng thái đạo đức này không xung đột với nhân loại với tư cách là giống loài tự nhiên. Từ xung đột này (bởi văn hóa, xét theo những nguyên tắc giáo dục (r) đúng đắn dành cho con người và công dân, có lẽ còn chưa thực sự hình thành, chứ chưa nói đến việc hoàn thiện) đã nảy sinh mọi khổ đau thực sự đè nặng lên đời sống con người và mọi thói xấu làm hoen ố danh dự(*)của họ; trong khi những động lực dẫn đến những thói xấu này, thường bị đổ lỗi, thực chất lại là tốt đẹp và phù hợp như những bản năng tự nhiên, nhưng những bản năng này, khi chỉ tồn tại trong trạng thái tự nhiên thuần túy, đã bị ảnh hưởng bởi sự phát triển không ngừng của văn hóa, và ngược lại, chúng cũng tác động tiêu cực đến văn hóa, cho đến khi nghệ thuật đạt đến sự hoàn thiện và hài hòa với tự nhiên. Đây chính là mục tiêu tối hậu trong quá trình định hướng đạo đức của nhân loại.
KHÉP LẠI CÂU CHUYỆN Sự khởi đầu của giai đoạn tiếp theo là con người từ thời kỳ an nhàn và hòa bình đã chuyển sang thời kỳ lao động và bất hòa, như là khúc dạo đầu của sự thống nhất trong xã hội. Ở đây, chúng ta một lần nữa phải thực hiện một bước nhảy lớn, đưa con người bước vào thời kỳ anh ta sở hữu các loài động vật thuần hóa và cây trồng mà chính anh ta có thể dùng để nuôi sống mình bằng cách gieo hạt và trồng trọt (Sách Sáng thế 4:2),[17] mặc dù việc chuyển đổi từ cuộc sống săn bắn hoang dã sang giai đoạn đầu tiên, và từ việc đào củ hoặc hái quả không ổn định sang giai đoạn thứ hai, có thể đã diễn ra một cách chậm chạp. Ở đây, mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh giữa những con người từng sống hòa thuận bên nhau, dẫn đến sự chia rẽ giữa các nhóm có lối sống khác nhau và sự phân tán của họ khắp nơi trên trái đất. Cuộc sống du mục không chỉ nhàn nhã mà còn đảm bảo nguồn sống ổn định nhất, vì trên những vùng đất rộng lớn không có người ở, thức ăn cho đàn gia súc luôn dồi dào. Ngược lại, việc canh tác đất đai hay trồng trọt không chỉ đòi hỏi nhiều công sức mà còn phụ thuộc vào sự thất thường của thời tiết, khiến nó trở nên bấp bênh, và nó còn yêu cầu phải có nơi ở cố định, quyền sở hữu đất đai, cùng lực lượng (s) đủ mạnh để bảo vệ tài sản. Trong khi đó, người chăn nuôi lại ghét sự sở hữu đất đai vì nó hạn chế tự do sử dụng các đồng cỏ của họ. Về phía người nông dân, họ có thể cảm thấy ganh tị với người chăn nuôi vì được trời ưu ái hơn (Sách Sáng thế 4:4).[18] Tuy nhiên, trên thực tế, người chăn nuôi đã trở thành một gánh nặng lớn đối với người nông dân khi sống gần nhau, bởi đàn gia súc thường phá hoại cây trồng của họ. Vì người chăn nuôi, sau khi gây thiệt hại, có thể dễ dàng rời đi cùng đàn gia súc mà không phải chịu trách nhiệm bồi thường, bởi họ không để lại thứ gì mà không thể dễ dàng tìm được ở nơi khác, nên có lẽ chính người nông dân đã sử dụng vũ lực để chống lại những hành vi xâm phạm mà bản thân người chăn nuôi lại không xem là sai trái, và (vì những mâu thuẫn này không bao giờ dứt), nếu không muốn mất đi thành quả lao động khó nhọc của mình, người nông dân buộc phải giữ khoảng cách, càng xa càng tốt, với những người sống cuộc đời du mục (Sách Sáng thế 4:16).[19] Sự phân ly này đánh dấu thời kỳ thứ ba. Một vùng đất có nguồn sống phụ thuộc vào việc canh tác và trồng trọt (chủ yếu là cây cối) đòi hỏi con người phải định cư cố định; bên cạnh đó, việc bảo vệ vùng đất khỏi sự xâm phạm cũng cần đến sự hợp tác của cả cộng đồng. Vì vậy, với cách sống này, con người không thể tiếp tục sống rải rác theo từng gia đình riêng lẻ mà buộc phải tập hợp lại, xây dựng các làng mạc (đôi khi được gọi không chính xác là thị trấn) nhằm bảo vệ tài sản trước những thợ săn hoang dã hoặc các đoàn người chăn nuôi du mục nay đây mai đó. Những nhu cầu thiết yếu đầu tiên của cuộc sống, mà việc đáp ứng chúng đòi hỏi những cách sống khác nhau (Sách Sáng thế 4:20),[20] giờ đây có thể được trao đổi lẫn nhau. Từ nền văn hóa này, nghệ thuật bắt đầu xuất hiện, vừa như một thú tiêu khiển, vừa như một ngành nghề (Sách Sáng thế 4:21–22);[21] tuy nhiên, điều quan trọng nhất là sự ra đời của các thiết chế dựa trên hiến pháp dân sự và hệ thống công lý công cộng, ban đầu chắc chắc chỉ tập trung vào việc xử lý những hành vi bạo lực nghiêm trọng, việc trả thù không còn là trách nhiệm của từng cá nhân như trong trạng thái hoang dã, mà được chuyển giao cho một quyền lực pháp lý duy trì sự gắn kết chung, tức là một loại chính quyền ở đó không có hiện tượng lạm dụng quyền lực (Sách Sáng thế 4:23-24).[22] – Từng chút một, từ sự khởi đầu thô sơ ban đầu này, mọi nghệ thuật của con người – trong đó nghệ thuật sống hợp quần và an ninh dân sự là hữu ích nhất – dần dần phát triển. Nhân loại sinh sôi nảy nở và từ một điểm trung tâm lan tỏa ra khắp nơi, giống như một tổ ong, sai phái những người đã được chuẩn bị sẵn sàng đi khai hoang, lập ấp. Với thời kỳ này, tình trạng bất bình đẳng giữa con người bắt đầu nảy sinh, trở thành mạch nguồn dồi dào không chỉ của nhiều điều ác, mà còn của mọi điều thiện, và tình trạng ấy ngày càng mở rộng hơn nữa. Chừng nào các dân tộc du mục chăn nuôi, những người chỉ công nhận Thượng Đế là chủ tể duy nhất, vẫn còn vây quanh cư dân đô thị và người nông dân – những người đặt quyền lực của con người (chính quyền) làm chủ tể của mình (Sách Sáng thế 6:4)(*)[23] – và khi họ, với tư cách là những kẻ thù không đội trời chung của chế độ sở hữu đất đai, liên tục tấn công các cư dân định cư và ngược lại, bị những cư dân này căm ghét, thì chiến tranh không ngừng giữa hai bên, hoặc ít nhất là mối đe dọa chiến tranh luôn hiện hữu, vẫn sẽ tiếp diễn; và do đó, cả hai bên đều ít nhất có thể tận hưởng niềm vui từ món quà vô giá của tự do – (bởi lẽ ngay cả ngày nay, nguy cơ chiến tranh vẫn là yếu tố duy nhất có thể kìm hãm chế độ chuyên quyền, vì sự giàu có là điều kiện cần để một nhà nước trở nên hùng mạnh, nhưng không có tự do thì không thể có sự năng động, một yếu tố cần thiết để tạo ra của cải. Thay vào đó, ở một dân tộc nghèo cần có sự tham gia sâu rộng vào việc bảo vệ phúc lợi chung, điều này chỉ có thể thực hiện được khi dân tộc đó cảm thấy mình thực sự tự do. Nhưng theo thời gian, sự xa hoa ngày càng tăng của cư dân đô thị, đặc biệt là nghệ thuật quyến rũ, nơi mà phụ nữ thành thị vượt trội hơn hẳn những cô gái giản dị nơi sa mạc, chắc hẳn đã trở thành một sức hút mãnh liệt đối với những người chăn thả (Sách Sáng thế 6:2)[24] khiến họ dần hòa nhập với cư dân đô thị và để bản thân bị cuốn vào vẻ hào nhoáng đầy khổ đau của các thành phố. Sau đó, sự hòa trộn hoàn toàn giữa hai dân tộc vốn thù địch không chỉ chấm dứt mọi nguy cơ chiến tranh mà còn đồng thời đặt dấu chấm hết cho tự do. Hệ quả là, một bên chứng kiến sự ra đời của chế độ chuyên chế dưới tay các bạo chúa hùng mạnh, trong khi bên kia, với nền văn hóa gần như chưa bắt đầu, lại rơi vào sự xa hoa vô hồn và cảnh nô lệ cùng cực, trộn lẫn với mọi thói hư tật xấu của một trạng thái thô sơ. Điều này, một cách không thể tránh khỏi, đã khiến nhân loại đi chệch hướng khỏi con đường phát triển những thiên hướng tốt đẹp mà tự nhiên đã định sẵn; và hư vậy, con người trở nên không xứng đáng với sự tồn tại của chính mình như một loài được định sẵn để thống trị trái đất, chứ không phải để hưởng thụ như gia súc và phục vụ như nô lệ (Sách Sáng thế 6:17).[25]
NHẬN XÉT KẾT LUẬN Người biết suy nghĩ cảm nhận một nỗi u sầu, mà nếu không được chế ngự, có thể dẫn đến sự băng hoại đạo đức, một cảm giác mà kẻ vô tâm không bao giờ biết đến; đó là sự bất mãn với thiên hựu, Đấng chi phối toàn bộ diễn trình của thế giới, khi họ suy ngẫm về những khổ đau to lớn đang đè nặng lên nhân loại, dường như không để lại chút hy vọng nào cho điều gì tốt đẹp hơn. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta phải biết hài lòng với sự quan phòng (dù rằng trong thế giới trần gian này, số phận đã định sẵn cho chúng ta một con đường đầy gian nan): một phần để luôn giữ được dũng khí trước những khó khăn vất vả, và một phần để không đổ lỗi hoàn toàn cho số phận mà bỏ qua trách nhiệm của chính mình, bởi có lẽ chính trách nhiệm đó mới là nguyên nhân duy nhất dẫn đến mọi bất hạnh, và không bỏ qua việc tìm kiếm giải pháp để khắc phục khó khăn thông qua sự tự hoàn thiện bản thân. Người ta phải thừa nhận rằng những tai họa lớn nhất đè nặng lên các dân tộc văn minh không phải đến từ những cuộc chiến tranh thực sự đã xảy ra hay đang diễn ra, mà từ sự chuẩn bị vũ trang không ngừng nghỉ và ngày càng leo thang cho những cuộc chiến trong tương lai. Tất cả nguồn lực của nhà nước, tất cả thành quả của nền văn hóa mà đáng lẽ có thể được sử dụng để phát triển văn hóa sâu rộng hơn, đều bị dồn vào mục đích này; ở nhiều nơi, tự do bị tổn hại nghiêm trọng, và trách nhiệm chăm lo cho các thành viên cá nhân của nhà nước đã biến thành những đòi hỏi khắc nghiệt không ngừng nghỉ, những đòi hỏi khắc nghiệt này, đến lượt mình, lại được biện minh bằng nỗi lo sợ trước các mối đe dọa từ bên ngoài. Thế nhưng, liệu nền văn hóa này có thể tồn tại, liệu có sự gắn kết chặt chẽ giữa các tầng lớp trong cộng đồng để thúc đẩy thịnh vượng chung, liệu dân số có thể phát triển, hay thậm chí liệu mức độ tự do – dù bị hạn chế nghiêm ngặt bởi các luật lệ khắt khe – có thể được duy trì, nếu chiến tranh, luôn bị lo sợ, không buộc ngay cả các nhà lãnh đạo cao nhất của các quốc gia phải tôn trọng nhân loại? Hãy nhìn vào Trung Hoa, một đất nước nhờ vị trí địa lý chỉ cần lo ngại một cuộc tấn công bất ngờ chứ không phải một kẻ thù hùng mạnh, để thấy rằng mọi dấu vết của tự do đã hoàn toàn biến mất. Do đó, ở giai đoạn phát triển văn hóa hiện tại của nhân loại, chiến tranh vẫn được xem là một phương tiện không thể thiếu để thúc đẩy sự tiến bộ của chính nền văn hóa này; và chỉ khi nhân loại đạt đến một nền văn hóa hoàn thiện (mà thời điểm đó, chỉ có Thượng đế mới biết), hòa bình vĩnh cửu mới thực sự mang lại lợi ích và trở nên khả thi. Vì vậy, về điểm này, chúng ta thực ra phải tự chịu trách nhiệm cho những tai họa mà mình thường cay đắng than phiền. Văn kiện thiêng liêng hoàn toàn đúng khi nhận định rằng việc hợp nhất các dân tộc(t) thành một xã hội chung và loại bỏ hoàn toàn nguy cơ từ bên ngoài, khi nền văn hóa của họ còn ở giai đoạn đầu, không chỉ cản trở mọi bước tiến văn hóa tiếp theo mà còn dẫn đến sự suy đồi không thể cứu vãn. Sự bất mãn thứ hai của con người liên quan đến trật tự của tự nhiên, đặc biệt là sự ngắn ngủi của đời người. Có lẽ, chỉ khi chưa thực sự hiểu cách đánh giá đúng giá trị của cuộc sống, con người mới mong muốn nó kéo dài hơn thực tế; bởi lẽ, điều đó chẳng qua chỉ là kéo dài một vở kịch đầy rẫy những khó khăn và rắc rối triền miên. Dẫu vậy, cũng khó trách một cách phán xét ngây thơ, khi con người sợ chết mà không thực sự yêu cuộc sống. Họ chật vật tìm kiếm niềm vui trong từng ngày, cảm thấy khó sống với sự mãn nguyện tối thiểu, nhưng lại không bao giờ có đủ những ngày như thế để thôi khao khát lặp lại chuỗi bất hạnh này một lần nữa. Nhưng nếu suy ngẫm về việc bao lo toan giày vò chúng ta, ngay cả trong những phương tiện để duy trì một cuộc đời ngắn ngủi, cùng với biết bao bất công được gây ra chỉ vì hy vọng vào những niềm vui ngắn ngủi trong tương lai, thì trên cơ sở lý trí, ta khó có thể phủ nhận rằng: nếu tuổi thọ của con người kéo dài 800 năm hoặc hơn, người cha sẽ khó an toàn trước con trai mình, anh em sẽ phải dè chừng lẫn nhau, và ngay cả bạn bè cũng không thể an tâm trước nhau; những thói xấu của một giống loài sống thọ đến mức ấy sẽ gia tăng đến mức chỉ còn xứng đáng với số phận bị quét sạch hoàn toàn khỏi mặt đất trong một trận đại hồng thủy (Sách Sáng thế 6:12-13).[26] Ước muốn thứ ba, hay đúng hơn là một khát vọng trống rỗng (bởi người ta hiểu rõ rằng điều mong muốn đó sẽ không bao giờ thành hiện thực), chính là hình ảnh mờ ảo của thời đại hoàng kim được các nhà thơ ca tụng: một thời kỳ con người được giải thoát khỏi mọi nhu cầu viển vông do sự xa hoa áp đặt, sống đủ đầy chỉ với những nhu cầu cơ bản của tự nhiên, đạt được sự bình đẳng hoàn toàn giữa mọi người và một nền hòa bình vĩnh cửu. Nói ngắn gọn, đó là sự hưởng thụ thuần túy của một cuộc sống không lo nghĩ, chìm đắm trong lười biếng hoặc vui chơi hồn nhiên như trẻ nhỏ. Khát vọng này chính là điều làm nên sức hấp dẫn của những câu chuyện như Robinson Crusoe hay các chuyến hành trình đến những hòn đảo Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh sự chán ngán mà con người có suy tư cảm nhận về cuộc sống văn minh, khi giá trị cuộc sống chỉ được tìm kiếm trong sự hưởng thụ, và lười biếng được xem như một đối trọng với lời nhắc nhở của lý trí rằng cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi giá trị của nó được khẳng định thông qua hành động. Sự ảo tưởng về mong muốn quay lại thời kỳ nguyên thủy được làm sáng tỏ khi ta nhận ra rằng, như đã mô tả ở trên, con người không thể tồn tại trong trạng thái ấy vì nó không đáp ứng được nhu cầu của họ. Hơn thế, họ cũng không hề mong muốn quay trở lại đó thêm một lần nào nữa. Do đó, họ buộc phải thừa nhận rằng trạng thái hiện tại, dù đầy rẫy gian khổ, vẫn là hệ quả từ chính bản thân họ và sự lựa chọn của chính họ. Cách trình bày lịch sử như vậy sẽ mang lại nhiều lợi ích cho con người, giúp họ học hỏi và tự cải thiện, bởi nó chỉ ra rằng họ không được đổ lỗi cho sự quan phòng về những đau khổ đang đè nặng lên mình; rằng họ cũng không có quyền biện minh bằng cách quy trách nhiệm cho một tội lỗi nguyên thủy của tổ tiên mình, qua đó một khuynh hướng dẫn đến những hành vi sai trái tương tự được cho là đã trở thành di truyền đối với con cháu của họ (bởi lẽ những hành động có chủ ý không thể để lại bất kỳ điều gì mang tính di truyền); thay vào đó, họ phải thừa nhận một cách đầy đủ trách nhiệm rằng những gì tổ tiên đã làm cũng chính là hành động của bản thân họ; và vì thế, với mọi đau khổ và hệ lụy phát sinh từ việc lạm dụng lý trí, họ phải hoàn toàn tự nhận trách nhiệm, bởi lẽ, họ hoàn toàn có thể nhận thức rằng, nếu ở trong hoàn cảnh tương tự, họ cũng sẽ hành xử giống hệt như vậy, và ngay từ lần đầu tiên nhân loại sử dụng lý trí, họ cũng sẽ lạm dụng nó, thậm chí bất chấp cả lời cảnh báo từ tự nhiên. Về những đau khổ thể chất thực sự, chỉ khi các vấn đề đạo đức đã được làm sáng tỏ như trên, thì trong cán cân giữa công và tội, những đau khổ ấy khó có thể mang lại bất kỳ ưu thế nào cho chúng ta. Và như vậy, kết luận được rút ra từ một lịch sử cổ xưa nhất của nhân loại, được triết học nỗ lực tái hiện, là sự hài lòng với sự quan phòng và với tiến trình chung của nhân loại. Tiến trình này không bắt đầu từ trạng thái hoàn hảo rồi suy đồi thành cái ác, mà thay vào đó, phát triển từng bước từ trạng thái kém hoàn thiện đến tốt đẹp hơn. Trong hành trình ấy, mỗi người, trong khả năng của mình, được chính tự nhiên giao phó trách nhiệm đóng góp vào sự tiến bộ chung..
Dịch theo bản dịch của Allen W. Wood trong Günter Zöller & Robert B. Louden. Immanuel Kant:Anthropology, History, and Education. Cambridge University Press. (a) Erdichtung (b) erdichtet (c) historisch: Từ này và các từ liên quan sẽ được chú thích để phân biệt giữa Historie và Geschichte. (d) Geschichte: Có thể được dịch là "lịch sử" hoặc "câu chuyện", và sẽ được dịch theo cả hai cách dưới đây, tùy theo ngữ cảnh phù hợp. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đôi khi khó xác định (có thể là chủ ý) Kant muốn ám chỉ nghĩa nào. (e) schwärmen. (f) von der gänzlichen Rohigkeit seiner Natur. [1] "Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng." (Sách Sáng thế 2:20). [Các đoạn trích dẫn Kinh thánh trong các chú thích này, chúng tôi xin sử dụng lại bản dịch Kinh Thánh: Cựu ước và Tân ước do Toà Tổng Giám mục Tp. Hồ Chí Minh thực hiện năm 1998 (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998). (ND)] (*) Sự thôi thúc giao tiếp hẳn là điều đầu tiên thúc đẩy anh ta, ngay cả khi còn cô đơn, tìm cách thể hiện sự hiện diện của mình với các sinh vật sống xung quanh, đặc biệt là những sinh vật phát ra âm thanh mà anh ta có thể bắt chước và sử dụng làm tên gọi. Người ta có thể nhận thấy một biểu hiện tương tự của sự thôi thúc này ở trẻ em và những người thiếu suy nghĩ, khi họ làm gián đoạn những người đang suy tư nghiêm túc trong xã hội bằng những tiếng ầm ừ, la hét, huýt sáo, hát, hoặc các hình thức giải trí ồn ào khác (thường bao gồm cả những nghi lễ tôn giáo tương tự). Tôi không thấy động cơ nào khác cho những hành vi này ngoài mong muốn thể hiện sự hiện diện của họ rộng rãi. (g) từ ngữ và khái niệm: Begriffen. [2] "[16] Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hầu hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; [17] nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." (Sách Sáng thế 2: 16-17). [3] "[2] Người đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn thì chúng tôi được ăn. [3] Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết." (Sách Sáng thế 3: 2-3). [4] "Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn." (Sách Sáng thế 3: 6). (h) Versuch: cũng có thể được dịch là "thể nghiệm"; thuật ngữ này liên quan với Versuchung có nghĩa là "sự cám dỗ." [5] "Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không." (Sách Sáng thế 3: 1). [6] "Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân." (Sách Sáng thế 3:7). [7] "[7] Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân." (Sách Sáng thế 3:7) (k) Sittsamkeit. (l) guten Anstand. (m) Ausbildung (n) sittlichen. (o) Bestimmung. [8] “[13] ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?” Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn." [14] ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng hải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. [15] Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." [16] Với người đàn bà, Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi." [17] Với con người, Chúa phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: 'Ngươi đừng ăn nó', nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. [18] Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. [19]Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (Sách Sáng thế 3: 13-19). [9] "Con người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh." (Sách Sáng thế 3: 20). Trong tiếng Do Thái, “Eve” có thể được hiểu theo nghĩa từ nguyên là “người ban sự sống”. [10] ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa làm cho con người và vợ của con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ." (Sách sáng thế 3: 21). [11] ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa nói: "Này con người đã trở thành một kẻ như chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi." (Sách sáng thế 3: 22). [12] " ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra." (Sách Sáng thế 3: 23). [13] "Người trục xuất con người, và ở phía Đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh." (Sách Sáng thế 3: 24). (p) Gängelwagen: Một loại xe đẩy hai bánh được sử dụng vào thế kỷ 18 để dạy trẻ em tập đi, bằng cách hỗ trợ chúng, tương tự như cách bánh phụ được sử dụng trên xe đạp để tập đi. (q) Unmündigkeit: Một khái niệm mà Kant định nghĩa là “không có năng lực sử dụng giác tính (understanding) của chính mình, không cần đến sự chỉ dẫn của người khác”; ông định nghĩa “khai minh” (Aufklärung) là “thoát ra khỏi tình trạng bị giám hộ tự mình chuốt,” và coi tình trạng bị giám hộ này là “tự gây ra” khi nguyên nhân không phải do thiếu hiểu biết, mà là do thiếu can đảm và quyết tâm tự mình giải quyết vấn đề của mình (AA 8: 35). [14] So sánh: “Mọi thứ đều tốt lành khi ra từ bàn tay của đấng sáng tạo; mọi thứ suy đồi khi nằm trong tay con người” (Rousseau, Émile (1762), Oeuvres completes. Bibliotheque de la Pléiade. Paris: Gallimard, 1969, 4: 245). [15] Rousseau, Discours sur les sciences et les arts (1750), Oeuvres completes, vol. III; Discours sur l’origine et les fondements de l’inégalitéparmi les hommes (1754), Oeuvres completes, vol. III. [16] Rousseau, Émile, ou l’education (1762), Oeuvres completes, vol. IV; Du contrat social (1762), Oeuvres completes, vol. III. (r)) Erziehung. (*) Để minh họa một vài ví dụ về sự xung đột giữa mặt này là khát vọng của con người hướng tới thiên chức đạo đức và mặt kia là sự tuân theo không thay đổi các quy luật vốn được tự nhiên đặt ra cho trạng thái thô sơ và bản năng động vật, tôi xin trình bày như sau: Thời kỳ trưởng thành, tức là giai đoạn xuất hiện xung năng và khả năng sinh sản để duy trì nòi giống, được tự nhiên ấn định là vào khoảng 16 hoặc 17 tuổi. Đó là độ tuổi mà một chàng trai trong trạng thái tự nhiên sơ khai thực sự trưởng thành thành một người trưởng thành; bởi vì khi đó anh ta đã có khả năng tự lo cho bản thân, duy trì nòi giống và chăm sóc gia đình cùng người bạn đời của mình. Tính giản đơn trong các nhu cầu của anh ta khiến cho việc này trở nên dễ dàng hơn đối với anh ta. Ngược lại, trong trạng thái văn hóa con người cần nhiều phương tiện hơn để đáp ứng nhu cầu, bao gồm cả kỹ năng và các điều kiện thuận lợi từ bên ngoài, khiến giai đoạn trưởng thành này, xét về mặt xã hội, thường chậm hơn, trung bình khoảng mười năm. Tuy nhiên, tự nhiên không thay đổi độ tuổi trưởng thành của con người cùng với sự phát triển của xã hội, mà vẫn kiên định tuân theo các quy luật vốn có nhằm bảo tồn loài người như một giống loài động vật. Từ đây nảy sinh một xung đột không thể tránh khỏi: mục đích của tự nhiên bị tổn hại bởi đạo đức, và ngược lại, đạo đức cũng bị tổn hại bởi mục đích của tự nhiên. Bởi lẽ, trong một độ tuổi nhất định, con người tự nhiên đã được xem là một người trưởng thành, trong khi con người văn minh (dù trong sâu thẳm vẫn là con người tự nhiên) chỉ là một thanh niên, thậm chí có thể vẫn chỉ là một đứa trẻ; vì thế, ta có thể gọi anh ta như vậy do độ tuổi của anh ta (trong xã hội văn minh), anh ta thậm chí còn chưa thể nuôi sống được cho bản thân, chứ nói gì gì đến việc duy trì giống nòi, mặc dù anh ta đã có những xung lực ham muốn và có khả năng sinh sản, vì thế mang theo tiếng gọi của tự nhiên như một phần ý chí của mình. Chắc chắn, tự nhiên không đặt bản năng và năng lực trong các sinh vật sống để họ phải đấu tranh và kìm nén chúng. Vì thế, cơ chế vận hành của tự nhiên không được thiết lập cho trạng thái đạo đức, mà chỉ dành cho việc bảo tồn loài người với tư cách là một loài động vật, và do đó trạng thái văn minh rơi vào xung đột không thể tránh khỏi với việc bảo tồn ấy, mà chỉ có một hiến pháp dân sự hoàn hảo (mục tiêu tối cao của văn hóa) mới loại bỏ được mối xung đột này, vì hiện tại, khoảng trống đó thường bị lấp đầy bởi những thói hư tật xấu và hậu quả của chúng, dẫn đến muôn vàn đau khổ cho con người. Một ví dụ khác để chứng minh tính đúng đắn của luận điểm rằng tự nhiên đã thiết lập trong chúng ta hai khuynh hướng bẩm sinh cho hai mục đích khác nhau, cụ thể nhân loại như là một loài động vật và nhân loại như là loài đạo đức chính là câu nói của Hippocrates ars longa, vita brevis [nghệ thuật dài lâu, đời người ngắn ngủi]. Khoa học và nghệ thuật, nếu được dẫn dắt bởi một trí tuệ duy nhất được sinh ra để phục vụ cho mục đích này, thì một khi trí tuệ ấy đạt đến sự trưởng thành đúng mức trong phán đoán, nhờ thực hành lâu dài và tri thức được tích lũy, có thể tiến xa hơn rất nhiều so với những thành tựu mà toàn bộ các thế hệ học giả nối tiếp nhau có thể đạt được – giá như trí tuệ đó, với sức trẻ và năng lượng của mình, có thể sống lâu bằng tổng thời gian được phân bổ cho tất cả các thế hệ ấy cộng lại. Rõ ràng, tự nhiên đã đưa ra quyết định về tuổi thọ của con người từ một quan điểm khác, không phải để thúc đẩy sự phát triển của khoa học. Bởi nếu một trí tuệ may mắn nhất đang đứng trước ngưỡng của những khám phá vĩ đại mà anh ta hy vọng có thể đạt được nhờ kĩ năng và kinh nghiệm của mình, thì tuổi già ập đến; anh ta trở nên kém minh mẫn và phải để lại chúng cho thế hệ tiếp sau (thế hệ này lại phải bắt đầu lại từ đầu và phải đi lại trọn con đường mà thế hệ trước đã đi) để mở thêm một đoạn nữa cho bước tiến của văn hóa. Tiến trình nhân loại hướng đến việc đạt được thiên chức hoàn chỉnh của mình do đó có vẻ như không ngừng bị gián đoạn và luôn có nguy cơ rơi trở lại trạng thái thô sơ cũ của mình; và vì thế triết gia Hy Lạp phàn nàn, không hoàn toàn vô lý, rằngthật đáng tiếc con người phải chết ngay khi anh ta bắt đầu hiểu ra mình phải thực sự sống như thế nào. Ví dụ thứ ba có thể là sự bất bình đẳng giữa con người. Thực ra, đây không phải là sự bất bình đẳng về tài năng bẩm sinh hay của cải, mà là về quyền con người phổ quát – một sự bất bình đẳng mà Rousseau đã phàn nàn rất xác đáng. Tuy nhiên, điều này không thể tách rời khỏi văn hóa, chừng nào văn hóa còn tiến triển một cách thiếu kế hoạch rõ ràng (và điều này khó có thể tránh khỏi trong một thời gian dài). Tự nhiên chắc chắn không định sẵn con người phải chịu sự bất bình đẳng này, bởi lẽ tự nhiên đã ban cho họ tự do và lý trí, để họ chỉ giới hạn tự do của mình theo tínhhợp quy luật phổ quát của lý trí, chính xác hơn là tính hợp pháp bên ngoài, được gọi là quyền công dân. Con người được định sẵn phải tự mình thoát khỏi trạng thái thô sơ trong các xu hướng tự nhiên của chính mình, nhưng đồng thời phải cẩn trọng để không làm tổn hại đến những xu hướng đó, ngay cả khi anh ta vượt lên trên chúng. Đây là một kỹ năng mà con người chỉ có thể đạt được muộn màng, sau nhiều lần nỗ lực thất bại. Trong khoảng thời gian ấy, nhân loại chỉ biết thở dài trước những khổ đau do chính mình gây ra vì thiếu kinh nghiệm. [17] "Bà lại sinh ra A-ben, em ông. A-ben làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề cày cấy đất đai." (Sách Sáng thế 4:2). (s) Gewalt. [18] "A-ben cũng dâng những đứa con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. ĐỨA CHÚA ngoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông." (Sách Sáng thế, 4:4). [19] "Ông Ca-in đi xa khuất mặt ĐỨC CHÚA và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen. (Sách Sáng thế 4:16). [20] "Bà A-đa sinh Gia-van; ông này là ông tổ các người ở lều và nuôi súc vật." (Sách Sáng thế 4:20). [21] "[21] Em ông này tên là Giu-van; ông này là ông tổ các người chơi đàn thổi sáo. [22] Còn bà Xi-la thì sinh Tu-van Ca-in; ông này là ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt. Em gái Tu-van Ca-in là Na-a-ma." (Sách Sáng thế 4: 21-22). [22] "[23] Ông La-méc nói với các bà vợ: "A-đa và Xi-la, hãy nghe tiếng ta! Thê thiếp của La-méc, hãy lắng tai nghe lời ta! Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. [24] Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!" (Sách Sáng thế 4: 23-24). (*) Người bedouin ở Ả Rập vẫn tự gọi mình là con cháu của một vị sheikh thời xưa, người sáng lập ra bộ tộc của họ (như bộ tộc Beni Haled và các bộ tộc tương tự). Vị sheikh này không phải là chúa tể của họ và không thể tùy ý thực thi quyền lực bất cứ khi nào ông ta muốn. Bởi vì trong xã hội du mục, nơi không ai sở hữu đất đai mà họ phải ở lại, bất kỳ gia đình nào không hài lòng đều có thể dễ dàng tách khỏi bộ tộc để gia nhập hoặc củng cố một bộ tộc khác. [23] "Có những người khổng lồ trên mặt đất vào thời bấy giờ và cả sau đó nữa, khi các con trai Thiên Chúa đi lại với con gái loài người, và các cô này sinh cho họ những người con. Đó là những anh hùng thưở xưa, những người có tên tuổi." (Sách Sáng thế 6:4). [24] "thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ." (Sách Sáng thế 6: 2). [25] "Phần Ta, Ta sắp cho hồng thủy, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất, để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí dưới gầm trời; mọi loài trên mặt đất sẽ tắt thở." (Sách Sáng thế 6:17). (t) Völker. [26] “[12] Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất. [13] Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực: Này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất.” (Sách Sáng thế6:12-13). |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC