Thuyết Duy tâm Đức

Các nguyên lý của triết học pháp quyền (kỳ 4)

G. W. F. HEGEL

CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN

(GRUNDLINIEN DER PHILOSOPHIE DES RECHTS)

BÙI VĂN NAM SƠN dch và chú gii

--- o0o ---

(tiếp theo kỳ 3)

 

PHẦN I

PHÁP QUYỀN TRỪU TƯỢNG

 

§34

Ý chí tự do tự-mình-và-cho-mình – khi còn ở trong Khái niệm trừu tượng của nó – thì mang tính quy định của sự trực tiếp. Dựa theo tính quy định này, nó là hiện thực phủ định của chính nó, chỉ quan hệ với mình một cách trừu tượng, đối lập lại với thực tại, tức: là ý chí cá biệt tồn tại-trong-mình của một chủ thể. Tương ứng với mômen của tính đặc thù [này] của ý chí, nó có thêm một nội dung gồm những mục đích nhất định, và, với tư cách là tính cá nhân loại trừ [cái khác], nó đồng thời đối diện với nội dung này như với một thế giới bên ngoài, có sẵn một cách trực tiếp.

Giảng thêm (H)

Khi tôi nói rằng ý chí tự do tự-mình-và-cho-mình – khi còn ở trong Khái niệm trừu tượng của nó – thì mang tính quy định của sự trực tiếp, điều này cần phải được hiểu như sau đây:

-   Ý niệm đã hoàn tất của ý chí là tình trạng trong đó Khái niệm đã hoàn toàn thực hiện được chính mình, và trong đó sự tồn tại-hiện có (Dasein) của nó không gì khác hơn là sự phát triển của chính bản thân Khái niệm. Tuy nhiên, thoạt đầu, Khái niệm là trừu tượng, nghĩa là, mọi sự quy định tuy đều được chứa đựng bên trong nó, nhưng cũng chỉ đơn thuần “được chứa đựng” mà thôi: chúng chỉ mới là tự-mình và chưa được phát triển ở trong chính mình thành cái toàn thể (Totalität). Khi tôi nói: tôi là tự do; thì cái Tôi này mới chỉ là sự tồn tại-trong-mình một cách không có sự đối lập; trong khi đó, ngược lại, ở trong Luân lý [cấp độ sau] đã có một sự đối lập, bởi vì ở cấp độ ấy, tôi tồn tại với tư cách là ý chí cá biệt, còn sự Thiện tồn tại với tư cách là cái phổ biến, mặc dù cái phổ biến này là ở trong chính bản thân tôi. Ở cấp độ ấy, ý chí cũng đã có các yếu tố được phân biệt giữa tính cá biệt và tính phổ biến ở trong lòng nó, và, vì thế, là ý chí đã được quy định nhất định. Thế nhưng ở lúc bắt đầu thì một sự phân biệt như thế chưa có mặt, bởi ở trong sự thống nhất [hay nhất thể] trừu tượng đầu tiên thì chưa có sự tiến lên, cũng chưa có sự trung giới nào cả: vì thế, ý chí tồn tại trong hình thức của sự trực tiếp, của “Tồn tại”. [Song], sự thức nhận cơ bản đạt được ở đây là: bản thân tính không-được quy định đầu tiên này cũng là một tính quy định. Vì lẽ: tính không-được-quy-định có nghĩa chưa có sự phân biệt giữa ý chí với nội dung của nó, nhưng, bản thân tính không-được-quy-định – khi đối lập với cái được quy định nhất định – thì cũng mang đặc điểm quy định là một cái gì nhất định, đó là, ở đây, sự đồng nhất trừu tượng là cái tạo nên tính quy định [của nó]; qua đó, ý chí trở thành một ý chí cá biệt: [ta gọi đó] là Nhân thân (Person).

 

§35

Tính phổ biến của ý chí tự do tồn tại cho-mình này là tính phổ biến hình thức, tức là, quan hệ với chính mình một cách tự-giác (nhưng vô-nội dung) và đơn giản trong tính cá biệt [tính cá nhân] của mình; và trong chừng mực ấy, chủ thể là Nhân thân (Person). Trong tính nhân thân (Persönlichkeit), với tư cách là nhân thân [cá biệt] này, tôi hoàn toàn bị quy định về mọi phương diện (trong ý chí tùy tiện bên trong của tôi, trong động cơ bản năng và ham muốn, cũng như trong quan hệ với sự tồn tại-hiện có (Dasein) trực tiếp của tôi ở bên ngoài), và, tuy tôi là hữu hạn, nhưng lại hoàn toàn là sự quy chiếu thuần túy với chính mình, và, do đó, trong sự hữu hạn của mình, tôi biết tôi nhưvô hạn, phổ biếntự do.

Tính nhân thân chỉ bắt đầu có mặt khi chủ thể không đơn thuần có ý thức về mình nói chung như là Tự-ý thức cụ thể, được quy định nhất định bằng một cách nào đó mà là một Tự-ý thức về mình như là cái Tôi hoàn toàn trừu tượng, trong đó mọi tính hạn chế và tính hiệu lực cụ thể đều bị phủ định và làm cho mất hiệu lực. Vì thế, trong tính nhân thân, có cái biết về chính mình như là đối tượng, nhưng như là một đối tượng được tư duy nâng lên thành tính vô hạn đơn giản và, qua đó, đồng nhất một cách thuần túy với bản thân mình. Chừng nào chưa đi đến được tư duy thuần túy và cái biết về mình này thì những cá nhân và những dân tộc vẫn chưa có được tính nhân thân.

Tinh thần tồn tại tự-mình-và-cho-mình khác với Tinh thần hiện tượng [học] ở chỗ: trong cùng một sự quy định, thì cái sau chỉ là Tự-ý thức, là ý thức về mình, nhưng chỉ dựa theo ý chí tự nhiên và những sự đối lập vẫn còn ngoại tại của ý chí ấy (Xem: Hiện tượng học Tinh thần, 1807, tr. 101 và tiếp, và Bách khoa thư các Khoa học triết học, §344)[95], trong khi đó, cái trước có chính mình – như là cái Tôi trừu tượng và tự do – làm đối tượng và mục đích, và, như thế là nhân thân (Person).

Giảng thêm (H)

Ý chí tồn tại cho-mình hay ý chí trừu tượngnhân thân. Thành tựu cao nhất của con người là trở thành một nhân thân (Person), nhưng, dù vậy, sự trừu tượng đơn thuần ngay trong thuật ngữ “nhân thân” (Person) lại nói lên một cái gì bị khinh miệt[96]. Nhân thân khác biệt cơ bản với chủ thể, vì chủ thể chỉ là khả thể của tính nhân thân, bởi bất kỳ cái gì có sự sống thì đều là một chủ thể cả! Vậy, nhân thân là chủ thể có ý thức về tính chủ thể này, vì, trong nhân thân, tôi tồn tại tuyệt đối cho-tôi: nó là tính cá biệt của sự tự do trong cái tồn tại-cho-mình thuần túy. Với tư cách là nhân thân [cá biệt] này, tôi biết tôi là tự do ở trong chính mình và có thể trừu tượng hóa [hay thoát ly] khỏi tất cả, bởi không có gì đứng đối diện với tôi ngoài tính nhân thân thuần túy. | Song, với tư cách là nhân thân [cá biệt] này, tôi lại là một cái gì hoàn toàn bị quy định nhất định: bao nhiêu tuổi, cao bao nhiêu, đang ở trong phòng này và còn bao nhiêu thứ đặc thù khác. Vậy, nhân thân vừa là cái gì rất cao, vừa là cái gì thật thấp kém: trong nó, có mặt sự thống nhất của cái vô hạn và cái tuyệt đối hữu hạn, của ranh giới nhất định và cái thực sự không-ranh giới. Sự kỳ vĩ của nhân thân là ở chỗ: nó có thể gánh vác được sự mâu thuẫn này, một mâu thuẫn mà không có gì ở trong thế giới tự nhiên có thể chứa đựng hay chịu đựng nổi.

 

§36

1. Tính nhân thân, nói chung, bao hàm năng lực pháp lý và tạo nên Khái niệm lẫn cơ sở (vốn bản thân cũng là trừu tượng) cho pháp quyền trừu tượng và, do đó, cho pháp quyền hình thức. Vì thế, mệnh lệnh của pháp quyền là: “Hãy là một nhân thân và tôn trọng những người khác như là những nhân thân!”.

 

§37

2. Tính đặc thù của ý chí tuy là một mômen trong toàn bộ ý thức về ý chí (Xem §34), nhưng nó chưa được bao hàm ở trong tính nhân thân trừu tượng xét như tính nhân thân trừu tượng. Vì thế, dù nó có mặt - như là ham muốn, nhu cầu, động lực bản năng, lòng thiên ái v.v… -, nhưng nó vẫn còn khác biệt với tính nhân thân, với sự quy định của tự do. Do đó, trong pháp quyền hình thức, vấn đề không phải là [bàn] về lợi ích đặc thù, về sự thuận lợi hay về sự sung sướng của tôi, và cũng không bàn về cơ sở quy định đặc thù của ý chí tôi, tức, không bàn về sự thức nhận và ý định [của tôi].

Giảng thêm (H)

Vì lẽ trong nhân thân, tính đặc thù chưa có mặt với tư cách là sự tự do, nên tất cả những gì liên quan đến tính đặc thù ở đây đều là một cái gì dửng dưng. Nếu ai đó chỉ quan tâm đến pháp quyền hình thức của mình, thì điều này có thể chỉ là sự ngoan cố đơn thuần như vốn thường gặp nơi những kẻ có đầu óc hẹp hòi, bởi con người thô lậu thì hầu hết luôn bám chặt lấy quyền của mình, trong khi con người khoáng đạt lại tìm cách phát hiện thêm những phương diện khác liên quan đến sự việc. Vì thế, pháp quyền trừu tượng thoạt đầu chỉ là một khả thể đơn thuần, và, trong phương diện đó, là cái gì [đơn thuần] hình thức khi so sánh với toàn bộ phạm vi của mối quan hệ. Cho nên một sự quy định của pháp luật chỉ mang lại cho tôi một thẩm quyền, nhưng không tuyệt đối tất yếu rằng tôi sẽ theo đuổi quyền ấy của tôi, bởi nó chỉ là một phương diện của toàn bộ mối quan hệ. Thật thế, khả thể là tồn tại, nhưng cũng đồng thời có nghĩa là: có thể không tồn tại.

 

§38

Đối với hành động cụ thể và các quan hệ luân lý và đạo đức, pháp quyền trừu tượng chỉ là một khả thể so với phần còn lại của nội dung của chúng, và sự quy định của pháp luật, vì thế, chỉ là một sự cho phép hoặc một thẩm quyền([97]). Cùng một lý do về sự trừu tượng như thế, sự tất yếu của pháp quyền này bị giới hạn ở việc phủ định - tức, không vi phạm tính nhân thân và những gì rút ra từ tính nhân thân. Cho nên, trong pháp luật, chỉ có những sự cấm đoán; và hình thức thực định của mệnh lệnh của pháp luật thì, xét đến cùng về nội dung, đặt cơ sở trên sự cấm đoán[98].

 

§39

3. Tính cá biệt [tính cá nhân] lấy quyết định và có tính trực tiếp của nhân thân quan hệ với một giới tự nhiên có sẵn. Như thế, tính nhân thân của ý chí đứng đối lập lại với tự nhiên với tư cách là một cái chủ quan. Nhưng, vì lẽ tính nhân thân là vô hạn và phổ biến trong chính nó, nên việc giới hạn ở tồn tại đơn thuần chủ quan này là [tự] mâu thuẫn và vô hiệu. Tính nhân thân là cái gì hành động đvượt bỏ sự giới hạn này và mang lại thực tại cho chính mình, hay, cũng đồng nghĩa như thế, để thiết định sự tồn tại-hiện có (Dasein) ấy như là sự tồn tại-hiện có của chính mình.

 

§40

Pháp quyền thoạt đầu là sự tồn tại-hiện có (Dasein) trực tiếp. | Đó là sự tồn tại-hiện có mà sự tự do mang lại cho chính mình bằng một cách trực tiếp,

a) như là sự chiếm hữu. | Sự chiếm hữu là sở hữu. | Ở đây, sự tự do là sự tự do của ý chí trừu tượng nói chung, hay, cũng đồng nghĩa như thế, là sự tự do của một nhân thân cá nhân chỉ quan hệ với chính mình.

b)      một nhân thân, khi phân biệt mình với mình, quan hệ với một nhân thân khác; và cả hai sở dĩ có sự tồn tại-hiện có (Dasein) đối với nhau chỉ là với tư cách những người sở hữu. Sự đồng nhất tự-mình của họ nhận được sự hiện hữu (Existenz) thông qua việc chuyển sở hữu của người này sang cho người kia bởi ý chí chung và bảo tồn các quyền của cả hai bên, - nghĩa là, bằng hợp đồng [hay khế ước].

c)       Ý chí – khi chỉ quan hệ với mình và tự phân biệt bên trong chính mình (như trong a) hơn là được phân biệt với một nhân thân khác (như trong b) – là một ý chí đặc thù, vừa khác biệt, vừa đối lập lại với mình xét như với ý chí tồn tại tự-mình-và-cho-mình, chính là ý chí tạo ra sự phi pháptội ác.

Giống như nhiều sự phân chia khác cùng loại, việc phân chia pháp quyền thành một bên là quyền về nhân thân và vật và bên kia là quyền về những hành vi trước hết nhằm mục đích áp đặt một trật tự ngoại tại lên trên khối chất liệu hỗn độn đang có. Đặc điểm chủ yếu của sự phân chia này là sự lẫn lộn khi nhập chung những quyền vốn lấy những quan hệ bản thể làm tiền đề - như gia đình và Nhà nước - với những quyền chỉ quan hệ đến tính nhân thân trừu tượng. Sự phân chia của Kant – và được nhiều người khác ưa thích – thành quyền về vật, quyền về nhân thânquyền về hành vi trong gia đình[99] [hay quyền nhân thân-đối vật] là một ví dụ tiêu biểu về sự lẫn lộn này. Bàn sâu về sự lệch lạc và vô-khái niệm của việc phân chia thành quyền về nhân thânquyền về vật - vốn là sự phân chia cơ bản trong Luật La Mã (quyền về hành động liên quan đến việc quản trị và thực thi công lý không thuộc về sự phân loại này) ắt sẽ dẫn ta đi quá xa. Ở đây, ít ra cũng đã sáng tỏ rằng chỉ có [tính] nhân thân mới có quyền đối với vật, và, vì thế, quyền nhân thân, về bản chất, là quyền về vật – “vật” (Sache) được hiểu theo nghĩa khái quát như là tất cả những gì ngoại tại đối với sự tự do của tôi, thậm chí kể cả thân thể và sự sống của tôi. Quyền về vật này là quyền của [tính] nhân thân xét như tính nhân thân. Trong khi đó, trong Luật La Mã, cái được gọi là quyền của nhân thân chỉ xét một con người với tư cách là một nhân thân khi có một cương vị nào đó (Xem: Heineccius, Elementa iuris civilis / Dân luật cương yếu, (1728), §75), vì thế, trong Luật La Mã, bản thân tính nhân thân cũng chỉ đơn thuần là một đẳng cấp hay tình trạng[100], đối lập lại [tình trạng] nô lệ. Ngoài quyền đối với nô lệ (trong đó có lẽ cả đối với trẻ con) và tình trạng vô quyền (capitis diminutio)[101], nội dung của cái gọi là quyền về nhân thân trong Luật La Mã liên quan đến các quan hệ gia đình[102]. Ngoài ra, nơi Kant, các quan hệ gia đình lại thuộc về các quyền nhân thân theo kiểu đối vật[103]. – Vì vậy, quyền về nhân thân trong Luật La Mã không phải là quyền của nhân thân xét như nhân thân, mà chỉ là quyền của một nhân thân đặc thù; - về sau, ta sẽ thấy rằng cơ sở thực chất của quan hệ gia đình thực ra là sự từ bỏ tính nhân thân. Vậy, quả là ngược ngạo khi bàn về quyền của nhân thân trong tính quy định đặc thù của nó trước khi bàn về quyền phổ biến của tính nhân thân.

-   Với Kant, những quyền nhân thân là những quyền nảy sinh từ một hợp đồng hay khế ước, là nơi tôi cho ra một cái gì hay thực hiện một dịch vụ - trong Luật La Mã, cái ius ad rem [cũng] nảy sinh từ một obligatio[104]. Tất nhiên, chỉ có một nhân thân mới bó buộc phải thực thi các điều khoản của một hợp đồng, cũng như chỉ có một nhân thân mới sở đắc quyền được thấy chúng được thực thi. | Song, không phải vì thế mà có thể gọi một quyền như thế là một quyền nhân thân: bất kỳ quyền nào cũng chỉ có thể thuộc về một nhân thân, và, xét một cách khách quan, một quyền dựa trên hợp đồng không phải là một quyền đối với một nhân thân, mà chỉ đối với cái gì ngoại tại đối với nhân thân, hay, nói khác đi, đối với cái gì nhân thân có thể từ bỏ, tức, bao giờ cũng là một vật.

(xem tiếp kỳ 5)


Nguồn: G. W. F. Hegel. Các nguyên lý của triết học pháp quyền. Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú thích. Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2010. Phiên bản điện tử đăng trên triethoc.edu.vn đã được sự đồng ý của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn.



[95] PhG 166-167; EG §424.

[96] PhG, §480 (Hiện tượng học Tinh thần, BVNS dịch và chú giải, tr. 975): … “Ngay trong bản thân tiến trình tạo nên hiệu lực hiện thực cho mình, ý thức về pháp quyền thực ra đã trải nghiệm sự đánh mất thực tại của mình, trải nghiệm tính vô-bản chất hoàn toàn của chính mình, và [thấy rằng] việc biểu thị một cá nhân như là một “pháp nhân” (Person) là một cách diễn tả khinh miệt”. [Trong HTHTT, “Person” được bàn như một hình thái ý thức ở cấp độ “Tình trạng pháp quyền” (Rechtszustand) của đế quốc La Mã, biểu thị “tính nhân thân” trừu tượng của sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật. Bây giờ, trong Triết học pháp quyền, nhân thân (Person) được xét như mômen trừu tượng và hình thức của Khái niệm pháp quyền (Xem thêm §37 tt)].

([97]) Xem thêm Nhận xét của Hegel trong các bài giảng: “Được phép làm có nghĩa là “khả hữu dựa theo pháp luật” (VPR 17 45); “Cái được phép làm thì không vi phạm ý chí tự do của tôi, còn cái được quyền làm (Befugnis) là cái mà những người khác phải thừa nhận” (VPR I, 255).

[98] “Mọi mệnh lệnh của pháp quyền đều chỉ là những sự cấm đoán” (ngoại trừ mệnh lệnh: “hãy là một nhân thân”) (VPR 17 45), PR §36.

[99] Cách phân chia truyền thống thành pháp quyền về nhân thân, về sự vật và về hành vi trong Luật La Mã, Xem Justinian, Institutes 1.2.12; Justinian Digest 1.5.1 và Gaius, Fastitutes 1.8. Với Kant, RL §10, 260: “Quyền về vật” (Sachenrecht / the right of things) là quyền sở hữu chúng (RL §§11-17); “quyền nhân thân” (persönliches Recht / the right of persons) là quyền tự nguyện thực hiện những hành vi của nhân thân do hợp đồng mang lại (RL §§18-21); “quyền nhân thân-đối vật” hay “quyền về hành vi trong gia đình” (das auf dinglicher Art persönliche Recht / personal right of a real kind) (RL §22) là quyền được thực thi trong các quan hệ gia đình: quyền của vợ chồng đối với nhau (RL §§24-27) và quyền của cha mẹ đối với con cái (RL §§28-29).

[100] Luật La Mã: “trong pháp luật, con người và nhân thân là hoàn toàn khác nhau. Con người là một hữu thể sở hữu một cơ thể người và một tinh thần có lý trí; còn nhân thân là một con người được xét như có một cương vị (status) nhất định” (J. G. Heineccius, Elementa iuris civilis (Dân luật cương yếu), Amsterdam, 1726, §75), dẫn theo H. B. Nisbet, Sđd, tr. 405. Xem thêm Chú thích (96).

[101] Caput: sở hữu một cương vị pháp lý nào đó; còn capitis diminutio là khi cương vị ấy bị thay đổi hay mất đi, chẳng hạn, khi bị bán làm nô lệ (Justinian, Institutes, I. 16.1-2; Gaius, Institutes I. 160).

[102] Có lẽ cơ sở để đồng nhất hóa quyền của nhân thân với luật gia đình đó là: trong Luật La Mã, cần ba điều để con người trở thành một “nhân thân” (Person): a) caput hay cương vị (Xem chú thích 101); b) libertas hay năng lực phục tùng các quyền và nghĩa vụ của một công dân La Mã, và c) familia hay năng lực phục tùng các quyền và nghĩa vụ làm thành viên của một gia đình La Mã (Justinian, Digest, I. 5). Nhưng, Hegel cũng thấy rằng chữ “Person” (nhân thân) có khi được dùng theo nghĩa lỏng lẻo trong Luật La Mã, khiến cho một người nô lệ có khi cũng được gọi là một “nhân thân”, Xem: Hiện tượng học Tinh thần, §477, (theo H. B. Nisbet, tr. 405).

[103] Kant, RL (Học thuyết về pháp quyền), §§ 22-30.

[104] Kant, RL (Học thuyết về pháp quyền), §§ 18-21.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Lê Ngọc Thường - 22:14 25/03/2014
Bác Bùi Văn Nam Sơn dịch Hegel không chuẩn, thuật ngữ triết học sai nhiều, nếu so với bản dịch mới đây của TS Phạm Chiến Khu (TS Phạm Chiến Khu đã dịch lại cuốn "Khoa học logic" - NXB Chính trị quốc gia xuất bản tháng 11/2013). Vì thế, đọc bản dịch của bác Bùi Văn Nam Sơn vô cùng khó hiểu, tối nghĩa và lủng củng. Mong TS Phạm Chiến Khu dịch lại cuốn sách này!
Lê Quang Hồ - 00:10 15/04/2014
Tôi có coi qua bản dịch của ông Phạm Chiến Khu dịch từ bản tiếng Nga, tham khảo bản tiếng Anh trên mạng của Wallace ở trang web www.marxists.org rồi. Nhưng ngoài phần dịch, hầu như ông Phạm Chiến Khu không đóng góp thêm bất cứ lời giới thiệu dù là của mình hay của một người nước ngoài nào cũng như PHẦN CHÚ GIẢI, vốn quan trọng với các tác phẩm kinh điển. Còn 1 vấn đề rất quan trọng là Lê Ngọc Thường muốn PR cho sách của ngài tiến sĩ trên thì chí ít cũng cho một bảng so sánh tiếng Anh-tiếng Việt xem ngài Phạm Chiến Khu và Bùi Văn Nam Sơn dịch khác nhau chỗ nào, và cho người khác đối chiếu thử xem ai là NGƯỜI SAI.
Lê Ngọc Thường - 08:30 16/04/2014
Cám ơn bạn Lê Quang Hồ. Tôi sẽ trích đăng một số đoạn dịch của hai ông để độc giả phán quyết!
Lê Ngọc Thường - 08:53 16/04/2014
Cám ơn ý kiến của bạn Lê Quang Hồ. Tôi sẽ trích đăng một số đoạn do hai ông Phạm Chiến Khu và Bùi Văn Nam Sơn dịch để độc giả phán xét. Chưa nói gì đến cái ý của từng câu, từng đoạn, mục, chỉ riêng phần dịch các thuật ngữ, các phạm trù triết học căn bản, theo tôi ông Khu dịch đúng hơn ông Sơn. Ví dụ, cặp ba: "Universality, Particularity and Individuality", ông Khu dịch là: "Cái phổ quát, cái đặc thù, cái đơn nhất", còn ông Sơn dịch là "cái phổ biến, cái đặc thù, cái cá biệt"; "Degree" ông Khu dịch là "bậc" thì ông Sơn dịch là "độ"; "Measure" ông Khu dịch là "độ", trong tất cả các sách triết học tôi đã từng đọc tuiừ trước đến nay cũng đều gọi là "độ" thì ông Sơn lại dịch là "hạn độ", làm cho người đọc rất khó hiểu vì sự nhầm lẫn khái niệm. Còn rất nhiều điểm khác nhau như vậy.
Lê Ngọc Thường - 11:00 16/04/2014
Lần đầu tiên tôi biết đến các phạm trù (thuật ngữ) triết học như: "cái đúng thật", "cái biết", "cái ý thể"... Khi đọc bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn. Ông Khu dịch các phsmj trù nói trên là: "chân lý", "tri thức", "cái lý tưởng", rats quen thuộc, xuôi tai!
Lê Ngọc Thường - 17:39 16/04/2014
Có hai điều làm tôi băn khoăn, không biết ông Khu dịch có chính xác hơn ông Sơn không là: Thứ nhất, ông Khu là tiến sỹ tâm lý học, trong khi đó ông Sơn, là giáo sư, tiến sỹ triết học; thứ hai, ông Khu dịch chủ yếu từ bản tiếng Nga (mặc dù có tham khảo bản tiếng Anh), trong khi đó, ông sơn dịch nguyên bản tiếng Đức!
Thịnh - 23:17 17/04/2014
Triết học Hegel quá khó hiểu!
Lê Ngọc Thường - 04:37 18/04/2014
Nhưng nếu hiểu được thì thấy rất sâu sắc!
Lê Ngọc Thường - 04:41 18/04/2014
Trích §96 Ông Phạm Chiến Khu dịch: Hơn nữa, nói chung, chúng ta cần phải hiểu tồn tại vì mình như là cái đối lập với tồn tại hiện có mà ở trên chúng ta gọi là cái thực tại. Cái thực tại và cái lý tưởng thường được xem xét như là hai quy định đối lập nhau, có cùng tính độc lập như nhau, và theo đó, người ta nói rằng ngoài cái thực tại còn có cái lý tưởng. Nhưng, cái lý tưởng không phải là cái gì đó hiện diện bên ngoài và bên cạnh cái thực tại. Trái lại, khái niệm về cái lý tưởng, rõ ràng, là ở chỗ nó là chân lý của cái thực tại, có nghĩa rằng cái thực tại được thiết định như nó vốn có tại thân, tự nó tỏ ra là cái lý tưởng. Bởi vậy, không nên nghĩ rằng chúng ta mang đến cho cái lý tưởng niềm danh dự được phụ thêm, bằng cách công nhận rằng mọi sự chưa kết thúc ở cái thực tại và bên ngoài cái thực tại còn sinh tồn cái lý tưởng. Cái lý tưởng đứng bên cạnh cái thực tại hay thậm chí, đứng bên trên cái thực tại như thế, trên thực tế, ắt chỉ là một cái tên gọi trống rỗng. Cái lý tưởng có nội dung và là cái lý tưởng của một cái gì đó, nhưng cái gì đó này không phải là cái “này” hay “kia” trần trụi, không xác định mà là tồn tại hiện có xác định với tư cách là cái thực tại, cái, dưới góc độ “vì mình” của nó, là không có chân lý.
Lê Ngọc Thường - 04:44 18/04/2014
Ông Bùi Văn Nam Sơn dịch: Thêm nữa, tồn tại-cho-mình, nói chung, còn được hiểu như là tính ý thể giống như trong trường hợp ngược lại, tồn tại-hiện có trước đây được biểu thị như là [tính] thực tại. [Tính] thực tại và tính ý thể thường được xem như một cặp quy định đối lập với nhau với cùng một sự độc lập-tự chủ như nhau, vì thế, người ta nói rằng ngoài thực tại ra, “cũng” còn có một tính ý thể. Thế nhưng, tính ý thể không phải là cái gì được mang lại từ bên ngoài và ở bên cạnh thực tại. Trái lại, khái niệm về tính ý thể rõ ràng là ở chỗ: nó là chân lý [hay sự thật] của thực tại; hay nói cách khác, thực tại, được thiết định như cái gì là tự- mình, tự chứng tỏ bản thân nó là tính ý thể. Như thế, ta không được phép tin rằng đã dành cho tính ý thể vinh dự xứng đáng cho nó, nếu ta chỉ đơn giản thừa nhận rằng thực tại không phải là tất cả và ta cũng còn thừa nhận một tính ý thể ở bên ngoài nó. Một tính ý thể thuộc loại như thế, được đặt bên ngoài hay thậm chí được đặt bên trên thực tại, trong thực tế, ắt cũng chỉ là một danh hiệu suông, trống rỗng. Tính ý thể chỉ có một nội dung vì nó là tính ý thể của cái-gì-đó: nhưng “cái-gì-đó” này không chỉ đơn thuần là một cái này hay cái kia bất định mà là tồn tại-hiện có được quy định nhất định như là “thực tại”, và, nếu thực tại này bị giữ chặt nơi chính nó [một cách cô lập] sẽ không có chân lý.
Lê Ngọc Thường - 05:10 18/04/2014
Trích §213 (ông Sơn dịch): Ý niệm là cái Đúng thật tự-mình-và-cho-mình, là sự thống nhất tuyệt đối giữa Khái niệm và tính khách quan. Nội dung có tính ý thể (ideel) của nó không gì khác hơn là Khái niệm ở trong những sự quy định của nó; nội dung thực tồn (reell) của nó chỉ là sự trình bày mà Khái niệm mang lại cho chính mình trong hình thức của tồn tại-hiện có (Dasein) ngoại tại, và, vì lẽ hình thái này được bao hàm trong tính ý thể của Khái niệm hay trong sức mạnh của nó, nên Khái niệm tự bảo tồn chính mình ở trong hình thái ấy. Trích §213 (ông Khu dịch): Ý niệm là chân lý tại thân và vì mình, là sự thống nhất tuyệt đối của khái niệm với tính khách quan. Nội dung lý tưởng của ý niệm không phải là cái gì khác ngoài khái niệm trong các quy định của nó. Nội dung thực tại của ý niệm chỉ là sự bộc lộ của khái niệm dưới hình thức tồn tại hiện có bên ngoài. Khớp cái hình thức này với cái lý tưởng của mình, ý niệm nắm giữ nó trong quyền lực của mình và cũng chính bằng cách đó, bảo tồn mình trong nó.
Lê Ngọc Thường - 19:30 18/04/2014
Trích §98 Ông Sơn dich: Thoạt đầu, ta có tồn tại, và chân lý hay sự thật của nó chuyển sang sự “trở thành”; cái này lại tạo nên sự chuyển sang tồn tại-đang có mà sự thật của nó đã được ta nhìn thấy là sự biến đổi. Nhưng, bản thân sự biến đổi tự cho thấy kết quả của nó là tồn tại-cho-mình, thoát ly khỏi mối quan hệ với cái khác và sự chuyển sang cái khác. Và cuối cùng, tồn tại-cho-mình (trong hai phương diện của tiến trình của nó là “đẩy” và “hút”) đã tự chứng tỏ là sự thủ tiêu hay vượt bỏ chính bản thân mình, và, do đó, của toàn bộ Chất, trong tính toàn thể của những mômen của nó. Ông Khu dịch: Thoạt đầu, chúng ta có tồn tại, và chân lý của nó là sự sinh thành; sự sinh thành tạo ra bước chuyển hóa sang tồn tại hiện có mà chân lý của nó là sự biến đổi. Trong kết quả của mình, sự biến đổi này tỏ ra không thoát khỏi mối quan hệ với cái khác và sự chuyển hóa thành tồn tại vì mình, và, cuối cùng, tồn tại vì mình này, trong cả hai phương diện trong tiến trình của mình, trong sự đẩy và sự hút, thể hiện là sự lột xác [lột bỏ] chính bản thân mình và, do đó, là sự lột xác [lột bỏ] của chất nói chung trong chỉnh thể các phương diện của nó.
Lê Ngọc Thường - 11:58 19/04/2014
Trích §160 Ông Sơn dịch: Là sức mạnh bản thể tồn tại-cho-mình, Khái niệm là cái gì tự do; và, vì lẽ từng mỗi mômen của nó là cái toàn bộ [giống] như bản thân Khái niệm và được thiết định như là sự thống nhất không thể tách rời với nó, nên Khái niệm là [cái] toàn thể; vì thế, trong sự đồng nhất của nó với chính nó, Khái niệm là cái được xác định tự-mình và cho-mình. Ông Khu dịch: Khái niệm là cái tự do như một sức mạnh thực thể tồn tại vì mình và là một chỉnh thể, trong đó, mỗi một trong các phương diện [cũng] là chỉnh thể, thể hiện mình là khái niệm và được thiết định như là sự thống nhất không tách rời với nó; bởi vậy, trong sự đồng nhất với bản thân, khái niệm là cái xác định tại thân và vì mình.
Lê Ngọc Thường - 12:01 19/04/2014
Trichs §163 Ông Sơn dịch: Khái niệm, xét như là Khái niệm, chứa đựng: - mômen của tính phổ biến như là sự ngang bằng tự do với chính mình trong tính quy định (Bestimmheit) của mình; - mômen của tính đặc thù, hay của tính quy định, trong đó cái phổ biến vẫn cứ ngang bằng với chính mình một cách không bị vẩn đục; và - mômen của tính cá biệt, như là sự phản tư-vào trong-mình của những tính quy định: tính phổ biến và tính đặc thù. Sự thống nhất phủ định với mình của tính cá biệt này là cái được xác định tự-mình và cho-mình, và, đồng thời là đồng nhất với mình hay là [cái] phổ biến. Ông Khu dịch: Khái niệm như là khái niệm [nói chung] chứa đựng tại thân: 1) Phương diện cái phổ quát như là sự đồng đẳng tự do với chính bản thân mình trong tính xác định của mình; 2) Phương diện cái đặc thù, tính xác định, trong đó cái phổ quát vẫn nguyên xi không hề vẩn đục là cái đồng đẳng với chính bản thân mình; 3) Phương diện cái đơn nhất, như là sự phản chiếu vào chính mình của cái phổ quát và cái đặc thù, sự thống nhất phủ định với bản thân, sự thống nhất xác định tại thân và vì mình và đồng thời với điều đó là cái đồng nhất với bản thân hay là cái phổ quát.
Trần Hoàng - 18:09 19/04/2014
Đối chiếu các đoạn dịch của hai ông mà bạn Thường đưa ra thì rõ ràng là ông Khu dịch nghe xuôi tai và dễ hiểu hơn. Tôi cũng đã đọc nhiều sách triết học, nhưng, cũng như bạn Hoàng phạm trù: "cái đúng thật", "tính ý thể", "hạn độ", "cái biết", "sự trở thành", "ở trong nhà nơi chính mình"... và nhiều thuật ngữ khác, ông Sơn có lẽ là người đầu tiên đưa ra. Tôi không giỏi về ngoại ngữ, nên không dám chắc ông nào dịch chính xác hơn, mong các nhà triết học cho ý kiến!
Trần Hoàng - 18:43 19/04/2014
Tôi đã ôm đọc nhiều lần quyển sách "Khoa học logic" của Hegel do ông Bùi Văn Nam Sơn dịch, chú giải rất nhiều. Tôi cũng không phải là người dốt về triết học, song thú thật, càng đọc tôi càng chẳng hiểu gì cả, đau đầu vô cùng! Tôi cũng đã đọc hết những phần dịch "Các nguyên lý của triết học pháp quyền" của Hegel do ông Bùi Văn Nam Sơn dịch đăng trên triethoc.edu.vn nhưng nhiều đoạn khó hiểu quá!
Kim Loan - 00:45 21/04/2014
Bạn Lê Ngọc Thường nói "ông Khu dịch chủ yếu từ bản tiếng Nga (mặc dù có tham khảo bản tiếng Anh), trong khi đó, ông sơn dịch nguyên bản tiếng Đức!" Nếu nói chính xác là "ông sơn dịch nguyên bản tiếng Đức và tham khảo khá nhiều bản dịch tiếng Anh và Pháp cũng như các bản chú giải về tác phẩm này của Hegel"
Kim Loan - 00:59 21/04/2014
Qua các nhận xét của bạn Lê Ngọc Thường tôi thấy bạn đã lấy yếu tố "QUEN THUỘC và XUÔI TAI" làm tiêu chuẩn để đánh giá bản dịch của ông Khu và ông Sơn, để rồi đi đến kết luận rằng bản dịch của ông Sơn "vô cùng khó hiểu, tối nghĩa và lủng củng" và đề nghị ông Khu dịch lại mấy tác phẩm ông Sơn đã dịch. Thế thì một người hơi bị dốt về triết như tôi dịch các tác phẩm của Hegel thành ... thơ lục bát, Chắc chắn bản dịch của tôi sẽ hay hơn gấp bội lần bản dịch của ông Khu, bởi lẽ bạn sẽ không tìm đâu ra một cái gì QUEN THUỘC và ÊM TAI hơn thơ lục bát. Hầy zà, tìm tiêu chuẩn đánh giá khác đi bạn ơi.
Lê Ngọc Thường - 06:18 21/04/2014
Cảm ơn bạn Kim Loan! Quen thuộc và êm tai đối với những người quan tâm đến triết học, đã từng đọc nhiều tác phẩm triết học và có một trình độ triết học không tồi như tôi! "Cái lý tưởng"; "sinh thành"; "chân lý"; "độ"; "tri thức"; "thực thể"... là những phạm trù triết học rất quen thuộc và xuôi tai với "dân triết học". Mấy chục năm nay, các nhà triết học Việt Nam đã mặc nhiên coi là các thuật ngữ này là chuẩn thì nay ông Bùi Văn Nam Sơn dịch lại là "cái ý thể"; "sự trở thành"; "cái đúng thật"; "độ"; "cái biết"; "bản thể".... Tất nhiên, không phải các thuật ngữ triết học nào mà chúng ta quen thuộc lâu nay đều đứng cả, cần phải có sự phát triển. Bản thân tôi thì tin rằng sự phát triển, sửa đổi nói trên của ông Bùi Văn Nam Sơn là không đúng! Chính vì thế tôi đã trích một số đoạn dịch của hai ông Sơn và Khu để các nhà triết học so sánh, cho ý kiến!
Trương Minh - 06:47 21/04/2014
Tôi nghe những người biết tiếng Nga nói rằng tiếng Nga dùng để diễn giải các vấn đề khoa học thì rất chuẩn! Đọc các đoạn mà hai ông Bùi Văn Nam Sơn và ông Phạm Chiến Khu dịch thì rõ ràng ông Khu dịch dễ hiểu hơn (tôi không dám nói đúng hơn)! Tôi tin những người giỏi triết học, am hiểu triết học của Hegel và giỏi ngoại ngữ sẽ có ý kiến chính xác giữa hai ông, ông nào dịch đúng! Cảm ơn bạn Thường đã nêu ra vấn đề rất đáng quan tâm!
Hoàng Phong Tuấn - 08:43 21/04/2014
Đồng ý với ý kiến của Lê Quang Hồ, chỉ lưu ý thêm một điều, ông Bùi Văn Nam Sơn dịch từ nguyên bản tiếng Đức, nên cần đưa nguyên bản tiếng Đức ra để đối chiếu.
Hột mít - 08:49 21/04/2014
Xin hỏi bạn Thường 3 câu: - Bạn dựa vào cơ sở nào để nói trình độ triết học của bạn là không tồi ? - Ai được coi là các nhà triết học Việt Nam mà bạn lại dùng cụm từ "các nhà triết học Việt Nam"?
Hột mít - 09:03 21/04/2014
- Câu 3 là: Bạn dựa vào đâu để nói rằng: "Bản thân tôi thì tin rằng sự phát triển, sửa đổi nói trên của ông Bùi Văn Nam Sơn là không đúng" ? tôn giáo?
Lê Ngọc Thường - 09:11 21/04/2014
Trích “Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai (1827)” (cũng quá khác nhau giữa hai dịch giả) Ông Bùi Văn Nam Sơn dịch: “Đã từng có một trạng thái hồn nhiên hơn và có vẻ hạnh phúc hơn - chưa phải là đã quá xa xôi - khi triết học cùng nắm tay song hành với các ngành khoa học và với sự đào luyện [văn hóa]. Một giác tính được khai minh đã hài lòng một cách đúng mực khi cân đối được giữa nhu cầu của sự thức nhận và với nền tôn giáo [của nó], và cũng thế, khi hòa giải được học thuyết về pháp quyền tự nhiên của mình với quyền lực nhà nước và chính trị; và môn vật lý học thường nghiệm của nó được mang danh hiệu là “triết học tự nhiên”. Song, nền hòa bình là khá mong manh, và nhất là khi có một sự mâu thuẫn nội tại giữa sự thức nhận ấy với tôn giáo cũng như giữa [học thuyết] pháp quyền tự nhiên với Nhà nước ở trong thực tế”. Ông Phạm Chiến khu dịch: “Cách đây không lâu đã từng có một trạng thái giản đơn và có vẻ hạnh phúc, khi triết học tay trong tay với các ngành khoa học và với nền giáo dục, khi sự khai sáng trí tính có mực thước, xum họp cùng một lúc với nhu cầu triết lý độc lập và với tôn giáo, và cũng giống như thế, khi quyền tự nhiên chung sống hòa bình với nhà nước và chính trị, còn môn vật lý học thực nghiệm mang tên là triết học tự nhiên. Song, sự thống nhất này quá hời hợt, trên thực tế, triết học độc lập ngự tại trong sự mâu thuẫn bên trong với tôn giáo, còn quyền tự nhiên thì mâu thuẫn với nhà nước”.
Lê Ngọc Thường - 10:31 21/04/2014
Xin trả lời mấy câu hỏi của bạn Hột Mít: 1) Tại sao tôi cho rằng sự hiểu biết triết học của tôi không tồi? Có nhiều căn cứ, nhưng một trong những căn cứ đó là khi tôi đọc các bản dịch về triết học, nếu thấy quá khó hiểu, tôi không chỉ nghi ngờ vào trình độ của mình mà còn nghi ngờ vào tính chính xác của bản dịch! Tôi đi tìm những bản tiếng Anh (tôi không giỏi tiếng Anh, sử dụng nhiều loại từ điển cũng tạm hiểu được) hoặc gặp những người am hiểu để nhờ họ giải thích! Khi đọc các tài liệu triết học khác cũng thế, tôi không dấu dốt, cứ nêu vấn đề mình hiểu ra để tranh luận hoặc xin người khác giải đáp, nhờ thế, tôi đã có một trình độ triết học chưa cao, nhưng không tồi! Các nhà triết học Việt Nam ở đây, trước hết tôi muốn nói đến những dịch giả các tác phẩm triết học kinh điển, những người viết giáo trình triết học cho các bậc học, họ sử dụng những thuật ngữ mà tôi cho là quen thuộc nói trên ("cái lý tưởng"; "tri thức"; "chân lý"... chứ không phải "tính ý thể"; "cái biết"; "cái đúng thật"... như ông Bùi Văn Nam Sơn sử dụng. Tôi tin ông Bùi Văn Nam Sơn sử dụng nhiều thuật ngữ triết học không đúng, ít nhất là vì hai lý do: 1) Tôi tin vào sự uyên bác của các thế hệ dịch giả kinh điển triết học; Tôi tin vào trình độ triết học của các nhà triết học Việt Nam, những người đã sử dụng các thuật ngữ trên khi viết các giáo trình mà tôi được học! Chúc bạn Hột Mít hạnh phúc, dồi dào sức khỏe, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống! Cảm ơn các câu hỏi của bạn!
Kim Loan - 11:04 21/04/2014
Bạn Lê Ngọc Thường trả lời bạn Hột Mít hơi ... buồn cười. Bạn khẳng định bạn KHÔNG TỒI TRIẾT HỌC nhưng lại KHÔNG GIỎI TIẾNG ANH (ngoài tiếng Anh ra bạn có giỏi một ngoại ngữ nào khác không?). Với bất kỳ ai có thể đọc được triết học bằng tiếng Anh đều hiểu rằng đã lơ mơ ngoại ngữ thì không thể đọc sách triết học viết bằng tiếng nước ngoài được, dù anh có sử dụng bao nhiêu cuốn từ điển đi nữa. Bạn "TIN ông Bùi Văn Nam Sơn sử dụng nhiều thuật ngữ triết học không đúng" thì đó cũng chỉ là bạn TIN thôi, chứ đâu phải bạn BIẾT ông BVNS dùng đúng hay sai. TIN thì ai cũng có quyền TIN, từ bậc học giả đến người thất học cũng đều có thể TIN mà. BIẾT thì lại là chuyện khác. Biết thì bàn, không biết thì khỏi bàn. Hỏi bạn Lê Ngọc Thường một chút, liên quan đến ý kiến của tôi. Bạn bảo: vì là "dân triết học" bạn "Quen thuộc và êm tai" với những thuật ngữ đã nghe hay đọc, do đó các thuật ngữ của ông Sơn là vớ vẩn. Thế thì, bạn xử lý sao với MỘT ĐỐNG THUẬT NGỮ DO PHẠM TIÊN SINH CHẾ RA, CHƯA TỪNG ĐƯỢC AI SỬ DỤNG, trong khi đó ít ra các thuật ngữ của ông Sơn không ít thì nhiều cũng đã từng được sử dụng? Căn cứ vào lập luận của bạn thì có thể áp dụng kết luận của bạn đối với ông Sơn cho ông Khu được không? Thân mến.
Phạm Thịnh - 15:05 21/04/2014
Những ví dụ mà bạn Thường nêu ra cho thấy có sự quá khác biệt về nội dung dịch giữa hai ông Bùi Văn Nam Sơn và ông Phạm Chiến Khu! Đề nghị bạn nào giỏi ngoại ngữ, triết học và biết tiếng Đức tìm nguyên bản tiếng Đức và cho biết qua những ví dụ bạn Thường nêu trên, ai dịch đúng, trước hết là về các thuật ngữ: 1) "Tính ý thể" (ông Sơn); "cái lý tưởng" (ông Khu); 2) "Cái phổ biến" (ông Sơn); "Cái phổ quát" (ông Khu); 3) "Cái cá biệt" (ông Sơn); "cái đơn nhất" (ông Khu); 4) "Cái đúng thật" (ông Sơn); "chân lý" (ông Khu); 5) "Cái biết" (ông Sơn); "tri thức" (ông Khu); 6) "Sự trở thành" (ông Sơn); "sinh thành" (ông Khu); 7) "Sự đào luyện văn hóa" (ông Sơn); "nền giáo dục" (ông Khu); 8) "Giác tính" (ông Sơn); "trí tính" (ông Khu)...! Xin cám ơn!
Phạm Thịnh - 16:23 21/04/2014
Tôi chưa được đọc cuốn sách dịch của ông Khu! Đề nghị bạn Kim Loan cho biết ông Khu chế ra những thuật ngữ gì? Sao không thấy bạn Thường nêu ra nhỉ? Xin cám ơn!
Lê Quang Hồ - 17:28 21/04/2014
Vấn đề tranh luận các thuật ngữ là một chuyện, bộ từ điển Hegel sắp xuất bản sẽ trả lời cho chúng ta thấy vì sao thầy Bùi Văn Nam Sơn dịch như vậy. Nhưng còn vấn đề là văn phong hai dịch giả khác nhau không có nghĩa là một người đúng, một người sai. Bản của thầy Bùi Văn Nam Sơn, có chú giải, một điều mà bản của tiến sĩ Phạm Chiến Khu không có. Còn nữa, bản thân Hegel viết rất tăm tối, không phải là người viết dễ hiểu, việc đòi bản dịch dễ hiểu, văn xuôi thì, viết lại Hegel cho rồi.
Vũ Ngọc Thường - 18:11 21/04/2014
Trước hết, chúng ta cần cám ơn triethoc.edu.vn đã mở ra mục ý kiến bạn đọc để chúng ta có thể trao đổi, thảo luận, tranh luận xung quanh các vấn đề triết học. Đây là hình thức rất bổ ích, vì, đúng như người ta thường nói: "tranh luận đẻ ra chân lý"! Đã là nhà khoa học, kể cả người tự phong mình là nhà khoa học như tôi thì cần phải coi chân lý cao hơn danh dự của bản thân mình! Nếu chúng ta coi chân lý là tối thượng, thì chúng ta phải quý chân lý hơn ông Sơn hay ông Khu! Nếu bằng sự hiểu biết sâu sắc chúng ta chỉ được ra chỗ này ông Sơn sai, chỗ kia ông Khu sai, thì uy tín cá nhân của mỗi ông có thể bị suy xuyển đi một chút ít! Nhưng bù vào đó, cái được rất lớn: hàng trăm, hàng nghìn độc giả của hai ông sẽ "vỡ vạc" được nhiều điều! Một lần nữa cám ơn triethoc.edu.vn đã mở ra mục này và rất mong các nhà triết học, những người có quan tâm đến triết học tham gia cho ý kiến sôi nổi với tất cả các bài viết đăng trên website này!
Lê Ngọc Thường - 18:58 21/04/2014
Tôi nhớ không rõ lắm, nhưng hình như nhà Văn Phạm Thị Hoài đã có lần viết bài (trên website Talawas thì phải) phê phán một dịch giả triết học khi dịch tác phẩn "Mỹ học" của Hegel, đại ý: Dịch giả này đã biến tác phẩm cực kỳ hay này của Hegel thành một thứ "SẤM", rất khó hiểu, tệ hại hơn nữa là: ai muốn hiểu kiểu gì cũng được! Bản dịch của ông Khu cho thấy triết học của Hegel không "tăm tối" như bạn Lê Quang Hồ nghĩ! "Tăm tối" hay không có khi do dịch giả là chính! Ông Khu có biến "Khoa học Logic" của Hegel thành văn xuôi hay không thì tôi không biết vì tôi không biết tiếng Đức, không giỏi tiếng Anh, ngoài tiếng Anh ra thì tôi chẳng biết thêm ngoại ngữ nào khác! Tuy nhiên hai ông Khu và ông Sơn đã dịch thành sách, "bút sa gà chết", những người am hiểu triết học Hegel, giỏi ngoại ngữ hiện nay và sau này đủ trình độ để đưa ra những nhận xét chính xác! Xin lỗi ông Sơn và ông Khu, theo tôi, nếu càng có nhiều ý kiến phê phán bản dịch của cả hai ông thì càng tốt, hai ông có thể chỉnh lý, tái bản và chúng ta sẽ có những bản dịch tốt!
Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng - 23:10 21/04/2014
Mạn đàm cùng các bậc thức giả! Kính thưa quí vị! Chuyện các dịch giả cùng dịch một tác phẩm không phải là hiếm ở một xứ so ra còn thiếu nhiều sách để đọc như chúng ta. Không biết quí vị đang tranh luận với mục đích nâng tầm dịch thuật nước nhà lên một bước hay đang chia phe cánh "chính trị" để hạ thấp "thần tượng" của đối phương. Tôi đọc tất cả các bài của quí vị tôi cảm nhận được cái mùi khó chịu ấy. Tôi không biết sẽ "nối tiếp" như thế nào, bởi phải trái đúng sai vẫn còn dang dở, dám mong chắp nhặt mấy lời ngõ hầu góp chuyện thêm vui. Thứ nhất, muốn dịch tác phẩm kinh điển đòi hỏi phải có nội công thâm hậu. Kiến văn của hai ông như thế nào? Đã tôn trọng nguyên tác hay chưa? Tinh thông ngon ngữ NGUỒN hay chưa? Sau đó, dịch giả có thật am tường tiếng Việt (ngôn ngữ ĐÍCH) hay chưa? Các phạm trù đề xuất chuyển qua tiếng Việt đều có gốc Hán-Việt. Vậy phải hiểu ngọn ngành mới thông tỏ đúng sai được? Thứ hai, Theo như cách nói của bạn Lê Ngọc Thường thì có lẽ bạn đã dựa vào các bộ Mac - Anghen, Lenin...toàn tập để bảo rằng thế hệ các nhà triết học đã hoàn thiện dần việc chuyển ngữ các thuật ngữ quan trọng nên "quen thuộc và quen tai". Như thế có phải không ạ? Cái này cần cân nhắc bạn nhé. Theo kẻ ngu hèn này thì các vị tham gia biên soạn, dịch thuật đều được đào tạo ở Liên Xô (trong đó có GS Đặng Xuân Kỳ là con trai của cố Tổng bí thư Trường Chinh - Sóng Hồng - Đặng Xuân Khu) và tất nhiên các toàn tập ấy dịch từ phiên bản tiếng Nga. Sau này có thêm mấy vị học ở Đức nhưng vẫn sử dụng tiếng Nga là chính (ví dụ: GS Nguyên Duy Quý...), cụ thể các vị trích tài liệu tham khảo sau các công trình riêng lấy tiếng Nga chiếm gần hết. Tôi không tin các vị ấy là những nhà triết học thứ thiệt. Nếu có thể tin với tất cả niềm kính trọng nhân cách lần học thức thì chỉ có thể là GS Trần Đức Thảo mà thôi. Vì ông đọc Hegel bằng nguyên bản tiếng Đức, thông thạo tiếng Nga và cao thủ thượng thừa về tiếng Pháp. Khi yêu bạn yêu người con gái trong hình như một ảnh tượng hay bạn yêu người con gái thật đang ở bên cạnh, dù hơi khập khiễng, song so sánh ấy gợi những cái nhìn tham chiếu trong nguyên tắc dịch thuật là đi từ bản GỐC. Vì sao? Có những chữ thật sự vô phương dịch khi 1 - 1 vậy sẽ khó khăn hơn nhiêu khi khúc xạ qua một lần "văn hóa - ngôn ngữ nữa". Ban tin không? Tôi dám cá cược nếu bạn tìm vị nào hay chính bạn cũng được dịch trọn vẹn hay ho tác phẩm CÔ TÔ của nhà văn Nguyên Tuân ra bất cứ ngôn ngữ nào mà không làm mất đi sự lung linh của tiếng Việt thì tôi chịu bất cứ hình phạt nào của bạn. Văn vẻ hào hoa đã khó, Hegel tăm tối còn khó hơn gấp bội, chưa ai dịch, giờ có người dịch, lại hai người dịch...công luận khen chê là phải, song chưa thật công bình... Thứ 3, Có nhiều vị quá tự tin vào tri thức của mình, xin chớ vội, đừng "trăm hay không bằng tay quen", "đừng phán xét khi chính lòng ta trong đêm tối úp mặt bùi ngùi vì những ngôn từ vụng dại, lắm lời". Mọi sự khác biệt cũng là điều dễ hiểu, chấp nhận cái khác âu cũng là mang cái bản lĩnh làm người đi vào lòng "hậu hiện đại". Nhưng phải đi tìm cái đúng, dù có thể nó vùi dập ai đó ít nhiều Thứ 4, Vậy phải làm gì bây giờ đây khi mọi tranh biện chỉ đi từ văn bản ĐÍCH để suy luận. Chúng ta đang làm công việc của kẻ nửa vời. Đáng buồn và đáng tiếc thay!
Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng - 23:22 21/04/2014
Kẻ ngu hèn này tự lượng sức mình chưa đủ chẳng dám lên mặt phận bua, làm trọng tài hòa giải, chỉ mong đứng gác cầm đèn mài mực nâng bút cho các bậc thức giả cho lời châu ngọc. Tôi không dám nhận mình biết nhiều, học rộng cũng ráng đọc các cụ cho lòng thêm tươi mới. Các cụ thiên tài còn ta bình thường dân dã, chỉ trách mình với người quãng cách quá xá chẳng dám mong sánh bước huống chi đứng trên vai những người khổng lồ phóng đôi mắt về tầm xa. Nhưng vẫn cố, bởi tin yêu sẽ thắm những mùa hoa mới. Cứ kiên tâm nắng sẽ ửng hồng, em lại đến và lòng tôi sáng lửa. Chúc quí vị sức khỏe! Kẻ ngu hẹn kính bút./.
Lê Ngọc Thường - 06:22 22/04/2014
§233 Bản tiếng Anh trên mạng của Wallace ở trang web www.marxists.org: "The subjective idea as original and objective determinateness, and as a simple uniform content, is the Good. Its impulse towards self-realisation is in its behaviour the reverse of the idea of truth, and rather directed towards moulding the world it finds before it into a shape conformable to its purposed End. This Volition has, on the one hand, the certitude of the nothingness of the presupposed object; but, on the other, as finite, it at the same time presupposes the purposed End of the Good to be a mere subjective idea, and the object to be independent". Ông Sơn dịch: "Là cái gì được quy định nhất định tự-mình-và-cho-mình và như là một nội dung đơn giản, ngang bằng với chính mình, Ý niệm chủ quan là cái Tốt. Động lực hiện thực hóa chính mình có sự quan hệ trái ngược lại với quan hệ của Ý niệm về cái Đúng thật [cái Chân] và mục đích của nó là quy định thế giới đang có sẵn đấy dựa theo mục đích của chính mình. Một mặt, ý muốn này có sự xác tín rằng khách thể được tiền-giả định là trống rỗng và vô hiệu, nhưng, đồng thời ở mặt khác, với tư cách là cái hữu hạn, nó nắm lấy mục đích của cái Tốt như là một Ý niệm chủ quan đơn thuần và tiền-giả định sự độc lập-tự chủ của khách thể". Ông Khu dịch: "Với tư cách là nội dung giản đơn, xác định tại thân và vì mình và đồng đẳng với chính bản thân mình, ý niệm chủ quan là phúc lợi (das Gute). Nỗ lực của nó nhằm thực thi bản thân mình trong sự đối lập với ý niệm chân lý, đặt ra cho nó nhiệm vụ định đoạt thế giới cho sẵn theo mục đích của mình. Một mặt, ý chí này tin tưởng vào tính trống rỗng [không là gì] của đối tượng cho sẵn, mặt khác - với tư cách là cái hữu hạn nó đặt ra cho mình các tiền đề, theo đó mục đích của phúc lợi là ý niệm chủ quan đơn thuần và khách thể là có tính độc lập". Thuật ngữ "independent" nên dịch là "độc lập" (như ông Khu) hay là "độc lập - tự chủ" (như ông Sơn, hầu như ông Sơn luôn dịch là độc lập - tự chủ"); thuật ngữ "volition" nên dịch là ý chí (như ông Khu) hay là "ý muốn" (như ông Sơn); thuật ngữ "good" nên dịch là "tốt" hay "phúc lợi"...!
Lê Ngọc Thường - 07:08 22/04/2014
Lê Ngọc Thường xin kính chào Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng cùng với các ý kiến rất sâu sắc của ông! Qua lời giới thiệu của NXB Chính trị quốc gia, ông Khu chỉ là tiến sĩ, nhưng không phải tiến sĩ triết học mà là tiến sỹ tâm lý học! Ông Khu không biết tiếng Đức, dịch qua văn bản tiếng Nga (có tham khảo bản tiếng Anh) của Wallace ở trang web www.marxists.org. Trong khi đó, ông Bùi Văn Nam Sơn, như chúng ta biết, có ưu thế hơn hẳn: là giáo sư tiến sĩ chuyên về triết học; dịch từ nguyên bản tiếng Đức; ngoài tiếng Đức ra, nhiều người cho biết, ông còn thành thạo nhiều thứ tiếng khác! Nếu căn cứ vào những tiêu chí này, thì ông Sơn phải dịch đúng và hay hơn ông Khu! Nhưng ông Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng đã nói rất đúng là muốn dịch tốt, đòi hỏi phải có "nội công thâm hậu"! "Nội công thâm hậu" là một khái niệm rất chuẩn, nó không hoàn toàn đồng nhất với các tiêu chí nêu trên! Tôi cũng như ông, rất kính trọng bậc tiền bối triết học Việt Nam như ông Trần Đức Thảo. Theo tôi được biết thì ông Trần Đức Thảo cũng là một trong những người đóng góp nhiều cho việc dịch thuật các công trình triết học kinh điển, kể cả tập 29 (Bút ký triết học) của Lênin! Tôi hoàn toàn tán thành ý muốn của ông là làm thế nào qua tranh luận chúng ta phải góp phần nâng tầm công việc dịch thuật sách triết học của chúng ta! Xin chân thành cảm ơn!
Phạm Thịnh - 11:08 22/04/2014
Nếu đoạn tiếng Anh trên đây là đúng thì phải chăng câu đầu: "The subjective idea as original and objective determinateness, and as a simple uniform content, is the Good" cả hai ông đều dịch sai (ông Sơn dịch: "Là cái gì được quy định nhất định tự-mình-và-cho-mình và như là một nội dung đơn giản, ngang bằng với chính mình, Ý niệm chủ quan là cái Tốt"; ông Khu dịch: "Với tư cách là nội dung giản đơn, xác định tại thân và vì mình và đồng đẳng với chính bản thân mình, ý niệm chủ quan là phúc lợi (das Gute)"? Bạn nào giỏi tiếng Anh xin dịch thật chuẩn câu tiếng Anh này xem có đúng vậy không? Xin cám ơn!
Hồng Phúc - 11:25 22/04/2014
Các thắc mắc không biết đúng/sai của bạn Lê Ngọc Thường về thuật ngữ trong bản dịch của ông Khu và ông Sơn - như chữ Good [t.Đức: das Gute] là "Tốt" hay "Phúc lợi" , và nhiều thuật ngữ khác, chẳng hạn - thì bạn nên tự giải quyết lấy thôi, ít nhất cũng bằng cách tham khảo các cuốn sách từ điển chuyên môn để hiểu cho rõ nội hàm của chúng. Riêng về các thuật ngữ của Hegel vốn cực kỳ phức tạp, để hiểu chúng bạn không thể không đọc những cuốn sách công cụ (từ điển về hệ thống thuật ngữ của Hegel, sách chú giải các tác phẩm Hegel), nếu không đọc được nhiều thì tối thiểu bạn phải đọc quyển "A Hegel Dictionary" của Michael Inwood (Nxb. Wiley-Blackwell, 1992) bạn sẽ hiểu được lý do vì sao cụ Bùi Văn Nam Sơn phải lao tâm khổ tứ trong việc tìm chữ và đôi chỗ buộc phải đề xuất những từ ngữ trong tiếng Việt, nhưng không phải là những từ ngữ xa lạ, mà là những từ ngữ quen thuộc mà người Việt hay dùng, và đặc biệt ông không chế ra chữ nào xa lạ cả. Còn ý tưởng đề xuất ai đó đứng ra đối chiếu bản tiếng Đức xem cụ Bùi Văn Nam Sơn dịch đúng hay sai, tôi xin thưa với bạn rằng đó là ý tưởng rất không tưởng trong tình hình học thuật ở Việt Nam hiện nay. Tìm đâu ra một nhân vật thứ hai ngoài cụ có thể tinh thông tiếng Đức, am tường triết học Đức và tinh tế trong ngôn ngữ tiếng Việt như cụ? Tóm lại, đây là một ý tưởng rất không tưởng. Đọc với mục đích để chém gió cho vui cửa vui nhà thì chúng ta có thể đọc bản dịch nào cũng được, nhưng đọc với mục đích nghiên cứu cho cặn kẽ, phân tích cho có ngọn có nguồn các ý tưởng qua các khái niệm trong văn bản, thì bản dịch của cụ Bùi Văn Nam Sơn là bản dịch duy nhất hiện nay đáp ứng được mục đích này. Thân mến.
Lê Việt - 15:21 22/04/2014
Từ đầu đến giờ chỉ theo dõi mà không dám có ý kiến! Nhưng trả lời của bạn Hồng Phúc làm tôi buồn quá! Lẽ nào giới triết học của Việt Nam ta kém cỏi thế sao? Không tìm được ai có thể trả lời được giữa hai dịch giả này, ai là người dịch đúng, ít nhất là về các phạm trù triết học, những đoạn trích dịch của hai ông Bùi Văn Nam Sơn và ông Phạm Chiến Khu mà bạn Thường đã nêu ra? Lẽ nào chúng ta không có "hậu sinh khả úy" không có ai về triết học và về tiếng Đức giỏi hơn ông Bùi Văn Nam Sơn? Phải chăng chỉ duy nhất nguyên bản tiếng Đức mới đáng tin cậy còn các bản dịch bằng tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp thì không đáng tin cậy? Với logic này thì chúng ta cũng có thể khẳng định bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn và của ông Phạm Chiến Khu đều không đáng tin cậy vì chỉ là bản dịch! Tôi tin các "cao thủ" triết học chưa lên tiếng, họ sẽ nghiên cứu rất kỹ hai bản dịch này trước khi phát biểu! Lúc đầu tôi tưởng ông Khu điên vì ông chỉ là tiến sỹ tâm lý học, không biết tiếng Đức, thế mà dám xông vào dịch lại cuốn "Khoa học logic" của Hegel, cuốn sách vô cùng khó hiểu, đã được ông Bùi Văn Nam Sơn, một triết gia, dịch giả nổi tiếng dịch cách đây mấy năm! Tuy nhiên, qua một số ví dụ so sánh nội dung dịch giữa hai ông do bạn Lê Ngọc Thường nêu ra, tôi nghĩ tôi cần phải thay đổi suy nghĩ của mình. Tất cả các ví dụ nêu trên, đối với tôi, rõ ràng ông Khu dịch khúc triết và dễ hiểu hơn, hãy thử đọc lại đoạn Trích §96 nói về phạm trù "cái lý tưởng và cái thực tại" (ông Khu) và "tính ý thể và tính thực tại" (ông Sơn) mà bạn Thường nêu ở trên đi, đoạn dịch của ông Sơn đọc khó hiểu quá! Phạm trù "chân lý", tiếng Anh là "truth", là một trong những phạm trù rất già cỗi và quen thuộc trong triết học, không ai nghi ngờ vào tính chính xác của nó, thế mà ông Bùi Văn Nam Sơn sửa lại thành "cái đúng thật" (có lúc ông cũng phân vân nên ngoặc thêm là chân, hoặc chân lý); phạm trù "tri thức", tiếng Anh "knowledge" thì ông lại sửa thành "cái biết".... Trong ví dụ bạn Thường có nêu thêm đoạn tiếng Anh, tôi khẳng định "indenpendent" chỉ có thể dịch là "độc lập" chứ không thể là "độc lập - tự chủ"; "volition" chỉ có thể dịch là "ý chí" chứ không thể dịch là ý muốn! Cách trả lời của bạn Hồng Phúc là thiếu tính cầu thị, bạn khuyên bạn Lê Ngọc Thường tự mà đi tìm câu trả lời, trong khi chúng ta có thể giúp bạn Thường trả lời các cấu hỏi, vấn đề mà bạn Thường nêu ra! Xin bạn Hồng Phúc thứ lỗi!
Hồng Phúc - 16:04 22/04/2014
Ý kiến của bạn Lê Việt, tôi có mấy ý: 1) Tụi Đức đọc sách Hegel bằng tiếng Đức còn khóc lên khóc xuống, huống hồ chúng ta. Nhưng nếu có ai đó đề xướng ai đó viết nôm na lại sách Hegel cho dễ hiểu thì còn lâu tụi nó chịu; mà nếu có chịu thì cũng chỉ để dành cho trẻ con đọc. 2) Không đủ sức hiểu tác phẩm triết học bằng ngoại ngữ [Anh, Pháp, Nga hay Đức] thì không nên khẳng định đúng sai của một bản dịch. Làm như thế nghĩa là ta đã vượt khỏi một cách không chính đáng giới hạn của chính mình. Nói thêm: tôi không dám khẳng định bản dịch của ông Khu là sai vì tôi không biết tiếng Nga. Nếu có cái sai trong bản dịch của ông Khu thì cũng khó có cơ sở để nói ông Khu sai, biết đâu cái sai đó là từ bản dịch tiếng Nga thì sao? Còn nếu cứ đòi so sánh hai bản dịch thì hãy so sánh cho công bằng: hãy so sánh các bản dịch trên cùng 1 cấp, nghĩa là hãy so sánh bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn với bản dịch ... tiếng Nga, vì bản dịch của ông Khu thì thuộc dạng ... "tam sao" rồi. 3) Tôi khuyên bạn Lê Ngọc Thường tự tìm câu trả lời qua những tài liệu tôi gợi ý. Điều này xuất phát từ 2 yếu tố: 1) Bạn Lê Ngọc Thường tự khẳng định là có một trình độ triết học không tồi; 2) tài liệu tôi gợi ý bạn ấy đọc là những tài liệu được đánh giá cao trong giới triết học nói tiếng Anh. Như thế thì 1) Tôi tôn trọng năng lực của bạn ấy; 2) Việc bạn Thường tự tìm câu trả lời này sẽ chất lượng hơn nhiều so với cái đầu bé tí tẹo của tôi và của rất nhiều người khác. Sao bạn bảo tôi "thiếu tính cầu thị"? 4) Một góp ý nhỏ, bạn hãy cố gắng đọc cho chính xác những gì tôi nói để tránh việc vẽ thêm chân cho rắn. Thân mến
Phan Thiên Vân - 18:41 22/04/2014
Sao trong khi so sánh bản dịch mà mọi người cứ lấy tiếng Anh ra để phân tích thế này? Lê Việt buồn hơi trễ rồi, cười đi bạn, cười ra nước mắt cũng được. Lê Việt dùng chữ "tính cầu thị" đối với Hồng Phúc trong trường hợp này không đúng rồi, ngay cả khi bạn nghĩ rằng bạn Hồng Phúc từ chối câu trả lời của Lê Ngọc Thường đi chăng nữa. Còn đằng này người ta đã trả lời cho bạn kia rõ nguồn cơn rồi mà. So sánh bản dịch của ông Sơn với bản dịch tiếng Nga? cái này nghe hơi ngộ à nha. Thôi, thay vì cứ ngồi đó mà phê rồi cũng không biết mình căn cứ vào cái gì để phê thì sao không gặp ông Sơn để ổng giải thích cho nghe. Nghe nói ông Sơn đang sống ở Sài Gòn đó.
Lê Việt - 19:47 22/04/2014
Bạn Hồng Phúc yêu cầu: hãy so sánh các bản dịch trên cùng 1 cấp mới công bằng, còn bản dịch của ông Khu thì thuộc dạng ... "tam sao" rồi (dịch qua bản tiếng Nga). Bản dịch bằng tiếng Anh của của Wallace ở trang web www.marxists.org (dịch trực tiếp từ bản gốc tiếng Đức) và bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn là cùng một cấp, vậy thì sẽ là công bằng nếu chúng ta so sánh giữa hai bản dịch này. Chúng ta lấy một số ví dụ về sự khác nhau về thuật ngữ giữa hai bản dịch này (bạn Thường đã nêu ở trên): 1) Cùng một thuật ngữ tiếng Đức, bản dịch của Wallace dịch là "truth" (chân lý) - bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn dịch là “cái đúng thật”. 2) Cùng một thuật ngữ tiếng Đức, bản dịch của Wallace dịch là "knowledge" (tri thức) - bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn dịch là “cái biết”. 3) Cùng một thuật ngữ tiếng Đức, bản dịch của Wallace dịch là "indenpendent" (độc lập) - bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn dịch là “độc lập - tự chủ”. 4) Cùng một thuật ngữ tiếng Đức, bản dịch của Wallace dịch là "volition" (ý chí) - bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn dịch là “ý muốn”. Sự khác nhau kiểu này chắc chắn là rất nhiều! Bạn Phan Thiên Vân nói “Sao trong khi so sánh bản dịch mà mọi người cứ lấy tiếng Anh ra để phân tích thế này?” là trái với yêu cầu của bạn Hồng Phúc trên đây đấy! Chào thân ái!
Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng - 00:06 23/04/2014
Kính thưa các vị! Các vị tranh luận ngày càng gay cấn. Sự kịch tính đã đẩy dần đến cao trào với những lời lẽ phân bua sắc cạnh nhưng kết cuộc vẫn giữ nguyên nếp cũ, căn nhà xưa vẫn dễ ở, thoải thoái hơn so với căn nhà mới xây phải không nào. Ông Khu dịch với những ấn tượng rằng tạo được sự quen thuộc, gần gũi, dễ hiểu, ngược lại ông Sơn lại có những chữ lạ, khó hiểu dẫn đến khó đọc. Lí do ở đây là gì? Xin mạn phép trả lời do chúng ta những người có học đang đánh mất mình trong sự am tường tiếng Việt đấy. Những tranh luận vừa rồi vừa không dẫn ta đến đâu vừa làm lộ ra một chuyện là chúng ta rất kém cõi từ Hán - Việt. Không biết, không hiểu thì làm sao mà thấy dễ nghe, êm tai được. Như mạch logic của mấy vị ở trên thì cái này ông Khu hơn ông Sơn vì kế thừa nguyên xi những "phạm trù" mà các chuyên gia đi trước dày công vun đắp. Ông Sơn dám cho mình là biết mà tung chữ làm khó mấy vị phải không nào? "Tiên trách kỹ hậu trác nhân". Đừng vội, xin hãy thật thận trọng ở đánh giá kẻo làm tổn hại đến nhau, chẳng đáng tí nào. Các vị bình tâm, trước hết hãy tìm chuyên gia khác (người thứ 3) có thẩm quyền vừa giỏi tiếng Việt, vừa am tường tiếng Hán, vừa tinh thông tiếng Đức thẩm định. Xin tiến cử hai người: 1. GS. Nhà nghiên cứu triết học Trần Văn Toàn. 2. GS. Trần Văn Đoàn của Đại học Quốc gia Đài Loan. Ngoài ra có thể thêm 2 vị nữa là GS Thái Kim Lan và TS. Trịnh Công Long (em nuôi của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn) --> vị này hình như là Giảng viên thỉnh giảng của Đại học Hoa Sen, học triết bài bản và giỏi tiếng Việt. Thật ra cũng còn mấy vị nữa (như GS Hà Văn Tấn... song tuổi cao, bệnh nặng chẳng kham nổi đâu). Còn thú thật mấy vị GS của VN ta thì không ai đủ tầm cả. Xin chứng minh bằng mấy lời: 1. Các vị quá chú tâm đến MARX, LENIN, HO CHI MINH mà bên mất những người khổng lồ khác. 2. Các vị ấy giỏi tiếng Nga thì có chưa tiếng Đức thì không ai dám đảm bảo. (Xin nối điêu thêm, chính ngôn ngữ sở trường tiếng Nga cũng không phải thượng thừa, bởi, theo các nguồn tin tôi thu nhận được, chưa có vị nào dám vô ngực bảo rằng mình giỏi tiếng Nga hơn PGS. Cao Xuân Hạo, người dịch rất xuất sắc các bản dịch văn học Nga ra tiếng Việt, trong khi các vị tiến sĩ nhà ta du học hẳn hoi còn ông không có được diễm phúc như thê). Các vị đừng cười vì những gợi ý vụng dại vừa rồi. Chỉ mong các vị đừng "bạo ngôn" quá đáng, đừng "cực đoan" quá sẽ đánh mất đi những hạt vàng trong cát, cát Triết học vốn đã ít lắm rồi. Mỗi ngôn ngữ có thế mạnh riêng, không phải từ Đức nào chuyển qua tiếng Anh cũng thật chuẩn, chuyển ngữ qua tiếng Việt cũng thế thôi. Sao phải chỉ là chữ nhỉ, đứng từng chữ mới chiều, có khi chữ ấy thật đứng nguyên tác rồi mà đối với độc gải tiếp nhận lại không thể hiểu đúng với tính thần của nguyên bản. Thế có phải là sự tổn thương nghiêm trọng do sự chi ly thấp kém không nhỉ?
Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng - 00:38 23/04/2014
Chúng ta không hiểu tiếng Việt vì thế chúng ta đang làm cho vấn đề trở nên phức tạp. Giá như chúng ta có được cái đầu gây gỗ của Phạm Công Thiện có lẽ nhiều vấn đề sẽ tường tận hơn nhiều. Chỉ tiếc số người học Triết đã ít, tinh hoa lại càng hiếm. Tiếc lắm thay. "Tôi khóc những chân trời không có người bay Lại khóc cho những người bay không có chân trời" Trần Dần (viết năm 1987, xuất bản lần đầu năm 2007) Kính bút!
Nguyễn Thiện - 07:03 23/04/2014
Đúng là "lời vàng, ý ngọc", tôi rất tán thành ý kiến của sĩ phu Mạc Đại Nguyễn Xuân Trọng!
Nguyễn Thiện - 15:14 23/04/2014
Theo ý bạn Lê Ngọc Thường, ông Sơn chế ra nhiều khái niệm, ví dụ như: “tính ý thể” (ideality - cái lý tưởng), “cái đúng thật” (truth - chân lý), “cái biết” (knowledge - tri thức); “độc lập - tự chủ” (independent - độc lập)… không quen thuộc, gây khó hiểu cho người đọc. Qua đọc bản dịch của ông Khu, tôi cũng thấy ông Khu không hề kém cạnh, cũng chế ra một đống khái niệm mới. Ví dụ thuật ngữ “hiện hữu”, “thực tồn” (existence) ông chế thành “sinh tồn”; thuật ngữ “phán đoán” (Judgment) ông chế thành “phán định”; thuật ngữ “phản tư” (reflection) ông chế thành “phản chiếu”; thuật ngữ “suy luận” (syllogism) ông chế thành “suy lý”; thuật ngữ “cái phổ biến” (universality) ông Khu chế thành “cái phổ quát”…. Đáng chú ý là có hai thuật ngữ được “sáng chế” mới hoàn toàn đó là thuật ngữ “speculation” (tiếng Anh) và “aufheben” (tiếng Đức). Thuật ngữ “speculation” từ trước đến nay, các nhà triết học đều dịch là tư biện thì nay ông Khu chế thành “siêu biện”; thuật ngữ “aufheben” từ trước đến nay thường được dịch là “thủ tiêu”, “vượt bỏ”, “lột bỏ” thì ông Khu thay bằng một thuật ngữ mới tinh là “lột xác”, “lột bỏ”. Ví dụ, theo cách dịch của ông Sơn, chất là lượng bị thủ tiêu hoặc bị vượt bỏ thì theo ông Khu, lượng là sự lột xác của chất, chất là sự lột xác của lượng. Từ trước đến nay, chúng ta, từ những luận điểm của Mác, người cao hơn Hegel một cái đầu, đều hiểu tư duy của Hegel là tư duy siêu biện, mang tính chủ quan. Nay ông Khu bằng cách thay từ “tư biện” thành “siêu biện” để bảo vệ Hegel, coi triết học tư biện của Hegel là triết học siêu biện, tức triết học khách quan, khoa học! Bạn Lê Ngọc Thường có hiểu được điều này không?
Lê Ngọc Thường - 21:53 23/04/2014
Tại sao ông Khu dịch thuật ngữ speculative thành "siêu biện", hãy đọc đoạn Hêgel nói về nó dưới đây: Trích §82 Hơn nữa, cần chỉ ra rằng cái siêu biện [speculative], không phải là cái gì khác, ngoài lý tính (và chính là lý tính khẳng định), trong chừng mực nó được tư duy. Trong đời sống thường ngày, thuật ngữ “siêu biện” [speculative] thường được sử dụng theo một nghĩa rất mơ hồ và thứ yếu [trong cái nghĩa “đầu cơ”, “tư biện”], chẳng hạn khi nói về đầu cơ [speculative] buôn bán hay hôn nhân, một mặt, người ta hàm ý về cái gì đó vượt ra khỏi các giới hạn của cái hiện có trong các doanh nghiệp, và mặt khác, người ta hàm ý về cái nội dung hiện thời mới chỉ là cái chủ quan, nhưng nó không được dừng lại là cái [chủ quan] như vậy, mà cần phải trở thành thực tại và chuyển sang lĩnh vực của cái khách quan. Trong cách sử dụng thuật ngữ “siêu biện” [speculative] thông thường này cần chỉ ra chính cái mà chúng ta đã nói ở trên về cách sử dụng thuật ngữ “ý niệm”; gắn với điều này, chúng ta cần bổ sung thêm rằng thông thường, những người tự cho mình là có học vấn cao, khi nói về thuật ngữ siêu biện, lại cũng chỉ nói về nó trong cái nghĩa nhất định, trong cái nghĩa chỉ là cái chủ quan [tư biện]. Sự hiểu biết thuần khiết siêu biện [speculative] về các trạng thái tự nhiên và tinh thần, nói theo những người này, có thể là tuyệt diệu và đúng đắn, nhưng kinh nghiệm không ăn khớp với cách hiểu này, và không được phép áp dụng nó cho hiện thực. Để chống lại điều đó, chúng ta cần nói rằng cái siêu biện [speculative] theo cái nghĩa chân chính của nó, dù ở trong quy định sơ bộ hay chung kết, tuyệt nhiên không phải là một cái gì đó thuần khiết chủ quan, mà, ngược lại, chính là cái chứa đựng trong nó các mặt đối lập mà trí tính không thể đi xa hơn được (do đó, cũng chứa đựng trong nó sự đối lập giữa cái chủ quan và cái khách quan) dưới dạng bị lột xác [lột bỏ] và chính bằng cách đó, nó thể hiện mình như là cái cụ thể, như là một chỉnh thể. Vì lẽ đó, nội dung siêu biện [speculative] không thể giãi bày trong một mệnh đề phiến diện. Chẳng hạn, nếu như chúng ta nói rằng cái tuyệt đối là sự thống nhất của cái chủ quan và cái khách quan thì tuy điều ấy là đúng, song lại phiến diện, trong chừng mực ở đây chỉ nói ra được sự thống nhất và chỉ nhấn mạnh đến nó, trong khi đó, trong thực tế, cái chủ quan và cái khách quan không chỉ là đồng nhất với nhau mà cũng còn khác biệt với nhau nữa.
Lê Ngọc Thường - 21:57 23/04/2014
Đoạn này thì ông Bùi Văn Nam Sơn dịch như sau (có chỗ rất khác với ông Khu) Trích §82 Còn về cái tư biện thì nói chung, nó không gì khác hơn là cái lý tính (chính xác hơn: cái lý tính-khẳng định), trong chừng mực nó được suy tưởng [hay được tư duy]. Trong đời sống thường ngày, thuật ngữ “Spekulation” thường được sử dụng theo một nghĩa rất mơ hồ và thứ yếu, chẳng hạn khi ta nói về “Spekulation” [“quyết định đi tới”] trong hôn nhân hay thương mãi. Người ta hiểu đại khái rằng đó là, một mặt, đi ra khỏi cái [tình trạng] được mang lại một cách trực tiếp, và, mặt khác, không dừng lại ở cái nội dung thoạt đầu và chỉ là một cái chủ quan mà thực hiện nó hay phải chuyển nó thành tính khách quan. Nhận xét của ta trước đây về thuật ngữ “Ý niệm” trong cách sử dụng ngôn ngữ thông thường cũng đúng với trường hợp chữ “tư biện”. Và điều này gắn liền với một nhận xét khác rằng: thường những người tự xếp mình vào loại có trình độ học vấn cao nhất lại hay nói nhất về chữ “tư biện” theo nghĩa là cái gì đơn thuần mang tính chủ quan. Điều họ muốn nói là: một cách hiểu nào đó về những sự việc hay những tình huống tự nhiên hay tinh thần có thể là hoàn toàn đúng và chính xác nếu nó được nắm lấy theo cách đơn thuần “tư biện”, nhưng nó lại không tương ứng với kinh nghiệm và chẳng có gì thuộc loại ấy có thể được chấp nhận trong thực tế cả. Trái ngược lại với cách hiểu ấy, thiết nghĩ cần phải nói rằng cái tư biện, trong ý nghĩa đúng thật của nó, tuyệt nhiên không phải là một cái gì đơn thuần có tính chủ quan – dù tạm thời hay chung quyết –, mà, đúng hơn, chính là cái gì chứa đựng các sự đối lập – mà giác tính đã dừng lại (vì thế, kể cả sự đối lập giữa cái chủ quan và cái khách quan) – như là đã được vượt bỏ ở trong chính mình, và chính vì thế, tự chứng tỏ như là cụ thể và như là tính toàn thể. Vì lý do đó, một nội dung tư biện không thể được phát biểu ra trong một mệnh đề phiến diện. Chẳng hạn, khi ta nói rằng cái Tuyệt đối là sự thống nhất của cái chủ quan và cái khách quan thì tuy điều ấy là đúng, song lại phiến diện, trong chừng mực ở đây chỉ nói ra được sự thống nhất và nhấn mạnh nào đó, trong khi, trong thực tế, cái chủ quan và cái khách quan không chỉ là đồng nhất với nhau mà cũng còn khác biệt [được phân biệt] với nhau nữa.
Lê Ngọc Thường - 22:04 23/04/2014
Trong "Mấy lời nói đầu của người dịch" ông Khu có lý giải tại sao ông dịch "speculative" là "siêu biện" như sau: Nội hàm của các thuật ngữ nói trên đã được Hegel trình bày rất rõ trong chính tác phẩm “Bách khoa thư các khoa học triết học I, Khoa học Logic”. Ví dụ, thuật ngữ “speculation” (tiếng Anh) mà các dịch giả tiền bối dịch là “tư biện”. Theo Hegel, thuật ngữ “speculation” thông thường chỉ được người ta hiểu dưới cái nghĩa [đầu cơ] (đầu cơ hôn nhân, đầu cơ kinh doanh) hoặc theo cái nghĩa của thuật ngữ “tư biện” (cái gì đó hiện chỉ mang tính chủ quan…), chứ không phải theo cái nghĩa triết học đích thực của nó. Căn cứ vào sự giải thích của Hegel về ý nghĩa triết học đích thực của thuật ngữ này, thì thuật ngữ tiếng Việt sát nghĩa nhất, theo tác giả bản dịch này, là “siêu biện” hoặc “siêu biện chứng” (xem §82). Tác giả bản dịch này tạm dịch là “siêu biện”.
Hồng Phúc - 00:08 24/04/2014
- Hai ông là hai người dịch "khác nhau". - Hai ông dịch từ hai nguồn "khác nhau", ông thì dịch trực tiếp từ bản gốc tiếng Đức, ông thì dịch từ bản dịch tiếng Nga (và cũng không biết bản dịch tiếng Nga có dịch từ bản gốc tiếng Đức không hay dịch từ một bản dịch khác nữa?) - Chuyên môn của hai ông cũng "khác nhau": ông dịch trực tiếp là dân triết chuyên nghiệp, học và nghiên cứu triết học tại xứ sở của Hegel khoảng chừng 40 năm, còn ông kia là dân tâm lý học (có lẽ học ở Liên Xô). Bạn L. N. Thường cũng chịu khó tìm trong "Mấy lời nói đầu của người dịch" của ông Khu lý do vì sao chọn chữ này hay chữ kia trong tiếng Việt để dịch, tại sao bạn không chịu khó thêm một xíu để đọc những chú giải, những cách giải thích của ông Sơn về những từ ngữ ông chọn dịch, về nội dung các khái niệm và những lối hiểu khác nhau về chúng đã được ông viết rất cặn kẽ trong rất nhiều trang sách. Nếu tách riêng phần ông Sơn viết và phần ông Sơn dịch thì chúng ta có được 1 bản dịch và 1 công trình hướng dẫn đọc bản dịch ấy với độ dày gần như bằng nhau. Tại sao bạn không chịu khó một chút với bản dịch ông Sơn? Phải chăng bạn đang khai thác ông Sơn một cách có lợi cho mục đích nào đó của mình? Tôi nghĩ mấy trò vớ vẩn này nên kết thúc là vừa. Hãy thứ lỗi nếu bạn phật lòng vì những lời tôi nói.
Trương Minh - 05:49 24/04/2014
Bạn nào ở trên nói bạn Hồng Phúc thiếu cầu thị là đúng đấy! Nếu đọc kỹ những đoạn trích trên đây, có thể nói hầu như từng câu, từng đoạn của hai dịch giả về cơ bản là giống nhau về ý, thậm chí cả văn phong! Chứng tỏ bản tiếng Nga và bản tiếng Đức rất giống nhau và hai ông đều dịch theo kiểu "word by word" chứ không phải amateur như bạn Hồng Phúc nói! Nếu xem xét một cách khách quan, phải thừa nhận những đoạn dịch của ông Khu khúc triết, dễ hiểu hơn và chính xác hơn! Tôi cam đoan với các bạn "Universality", Particularity and Individuality", các phạm trù rất quan trọng của triết học mà ông Khu dịch là "cái phổ quát, cái đặc thù và cái đơn nhất" là chuẩn đấy! Hiện nay giới triết học đã nhận ra điều đó rồi đấy! Nhiều thuật ngữ khác ông Khu sử dụng là chuẩn đấy! Ngay từ ví dụ nêu trên (liên quan đến thuật ngữ speculation, hay speculative) tôi khẳng định ông Bùi Văn Nam Sơn dịch thế này là sai đấy: "Trong đời sống thường ngày, thuật ngữ “Spekulation” thường được sử dụng theo một nghĩa rất mơ hồ và thứ yếu, chẳng hạn khi ta nói về “Spekulation” [“quyết định đi tới”] trong hôn nhân hay thương mãi". Sao lại là [“quyết định đi tới”]? Ông Khu dịch là "đầu cơ" là đúng đấy: "Trong đời sống thường ngày, thuật ngữ “siêu biện” [speculative] thường được sử dụng theo một nghĩa rất mơ hồ và thứ yếu [trong cái nghĩa “đầu cơ”, “tư biện”], chẳng hạn khi nói về đầu cơ [speculative] buôn bán hay hôn nhân". Chúng ta, những người nghiên cứu khoa học, nên bám vào dữ liệu để phân tích, chứ không phải bám vào sự "sùng bái" cá nhân của chúng ta đối với người này, người kia! Từng câu, từng chữ trong bản dịch của hai ông chính là dữ liệu! Cách tốt nhất để chứng minh ông Bùi Văn Nam Sơn dịch đúng, dịch chuẩn, là làm theo cách của bạn Lê Ngọc Thường: đưa ra những đoạn hai ông dịch để so sánh và chỉ ra cái siêu của ông Bùi Văn Nam Sơn và cái sai, sự amateur của ông Khu! Tôi nói thật, tôi đã đọc các chú giải của ông Bùi Văn Nam Sơn, nhưng còn tối nghĩa hơn cả phần dịch! Qua sự tranh luận của các bạn trên đây, tôi thấy rất bổ ích và hiểu thêm nhiều điều quan trọng về thuật ngữ triết học!
Hồng Phúc - 12:06 24/04/2014
Bạn Trương Minh chưa chi hết mới mở đầu câu đã phán xét tôi rồi. Hay quá nhỉ? Tôi xin nói rõ thêm những ý chính tôi nói trong các lời "còm" nói trên để bạn có "dữ liệu" khoa học để phán xét nhé: 1) Với kiệt tác triết học (hay văn chương) mà đi dịch từ một bản dịch khác đã là một "dữ liệu" vớ vẩn rồi, (có khác gì dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh từ bản dịch tiếng Pháp, hay thơ Haiku sang tiếng Việt từ bản tiếng Anh?). [Nói thêm một chút: Hiện nay, anh nào dám xuất bản bản dịch tác phẩm của Heidegger mà lại dịch không phải từ bản gốc tiếng Đức thì coi chừng bị những người phụ trách di sản của Heidegger kiện cho sập tiệm luôn. Vì sao thế? Cái trò dịch thuật kiểu "tam sao" thế này sẽ làm hại đến thanh danh di sản của người ta.] 2) Chúng ta không thể ào ào nói bừa là ông nào đúng ông nào sai. Việc đúng/sai của ông Khu là đúng/sai so với bản dịch tiếng Nga, chứ không so với bản dịch ông Sơn được, vì bản của ông Sơn chẳng liên quan gì đến bản tiếng Nga hết; việc đúng/sai của ông Sơn là đúng/sai so với bản gốc tiếng Đức, chứ không mang ra so với ông Khu được. Tôi không khẳng định ông Khu sai hay đúng, vì tôi không biết tiếng Nga để đối chiếu. Còn ai muốn chê ông Sơn dịch bậy dịch dở thì hãy đối chiếu bản dịch của ông với bản gốc tiếng Đức. [Mà để làm việc này thì ít nhất người đó có một trình độ ngôn ngữ Đức và chuyên môn triết học xấp xỉ hay ngang bằng với ông Sơn, trong khi đó trình độ của chúng ta, tức những người "còm" ở đây cũng chỉ bập bẹ một chút tiếng Anh thôi]. Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc thẩm định một bản dịch. Vì thế, những tranh luận đúng/sai trên đây chỉ là trò vớ vẩn. Chấm dứt đi là vừa.
Trương Minh - 13:48 24/04/2014
Bảo thủ lắm, cố tình lảng tránh sự thật! Thế tôi hỏi ông Hồng Phúc, Spekulation” trong hôn nhân hay thương mãi mà dịch là "quyết định đi tới trong hôn nhân và gia đình" là đúng hay là sai? Hay phải dịch như ông khu là đầu cơ trong hôn nhân và trong kinh doanh?
Hồng Phúc - 14:29 24/04/2014
- Về "đầu cơ trong hôn nhân", Trương Minh hãy tìm xem trên mục tìm kiếm Google có cụm từ này không. - Về để hiểu cách dùng chữ "Spekulation" của Hegel, Trương Minh có thể đọc vài đoạn sau đây: “Fichte, Schelling and Hegel regarded their own thought as speculative, not because it transcended possible experience in Kant's sense, but because the alternatives presented by Kant, transcendent Spekulation and natural cognition, are not exhaustive, but leave room for a third alternative, one that Kant himself pursued: reflection on the nature of experience and on the concepts involved in it. Schelling, like the mystics, for a time regarded speculation as involving a unitary vision or INTUITION, but Hegel sees it as a conceptual process. Hegel does not associate Spekulation with the mirror. He is averse to the idea that GOD (or anything else) is inaccessible to direct cognition and can be discerned only in an image; he contrasts speculative philosophy with the philosophy of REFLECTION; and although the reflection of OPPOSITES, and of other DETERMINATIONS of reflection, into each other is involved in Spekulation, such reflection is only one phase of 'speculative' logic. He makes little attempt to link the philosophical sense(s) of Spekulation with its ordinary senses, but remarks that a matrimonial or a commercial speculation, like philosophical speculation, involves (1) going beyond what is immediately present, and (2) making OBJECTIVE what is initially SUBJECTIVE. But there is no implication of risk or uncertainty in Hegel's philosophical Spekulation. The central feature of Spekulation in Hegel's usage is that it unifies opposed, and apparently distinct, thoughts (and things). Thus, in contrast to the analytical UNDERSTANDING, it is akin to the poetic IMAGINATION and to mysticism, but it differs from them in that it is conceptual and presupposes the work of the understanding. It is at odds with the Dogmatismus of pre-Kantian metaphysics, which insists on applying only one of a pair of contrasting predicates to objects, insisting, e.g., that the world is either FINITE or INFINITE, and cannot be both. Speculative thought, by contrast, unifies the two concepts, and thus regards the world as both finite and infinite (Enc. I §32A.). The speculative (or the positively rational) is only the third phase of Hegel's thought, contrasting with the understanding, which sets up sharp distinctions, and the negatively rational or DIALECTIC, which breaks them down again (Enc. I §§79ff). But since it is the final and most distinctive phase of his thought (and since Spekulation also has a wider sense), he often refers to his philosophy and logic, etc., as 'speculative'. Spekulation, Hegel insists, is not merely subjective: it SUBLATES the opposition between subjectivity and objectivity, along with other oppositions. It is thus intimately associated with IDEALISM. For the same reason, it is not (as Kant supposed) concerned with the supersensible, in contrast to experience.” (trích từ Michael Inwood. A Hegel Dictionary. Wiley-Blackwell, 1992, p. 272) - Chấm dứt bàn luận hen.
Trương Minh - 16:39 24/04/2014
Bạn Hồng Phúc hãy vào Google đánh chữ “đầu cơ hôn nhân” sẽ thấy: • Vua cờ bạc Stanley Ho: Những vụ đầu cơ tiền và tình antg.cand.com.vn › An Ninh Thế Giới › Tư liệu‎Translate this page 16 Mar 2011 - KỲ I: ĐẦU CƠ... HÔN NHÂN! Chính xác Stanley Ho là người đi tiên phong trong việc đưa các sòng bạc kiểu phương Tây vào Ma Cao trong ... • Đầu cơ hôn nhân :: Thương Gia - số 11 | 11-2011 emagazine.3nana.vn/tin-tuc/1118/dau-co-hon-nhan‎Translate this page Hắn đã yêu tôi bao giờ đâu mà nói tình yêu còn hay mất? Loại người đó trong tim không có tình yêu, chỉ có những thủ đoạn hèn hạ mà thôi. Bạn Hồng Phúc có giỏi tiếng Anh không? Tôi rất bận, không có thời gian dịch hết đoạn bạn trích, chỉ xin dịch mấy câu “gay cấn” nhất trong đoạn trích của bạn: He makes little attempt to link the philosophical sense(s) of Spekulation with its ordinary senses, but remarks that a matrimonial or a commercial speculation, like philosophical speculation, involves (1) going beyond what is immediately present, and (2) making OBJECTIVE what is initially SUBJECTIVE. Mấy câu này dịch là: Ông ít quan tâm đến việc [ít dành nỗ lực] liên kết ý nghĩa triết học của [thuật ngữ] Spekulation với ý nghĩa thông thường của nó, nhưng lưu ý rằng Spekulation [đầu cơ] hôn nhân hay buôn bán, giống như Spekulation triết học, bao hàm: 1) Sự vượt quá giới hạn [có nhiều hơn] cái hiện có trực tiếp; 2) Việc biến cái lúc đầu chỉ là [ý định] chủ quan thành cái khách quan. Cái nghĩa thứ nhất là đầu cơ trong kinh doanh. Ví dụ, trên thị trường, một mặt hàng nào có rất ít, “khan hiếm”, nhưng trong “hầm” của các chủ cửa hàng, chủ tiệm lại cất giữ rất nhiều! Cái nghĩa thứ hai là đầu cơ hôn nhân. Một kẻ nào đó kết hôn không phải vì tình yêu mà là với tư tưởng đầu cơ, với mục đích “đào mỏ”. Sau khi kết hôn, kẻ đó sẽ rắp tâm biến cái mục đích lúc đầu chỉ có tính chủ quan này thành hiện thực (thành cái khách quan)! Tức sẽ “đào mỏ”! Bạn Hồng Phúc đã hiểu chưa? Còn theo đoạn ông Khu dịch mà bạn Thường đã nêu ra thì Spekulation có 3 ý nghĩa, bao gồm 2 ý nghĩa nêu trên, nhưng theo Hegel thì hai ý nghĩa nêu trên chỉ là thứ yếu! Ý nghĩa thứ ba, “speculative theo cái nghĩa chân chính của nó, dù ở trong quy định sơ bộ hay chung kết, tuyệt nhiên không phải là một cái gì đó thuần khiết chủ quan, mà, ngược lại, chính là cái chứa đựng trong nó các mặt đối lập mà trí tính không thể đi xa hơn được (do đó, cũng chứa đựng trong nó sự đối lập giữa cái chủ quan và cái khách quan) dưới dạng bị lột xác [lột bỏ] và chính bằng cách đó, nó thể hiện mình như là cái cụ thể, như là một chỉnh thể. Căn cứ vào cái ý nghĩa này nên ông Khu mới tạm dịch Spekulation là “siêu biện”!
Hồng Phúc - 17:57 24/04/2014
- Việc các bạn cố sức chứng minh ông Khu dịch đúng hay sai là điều tôi KHÔNG QUAN TÂM; như đã nói, đúng/sai của ông Khu thì hãy đối chiếu nó với bản tiếng Nga. Bản thân tôi không chê bản dịch của ông Khu và cũng không khen bản dịch của ông Sơn, bởi lẽ đơn giản tiếng Nga và Đức thì tôi mù tịt. Đừng phí công điều này với tôi. - Cá nhân tôi chỉ sử dụng bản dịch ông Sơn vì: 1) Đây là bản dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Đức; 2) Ông Sơn là dân triết học chuyên nghiệp có hàm lượng trí tuệ thuộc "chất lượng Đức"; 3) Sách ông Sơn làm cực kỳ chuyên nghiệp. Trong lịch sử xuất bản sách triết học tại Việt Nam, trước ông Sơn thì ngoài hai bộ Mác-Ăngghen Toàn tập và Lê Nin toàn tập ra, tôi chưa thấy cuốn nào làm cho bài bản, đúng chuẩn cả. 4) Đọc sách dịch ông Sơn tôi mới thấy được tính phức tạp của vấn đề và những cuộc tranh luận đương đại xoay quanh nó. Thấy được tính phức tạp của vấn đề đó mới là điều tôi quan tâm (đừng hiểu nhầm việc thấy được tính phức tạp của vấn đề với việc phức tạp hóa vấn đề một cách tùy tiện như kiểu Phạm Công Thiện nhé), bởi lẽ việc làm của triết học là gì nếu không phải là việc nó giúp ta thấy được tất cả tính phức tạp của một vấn đề để ta suy tưởng? Mặt khác, sách Hegel cực kỳ khó đọc, nên mới có chuyện Hegel nói về thực trạng việc lĩnh hội triết học của ông nơi đám học trò mà ông trực tiếp giảng dạy: "thật ra trong đám môn sinh, chỉ có trò E. Gans là hiểu tôi thôi, nhưng trò ấy lại cũng ... hiểu sai." Một chuyên gia lẫy lừng về Hegel là triết gia Đức Eugen Fink nhận xét rằng cần phải nhẫn nại đến cao độ thì mới có thể lần theo dấu vết tư tưởng của Hegel". Ý thức rất rõ nỗi khó khăn này, ông Sơn đề ra cách dịch cho mình là "Cố gắng bám sát nguyên bản, không tùy tiện thay đổi trình tự câu văn, với mục đích cung cấp một bản dịch tuy không dễn đọc và không thể đọc vội nhưng hy vọng "có thể đọc được." Chính vì vậy mà tham vọng lớn của tôi là cố gắng "có thể đọc được" phần nào mừng phần nấy. - Bạn hỏi tôi "đã hiểu chưa? Tôi xin trả lời là tôi hiểu ý bạn nói, chính xác hơn thì phải nói rằng tôi hiểu rằng lời vàng ý cao của bạn không có gì để tôi phải hiểu cả, tôi chỉ ghi nhận như là một "dữ liệu" thôi. Và bạn cũng có hỏi tôi "có giỏi tiếng Anh không". Câu hỏi này tôi cũng khó trả lời được, vì tôi cũng không biết tôi giỏi hay dở nữa. Tôi chỉ biết một điều là hầu hết bạn bè, đồng nghiệp và những ai làm việc chung với tôi đều chưa có ai phàn nàn về năng lực xử lý ngoại ngữ của tôi cả. Hehe. - Về câu dịch của bạn, tôi có cảm tưởng thế này: Có lẽ do bạn bận nên chất lượng dịch còn hơi kém. Mà sao bạn không câu tiếp theo nhỉ? Chẳng lẽ câu tiếp theo, tức câu "But there is no implication of risk or uncertainty in Hegel's philosophical Spekulation." không nói lên điều gì sao? - Lời quê chắp nhặt dông dài, xin bạn đừng chấp.
Trương Minh - 19:31 24/04/2014
Bạn đã cố tình lảng tránh không trả lời một câu hỏi rất cụ thể của tôi (tôi đã rút ra kinh nghiệm, nếu tranh luận những vấn đề chung chung với bạn thì cả năm không đi đến sự ngã ngũ nào): với những gì dẫn dịch về khái niệm Spekulation nêu trên, ông Sơn dịch “Spekulation trong hôn nhân hay thương mãi" là [quyết định đi tới] trong hôn nhân hay thương mại có đúng không? Hay phải dịch là "đầu cơ trong hôn nhân và thương mại"? Bạn giỏi triết học, tiếng Anh và trích ra một đống tiếng Anh như thế xin bạn hãy trả lời thẳng vào câu hỏi trên và cho biết “Spekulation” có cái nghĩa nào là "đầu cơ" không? Xin cám ơn!
Xuân Thành - 22:30 24/04/2014
Thưa các vị, Dịch thuật ngữ triết học Hegel chua lắm, có lẽ vì ổng dùng chữ cực kỳ tinh vi và chi ly. Nếu dịch để hiểu đại khái thì cũng ok (nhất là cho cán bộ chính trị), còn cho giới chuyên môn thì phải cực cẩn trong mới được. Tôi không thật am tường, nhưng học được chút ít qua các chú thích của ông BVNS khi phải dịch một chữ có vẻ thông thường. Tôi ví dụ chữ "cái biết" mà có vị "lên ruột". Tôi đọc chú thích (5) và (15) trong HTHTT , BVNS nói tất rọ như sau: "Hegel dùng nhiều chữ để chỉ việc "biết" với nội dung và các cấp độ cao thấp khác nhau, trong đó "nhận thức" (erkennen) là cấp độ cao nhất (theo trình tự: Kenntnis/kennen: biết một cách ngoại tại/kiến thức, hiểu biết qua loa: Wissen: biết/cái biết chủ quan; Einsicht/einsehen: thức nhận (cái biết lý tính nhưng có tính cá nhân, đối lập với "lòng tin); Erkenntnis/erkennen: nhận thức có tính triết học hay khoa học = begreifen: nắm bắt, thấu hiểu bằng khái niệm). Chỉ ở cấp độ sau cùng là "Tri thức tuyệt đối" (Absolutes Wissen), cái biết chủ quan (Wissen) mo81i ho85p nhất với nhận thức khoa học, do đó sẽ được dịch là "Tri thức" (hết trích) Vậy, chụ "cái biết" mà ông Sơn dịch tương đương với chữ das Wissen (nói chung). Tiếng Anh dịch là Knowing, còn tiếng Pháp mới có chữ riêng y chang tiếng Đức và tiếng Việt: le savoir. Tôi thấy chữ "biết" đâu có gì xa lạ, mà còn chính xác với cách dùng chữ của Hegel. Dịch ai thì phải hiểu kỹ và tuân theo cách dùng chữ của người đó vậy thôi. Dịch chung chung là "nhận thức" thì cũng được, nhưng lấy gì phân biệt với mấy chữ kia? Từ từ mò vô mấy từ còn lại ( cái đúng thật/chân lý; ý thể, hạn độ...) nghen! Phải cầu cứu ông trọng tài là ...Từ điển Hegel thôi. Mọi việc sẽ rõ dần!
hồng phúc - 00:22 25/04/2014
Như vậy, ít nhất cũng có người đọc bản dịch của ông Sơn một cách nghiêm túc là bạn Xuân Thành nên mới biết rõ chỗ nào ông Sơn nói cái gì. Nếu bạn nào cứ một mực ông Khu đúng, ông Sơn sai thì nên học tập bạn Xuân Thành nhé, lúc đó các bạn không những sẽ có câu trả lời cho mình mà còn tránh được việc đặt ra những câu hỏi không đáng đặt.
Trương Minh - 06:32 25/04/2014
Theo http://vi.wikipedia.org/wiki/ Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. Trong tiếng Việt, cả "tri" lẫn "thức" đều có nghĩa là biết. Như vậy, về thực chất, tri thức hay “cái biết” cũng không khác gì nhau lắm. Tuy nhiên, người Việt thường sử dụng khái niệm “tri thức”, Trong cuộc sống thông thường hàng ngày, cũng như trong các tài liệu triết học, người Việt Nam thường dùng khái niệm “tri thức”, chứ không phải khái niệm “cái biết”. Trong từ điển Đức – Anh, thuật ngữ tiếng Đức “wissen” là knowledge (tức tri thức). Bạn Xuân Thành đã thể hiện một tấm gương mẫu mực về nghiên cứu sách triết học. Nhưng bạn Xuân Thành chưa đạt được mức “ngộ”, hiểu thấu đáo các thuật ngữ của Hegel. Bạn Xuân Thành nói đúng, theo Hegel, wissen (tri thức, cái biết) có nhiều mức độ khác nhau. Trước hết đó là tri thức cảm tính; sau đó là tri thức trí tính (ông Sơn dịch là giác tính” và cuối cùng, tri thức cao nhất là tri thức lý tính. Tri thức cảm tính là những gì do các giác quan của chúng ta mang lại. Tri thức cảm tính bao gồm cả trực quan. Tri thức trí tính bao gồm biểu tượng và tư duy phản chiếu. Biểu tượng là hình ảnh về sự vật dưới góc độ những nét chung của nó, hình ảnh đã loại trừ tính đặc thù của sự vật. Tri thức phản chiếu là là tri thức nắm bắt sự vật trong mối tương quan, trong sự liên hệ, trong sự tương phản. Tri thức lý tính bao gồm tri thức biện chứng và tri thức tư biện (ông Khu dịch là siêu biện). Tri thức biện chứng cho phép nhận thức sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập. Tri thức tư biện (siêu biện) cho phép nhận thức sự thống nhất trong sự khác biệt và sự khác biệt trong sự thống nhất, đồng thời sự khẳng định trong sự phủ định của phủ định. Tri thức lý tính tư biện (siêu biện) mới là tri thức khoa học, khái niệm khoa học đích thực. Ý niệm tuyệt đối, theo Hegel, chính là tri thức khoa học. Tri thức còn có thể phân thành tri thức trực tiếp và tri thức gián tiếp. Trong lịch sử triết học có trường phải đề cao tri thức trực tiếp (cảm tính). Hegel đã phê phán rất gay gắt trường phái này trong “Khoa học logic”. Tất cả các cấp độ nhận thức khác nhau nói trên cũng là các mức độ khác nhau của “cái biết”, chỉ cần thay thuật ngữ “nhận thức” thành thuật ngữ “cái biết”. Vấn đề ở đây là “Việt hóa tiếng nước ngoài”; tại sao ông Bùi Văn Nam Sơn không dùng thuật ngữ người Việt Nam thường sử dụng, giới triết học Việt Nam thường sử dụng? Dù sao tôi cũng đánh giá cao việc nghiên cứu có suy ngẫm, sự tìm hiểu như của bạn Xuân Thành! Thân ái!
Xuân Thành - 10:39 25/04/2014
Trong Chú thích (15), HTHTT (trang 11), BVNS nói rõ hơn khi dịch chữ "Liebe zum Wissen: " "Sự yêu mến cái biết"/ "Liebe zum Wissen" là dịch chữ Hy lạp "philosophia" (thường được dịch là: "yêu mến sự khôn ngoan hay sự minh triết" (philo-sophia). Không ở đâu thể hiện rõ hơn yêu sách và cao vọng của triết học Hegel bằng mục tiêu đạt đến "Tri thức hiện thực" ("Wirkliches Wissen" chứ không chỉ là "yêu mến cái biết" như tên gọi truyền thống của triết học . (chữ "Wissen" được chúng tôi cố ý dịch thành hai chữ khác nhau: "cái biết" và "Tri thức" để dễ phân biệt) (Xem Chú thích (%). (hết trích và Xuân Thành nhấn mạnh). Ông BVNS dịch cẩn trọng theo tinh thần và chủ trương của chính tác giả chứ không phải dịch "chung chung".
hồng phúc - 10:40 25/04/2014
Dùng wiki phiên bản tiếng Việt để "ngộ" hay "hiểu thấu đáo" các thuật ngữ Hegel là một trong những biện pháp hạ nhục Hegel một cách có hiệu quả nhất.
xuân thành - 13:23 25/04/2014
Tôi mò vô chữ "độ" và "hạn độ" trong bản BVNS mới té ngữa: độ (Grad/degree) và 'hạn độ" (Mass/measure) là hai chuyện khác nhau hoàn toàn! Trong chú thích (a) tr369, cụ Bùi đã nhắc: "độ:Grad/degree [đ2ng lẫn lộn với "hạn độ"/Mass/measure ở phần sau, tiểu đoạn 107" (hết trích). trong Chú giải dẫn nhập cho tiểu đoạn 103 (tr 372), cụ lại nhắc: ""(không nên nhầm lẫn "độ" với "Hạn độ". Trong các sách tiếng Việt hiện nay, chũ Hạn độ thường được dịch là "độ")" (hết trích). Vậy, tại sao cụ không dịch theo" thói quen"? Lý do nằm ở "bản thân sự việc"! "Độ" được Hegel bàn trước (ở tiểu đoạn 103với nhan đề : "c. độ [hay lượng cường độ], thuộc phạm trù Lượng, như là hònh thức biểu hiện ra bên ngoài của Lượng [vd' trời nóng 37 độ]. Còn Hạn độ (mãi đến tiểu đoạn 107 như là phạm trù khác, ngang hàng với Chất và Lượng, vì nó là sự hợp nhất giũa Chất và Lượng! Sự vật đạt tới tính quy định hoàn tất trong "hạn độ" [vd nước sôi ở 100 độ, đó là hạn độ của nó, nếu "vô hạn độ" /Masslos/measureless thì sẽ thành chất khác]. Các bác chịu khó đọc kỹ phần giải thích khá dễ hiểu của Hegel về sự khác nhau của hai khái niệm này từ trang 369-398. Lâu nay ta chỉ hiểu lơ mơ qua mấy lời ghi chú ngắn gọn của Lênin trong Bút ký triết học , nên lẩn lộn lung tung cả!
xuân thành - 14:45 25/04/2014
Trở lại với chữ speculation, tôi tìm được phần giải thích rất chi tiết của cụ Bùi trong Chú giải dẫn nhập 1.4 trong HTHTT, nhất là trong 1.4.2 (Tìm hiểu thêm về khái niệm "tư biện" (Spekulation) và "mô hình tư biện" (HTHTT, tr 153 fort). Cụ Bùi viết: "Vì khái niệm "tư biện" giữ vai trò trung tâm của triết học Hegel, thiết tưởng nên tìm hiểu sâu hơn. Trong nhiều ngôn ngữ châu Âu ngày nay, chữ "speculation" chỉ còn mang ý nghĩa ...d0ời thường, cách rất xa triết học: sự "đầu cơ" trong thị trường chứng khoán hay nhà đất! [Xuân Thành nhấn mạnh]. Trong khi đó, trước kia, "tư biện" (gốc latinh: dò tìm, thám sát) là phương thức tối cao của nhận thức con người, theo nghĩa là "con mắt của Tinh thần" (xem chú thích 23) trong truyền thống Platon-Augustin cho phép con người vượt khỏi kinh nghiệm cảm tính để nhận thức được tồn tại đích thực, những Ý niệm hay Thượng đế. Đến thời Hegel, chữ "tư biện" mất nhiều uy tín sau khi bị công cuộc phê phán "lý tính tư biện" của Kant vạch trần tính ảo tưởng của nó. Việc Schelling và Hegel dùng lại chữ "tư biện" theo nghĩa tích cực là ý đồ không che dấu về việc 'phục hồi" nền siêu hình học, tất nhiên, trong viễn tượng tiếp thu tinh thần phê phán của Kanh" (hết trích, tuy còn rất dái!). Nhận xét: - không phải cụ Bùi không biết nghĩa "đời thường ngày nay của speculation là "đầu cơ". - Nhưng cụ mở vòng ngoặc vuông chú thích [quyết định tiến tới] là hiểu đúng ý nghĩa từinày thời Hegel! Có nghĩa là quyết đoán với sự mạo hiểm nhất định. Tôi vô Wiki mục speculation mới biết nghĩa "đầu cơ (chứng khoán) của từ này chỉ bắt đầu từ năm 1867 (Hegel mất năm 1831)! http://en.wikipedia.org/wiki/Speculation Càng đọc tôi càng "sợ" cụ Bùi! - Dịch là "siêu biện" cũng hay, nhưng đó là "tôn vinh" Hegel chứ không phải dịch trung thực, đặt "tư biện" trong dòng chảy lịch sử của nó: Hegel không dùng chữ mới (chẳng hạn:Ueber-Vernunft/ Supra-Reason, hihi!) mà sẳn sàng dùng lại chữ "speculative "đã bị Kant làm mất uy tín", và ban cho nó nghĩa "tích cực" theo ý mình. Tinh tế trong việc dịch triết là ở chỗ đó!
Xuân Thành - 16:01 25/04/2014
Chừ tôi xin vô chữ The True/The Truth (das Wahre/ die Warheit). Xem cụ Bùi chú thích: chú thích + cuối trang 37 HTHTT: " Chúng tôi dịch: - das Wahre (the True/ le Vrai): cái đúng thật - die Warheit (the Truth/ la Verité): sự thật, chân lý, tính chân lý đúng thật" (hết trích) Xem thêm phần cụ giảng rất kỹ về từ này trong Chú giải dẫn nhập 1 (HTHTT (tr 14215o) và Chú giải cho tiểu đoạn 213 của BKT1 (tr 890 fort). Theo đó, chữ này có hai nghĩa: - cái đúng thật: được xem là đúng hay tự xưng là đúng, sau đó, bộc lộ "chân tướng" (sự thật) là sai, chưa hoàn chỉnh. Vs; xác tín cảm tính (chương 1, HTHTT0 tự cho là đúng, sau đó bị "vượt bỏ" bởi tri giác (chương 2) và cứ thế tiếp tục. - chân lý: (Xem trang 890, BKT1), cụ Bùi giảng: "Ý niệm không phải chỉ là "đúng thật" nói chung mà là bản thân cái đúng thật. (...) Là cái đúng thật tự mình và cho mình, chân lý không có sự giới hạn , là chân lý được nắm lấy một cách tuyệt đối như là chân lý" (hết trích dù còn dài!). Tóm lại, theo Hegel,(và theo ...tôi hiểu!!?) chỉ được gọi là "chân lý" khi có "sự thống nhất tuyệt đối của Khái niệm và tính khách quan (=Ý niệm)" (tr 891). Dịch chung chung là "chân lý" thì không saI, NHƯNG KHÔNG CHO THẤY "VẬN D0ỘNG BIỆN CHỨNG" CỦA NHẬN THỨC. (Ý!TÔI BẤM LỘN NÊN THÀNH CHỮ HOA, NHƯNG CŨNG OK!) Nói thêm: mỗi dịch giả có quyền đề nghị cách diịch của mình , miễn là nói rõ và biện minh cách hiểu của mình cho độc giả biết. Thế thôi! Thuật ngữ kỳ cùng là "qui ước" với nhau để khỏi hiểu lầm.
Trương Minh - 16:15 25/04/2014
Rất hoan nghênh bạn Xuân Thành vì tinh thần làm việc nghiêm túc: đi tìm ngọn nguồn tại sao qua cách dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn, phạm trù "độ" (Mass/measure), một trong những phạm trù hết sức quen thuộc với giới triết học Việt Nam, do các dịch giả tiền bối, những người dịch Mác, Ăngghen, Lênin toàn tập, tập 29 (Bút ký triết học, ghi chép của Lenin khi đọc Khoa học logic của Hegel) dịch - đã trở thành một phạm trù hoàn toàn khác lạ đối với giới triết học Việt Nam. Từ nay, trong giới triết học Việt Nam, nếu ai còn định nghĩa “độ” như thế này hoặc tương tự như thế này: “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác” thì sẽ bị ông Sơn mắng là sai! Vì Theo cách dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn thì “độ” là “lượng cường độ”, là “tính quy định đơn giản ở trong chính mình”: Ranh giới là đồng nhất với cái toàn bộ của bản thân đại lượng; với tư cách là đa bội ở trong chính mình, ranh giới ấy là lượng trương độ [hay lượng quảng tính]; còn với tư cách là tính quy định đơn giản ở trong chính mình, nó là lượng cường độ hay là độ (xem §103, Khoa học logic, bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn). Đoạn này thì ông Khu dịch như sau: Ranh giới đồng nhất với toàn thể bản thân lượng xác định; với tư cách là cái đa dạng tại thân, ranh giới là đại lượng quảng tính, nhưng với tư cách là tính xác định đơn giản tại thân, ranh giới là đại lượng cường tính, hay bậc. Như vậy, cái mà ông Sơn dịch là “độ” thì ông Khu dịch là “bậc”! Qua nội dung dịch của hai ông phải chăng nhầm lẫn lung tung là ông Sơn chứ không phải là các dịch giả tiền bối (và cả đống các nhà triết học Mác - xít hiện nay), những người đã dịch phạm trù này hoặc hiện đang sử dụng phạm trù này (phạm trù “độ”) mà không biết nó sai? Còn về thuật ngữ wissen thì trong chú thích (5) của “Hiện tượng học tinh thần” mà ông Bùi Văn Nam Sơn dịch, bản thân ông cũng thiếu nhất quán với chính ông; chính ông dịch “wissen” thành “tri thức”: ông dịch “absolutes wissen” là “tri thức tuyệt đối”! Tôi xin nói thêm, các nhà triết học tiền bối khi dịch các tác phẩm của Mác, Angghen và Lenin toàn tập, tập 29 đều dịch wissen là “tri thức”, chứ không ai dịch là “cái biết” cả!
Xuân Thành - 17:35 25/04/2014
Universality/ the universal? Tôi thấy cụ Bùi dịch thành hai từ khác nhau: tính phổ biến và cái phổ biến, và lần lượt là: tính đặc thù/ cái đặc thù; tính cá biệt/cái cá biệt. Trong khi đó cụ Phạm dịch tất cả thành "cái". Tôi thắc mắc: cụ Phạm dịch thế cho gọn vì thấy không cần phân biệt? Nhưng thế thì tại sao Hegel lại mất công dùng hai từ khác nhau chứ không nhập một cho nó "gọn", "dễ hiễu"? Tôi mò trong định nghịa, té ta universality (có hậu tố "ty"), particulariyy, singularity là "ba mômen của Khái niệm", còn the universal v.v..là biểu hiện ra bên ngoài của ba mômen "trừu tượng" ấy.Tôi không hiểu lắm, bèn thỉnh ý một "ẩn sĩ", cụ ấy mắng tôi: "Không phân biệt được "tính" và "thể" (hay giũa "thể" và "tướng" nói theo nhà Phật) thì mò vô triết học làm gì? Thế là thế nào? My God!!
mai nương - 18:05 25/04/2014
Bác Tương Minh ơi! Xin bác đừng nóng. Không ai dám đụng đến các "bậc tiền bối dịch Mác Angghen" đâu! Có mà khùng, muốn đi tù! Nhưng trong học thuật, cần cho bà con bàn bạc chứ bác! Con bác bị sốt (nói dại!) 39 dộ hay 39 "bậc"? "Lượng cường độ" (intensive quantity) là chữ của Hegel ( trước đó là của Kant) chứ đâu phải của ông Bùi? Phân biệt giữa độ (degree) và hạn độ (measure) là quan trọng lắm. Một bên chỉ con số trong bảng thang độ (Vd 15o theo nhiệt kế), còn hạn độ là chỉ phạm vị tối đa của sự thống nhất giữa lượng và chất (bản thân cái nhiệt kế chỉ 40o là cùng). Vật dù to nhỏ thế nào cũng có một hạn độ, bác ạ! Con người không thể cao quá ..3m, vd thế! Dùng hai chữ đơn giản như vậy cho chính xác, có gì mà không được hả bác? Chẳng lẽ cứ "theo tiền bối Mác Lê" là thiên kinh địa nghĩa? Vụ Wissen, bác đọc ông Bùi cho kỹ nhé! Kính bác!
xuân thành - 19:14 25/04/2014
Chừ tôi vô tìm hiểu chữ "độc lập-tư chủ' trong bản dịch cụ Bùi. Tôi mò trong tiếng Đức thấy có hai chữ: unabhangig (hoàn toàn tương đương với chữ independent trong tiếng Anh/Pháp, nghịa là "độc lập, không phụ thuộc. Chữ thứ hai là selbstaendig (nghĩa đen: tự đứng, tự chủ.) Hegel trước sau không dùng chữ unabhaengig mà chỉ dùng chữ selbstaendig! Bản tiếng Anh của Wallace (quá cũ, 1873!)) dịch là independent, nhưng nhiều người thấy không ổn, vì ngụ ý cô lập không đúng ý Hegel. Các bản dịch mới (từ 1991) tìm cách dịch lại là self-standing vs not self-standing ,mặc dù không quen thuỗc trong tiếng Anh thông dụng (xem chú thích (a) tr 166, BKT 1 của cụ Bùi. Tôi không dám bình luận, nhưng nghĩ rằng cụ Bùi rất hiểu sự lắc léo này nên chọn dịch dung hòa: "độc lập-tựchủ". Còn muốn hiểu thật sự chữ này thì phải học ...sói trán! Nếu gâp các bản dịch dùng "independent" thì có nước nhắm mắt tra ...từ điển dịch theo thôi, không biết thì không có lỗi, hihi, chỉ tội nghiệp cho cụ Hegel thôi, huhu!!)
Trương Minh - 20:47 25/04/2014
Cao siêu! ở điểm này tôi thấy thắc mắc của bạn Xuân Thành là hợp lý, tôi cũng có thắc mắc như vậy: Universality phải khác với Universal chứ! Particularity phải khác với Particular chứ! Individuality phải khác với Individual chứ! Theo tôi, Universality nên dịch đơn thuần là “phổ quát” hoặc “tính phổ quát” còn Universal dịch là cái phổ quát thì đúng rồi. Các cặp khác cũng nên dịch như vậy! Tôi chưa hiểu tại sao ông Khu đều dịch là “cái”! (chắc ông Khu phải có lý do nào đó). Tuy nhiên, hiểu như bạn Xuân Thành theo nghĩa cái thứ nhất là cái phổ quát còn ở dạng tiềm ẩn (Universality), còn cái thứ hai là cái phổ quát đã hiện ra bên ngoài (Universal) thì là hoàn toàn sai! Theo Hegel, trong khái niệm thì cả 3 phương diện (thành tố) này đều là cái đã hiện diện, tồn tại vì mình (for itself). Chỉ ở cấp độ bản chất thì “cái phổ quát”, “cái đặc thù” và “cái đơn nhất” mới tồn tại ở dạng tiềm ẩn. Ở cấp độ khái niệm (hiện thân của nó là sự sống, giới hữu cơ), 3 cái này là một nhưng đồng thời cũng là ba (khái niệm là cái “nhất ngôi tam thể”). Nói như thế thì trừu tượng quá, xin nêu một ví dụ cho dễ hiểu: Nguyễn Văn A là hiện thực của khái niệm con người. Khái niệm này gồm 3 thành tố: 1) “Cái đơn nhất” (Nguyễn Văn A); 2) “Cái đặc thù” (Nguyễn Văn A với tư cách là nam giới; một ông già…); “Cái phổ quát” (Nguyễn Văn A với tư cách là con người). Trong Nguyễn Văn A “cái phổ quát”, “cái đặc thù”, “cái đơn nhất” là đồng nhất với nhau, không thể tách rời nhau, nhưng đồng thời cũng khác biệt với nhau…. Cái phổ quát có thể so sánh với loài, cái đặc thù với giống, cái đơn nhất với cá thể. Loài và giống không thể tồn tại tách rời cá thể. Chính ở đây chúng ta mới hiểu tại sao dịch “Universal, Particular, Individual” là “Cái phổ biến, cái đặc thù, cái cá biệt” là sai! Nếu dịch như thế thì “cái phổ biến” và “cái cá biệt” là những cái có thể tách rời nhau, không thể đồng nhất với nhau, trong khi theo cách hiểu nói trên của Hegel thì “Universal” và “Individual” là đồng nhất với nhau, không thể tách rời nhau. Ví dụ khi chúng ta nói: Đặc điểm phổ biến của người Việt Nam là ăn thịt chó. Điều đó không có nghĩa rằng tất cả người Việt Nam đều ăn thịt chó! Có những trường hợp cá biệt không ăn thịt chó. Như vậy, trong số những người không ăn thịt chó “cái phổ biến – ăn thịt chó” bị loại trừ! Ở đây, “cái phổ biến” tách rời “cái cá biệt”, “cái phổ biến” đứng ở hàng bên này, còn “cái cá biệt” đứng ở hàng bên kia! Còn dịch như trên (cái phổ quát, cái đặc thù, cái đơn nhất), chúng ta thấy, “cái phổ quát” không tách rời “cái đơn nhất”.
Hạnh Liên - 21:01 25/04/2014
Bạn Mai Nương cũng cao thủ thiệt! Bạn đọc cả Kant về "lượng cường độ" thì em quá phụuc lun! "Cụ" Xuân Thành là đại cao thủ rùi, chắc em phải tìm thụ giáo! Hy vọng "cụ" chưa hoàn toàn (!) là cụ!! Hihi!!!
Trương Minh - 21:13 25/04/2014
German Dictionary German-English Translation of selbständig German: selbständig English - independent; - self-employed; - autonomous Translation by Vocabulix Như vậy, thuật ngữ này có 3 nghĩa, chọn nghĩa nào là do khả năng am hiểu Hegel của người dịch. Theo tôi, cái nghĩa thứ hai (self-employed, tức tự chủ) và nghĩa thứ 3 (autonomous - tự trị, tự chủ động...) áp dụng vào cho con người, hoặc cùng lắm là cho con vật, may ra còn có nghĩa lý! đối với vật vô tri, vô giác ông Sơn vẫn dịch là độc lập - tự chủ thì tôi xin vái! Theo Hegel, vật vô tri, vô giác chỉ là tồn tại để cho cái khác, chứ không có khả năng tồn tại vì mình, làm sao có thể độc lập - tự chủ được?
Trương Minh - 22:36 25/04/2014
Bạn Mai Nương cần đọc kỹ phần Hegel nói về “lượng cường tính” thì mới hiểu được tại sao ông Khu không dịch là ĐỘ như ông Sơn mà lại dịch là BẬC! Để dẫn chứng về “lượng cường tính” (tức ĐỘ theo ông Sơn và BẬC theo ông Khu) , cần nghiên cứu ký mấy ví dụ mà Hegel đã nêu ra. Ví dụ thứ nhất là về nhiệt độ. Các BẬC nhiệt độ khác nhau là cái mà chúng ta không nhìn thấy được (phải thông qua nhiệt kế chúng ta mới biết được). Tuy nhiên dùng xúc giác chúng ta có thể cảm nhận được các BẬC nhiệt độ khác nhau này, ví dụ, BẬC nhiệt độ lớn hơn khiến chúng ta có cảm giác nóng hơn. Cái loại lượng không dễ dàng nhìn thấy này có thể coi là một ví dụ về “lượng cường tính”. Ví dụ thứ hai mà Hegel nêu ra đó là về trọng lượng riêng. Nếu một túi có 100 đồng tiền xu và túi kia có 200 đồng tiền xu thì túi chứa 200 đồng tiền xu sẽ nặng gấp đôi túi chỉ có 100 đồng tiền xu. Song lượng ở đây là lượng quảng tính, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy, chứ không phải là “lượng cường tính”, tức không phải BẬC theo cách dịch của ông Khu. Chúng ta có thể nêu ví dụ về “Lượng cường tính” ở đây: chúng ta có hai khối kim loại bằng nhau về thể tích, nhưng trọng lượng của chúng lại rất khác nhau, sự khác nhau về trọng lượng này là do chúng có các BẬC trọng lượng riêng khác nhau. Chúng ta có thể lấy thêm một ví dụ khác: Nhà máy X có hai công nhân to khỏe như nhau, nhưng một anh thì rất lành nghề, giỏi việc còn anh kia thì tay nghề rất kém. Đó là vì BẬC tay nghề của hai anh này rất khác nhau, một anh tay ngề BẬC 8, còn anh kia tay nghề chỉ là BẬC 1. Như vậy, nếu chúng ta dùng thuật ngữ ĐỘ để biểu thị “lượng cường tính” thì trong trường hợp thứ nhất, đối với nhiệt độ, chúng ta chưa thấy được sự bất hợp lý, nhưng trong các trường hợp sau chúng ta mới thế rõ sự bất hợp lý này! Khái niệm BẬC đặc biệt thích hợp để chúng ta nói về “nội công”! “Nội công” chính là “lượng cường tính”. Một ông lão gày gò có thể có nội công rất thâm hậu được xếp vào BẬC cao thủ; một thanh niên cao lớn, cường tráng, nhưng “nội công” có thể rất thấp, chỉ đáng xếp vào BẬC “tép riu”!
xuân thành - 01:21 26/04/2014
Bác Trương Minh à! Bác viết : " Theo Hegel, vật vô tri vô giác chỉ là tồn tại để cho cái khác, chứ không có khả năng tồn tại vì mình, làm sao có thể độc lập-tự chủ được". Hegel nói vậy ở đâu vậy bác? Bác nhầm Khoa học lô gíc với đạo đức học, nhân học hay chính trị học rồi! Khoa học lô gíc bàn về những phạm trủ "trừu tượng" của tồn tại nói chung bác ạ. "Tự mình, cho mình, tự mình và cho mình hổng phải dành riêng cho bác và tôi đâu! Bác nghĩ sao về câu sau đây trong Từ điển Hegel: " Hence an sich [in-itself] and fuer sich [for itself] come to mean "potential" and " actual", and may be applied to ,e.g, the development of a plant [tôi nhấn mạnh], where there is no question of awareness or ignorance.(..) Characteristically, a fully developped, actual entity, in contrast to an acorn [tôi nhấn mạnh] or an infant, has enough internal articulation and stability to exist "by itself" or fuer sich, independent to some degree of relations to other entities" (tr 135). Câu sau cùng là nói về "độc lập-tự chủ" của cây sồi so với hạt sồi đó bác!
Trương Minh - 10:59 26/04/2014
Xin bái phục bác Xuân Thành ở chỗ chịu khó đọc nhiều. Bạn Xuân Thành đã nêu ra một trong những khái niệm khó nhất trong triết học Hegel đó là “an sich” [in-itself] và “fuer sich” [for itself]. Các nhà dịch kinh điển Mác – Lênin thì dịch là “tự nó và vì nó”; ông Bùi Văn Nam Sơn dịch là “tự mình và cho mình”; ông Phạm Chiến Khu dịch là “tại thân và vì mình”. Thực ra, “in itself” dịch “trắng phớ” ra thì là “trong bản thân nó”, cho nên, ông Khu dịch là “tại thân” (tại bản thân” là sát hơn cả. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu được cái nghĩa thực sự của các thuật ngtữ này là gì? Theo Hegel, “an sich” [in-itself] trước hết là cái chứa đựng bên trong bản thân sự vật, nói cách khác, đó là “thực chất”, “bản chất”, “linh hồn” thực sự của sự vật, cái ẩn chứa đàng sau tồn tại hiện có của sự vật, đàng sau trực quan cảm tính của chúng ta về sự vật, nói cách khác, nó là cái khách quan, sự tồn tại của cái khách quan này không phụ thuộc vào ý thức của chúng ta (thuật ngữ “linh hồn” là của tôi, Trương Minh, do tôi sáng chế ra để chúng ta dễ hiểu). Cái chứa đựng bên trong bản thân của sự vật này có thể không đồng nhất với hình thức hiện có của sự vật và trong trường hợp này, sự vật chỉ là cái nhất thời, trong sự vận động tiếp theo của nó, nó sẽ chuyển hóa thành cái khác. Sự vật như vậy, được Hegel gọi là “tồn tại vì cái khác” (dịch là “tồn tại để cho cái khác” cũng được). Ở cấp độ này sự độc lập của sự vật chỉ là tương đối, nhất thời và chẳng thể có “tự chủ”. Ở cấp độ cao hơn (cao nhất là con người tự do), hình thức hiện có của sự vật đồng nhất với cái bên trong, với “thực chất”, “bản chất”, khái niệm của nó và do đó trong sự vận động và phát triển, sự vật bảo tồn được chính mình, không biến thành cái khác. Cái khác được thiết định trong quá trình vận động và phát triển của sự vật là cái khác của chính nó, do nó thiết định, vì thế, trong cái khác này, nó vẫn là nó, tức tồn tại vì mình (“fuer sich” [for itself]). Ở cái cấp độ này, thì sự tồn tại của sự vật là sự tồn tại tại thân và vì mình. Ở đây sự vật mới có sự tự chủ đích thực. Thuật ngữ “fuer sich” [for itself] được hiểu trong cái nghĩa như vậy. Tôi không hiểu tại sao khi đưa ra khái niệm “tự mình”, ông Bùi Văn Nam Sơn chú giải nó có nghĩa là “minh nhiên”? Tôi sẽ tiếp tục trao đổi với bạn Xuân Thành về việc tại sao dịch “selbstaendig” thành “độc lập – tự chủ” là sai! Thưa bạn Xuân Thành, đầu tôi từ lâu đã hói không còn một sợi tóc nào, không thể hói hơn được nữa nên không ngại sự cảnh báo của bác: “Còn muốn hiểu thật sự chữ này thì phải học ...sói trán!”
xuân thành - 14:46 26/04/2014
Thưa bác Trương Minh, Tôi đề nghị bác đọc mục từ "In,for, and in and for, itselb, himself, etc." trong A Hegel Dictionary của Michael Inwood (tr 133-136) rồi sẽ bàn luận tiếp, bác nhé! Đề nghị thêm: mỗi khi bác viết :"theo Hegel...", đề nghi bác cho dẫn chứng chính xác, nếu không sẽ toàn là đoán mò với nhau cả, chưa nói là xuyên tạc hoàn toàn. Bác viết: "Theo Hegel [ở đâu??], an sich (in itself) (...) là ở đàng sau trực quan cảm tính của ta về sự vật, nói cách khác, nó là cái khách quan; cái tồn tại khách quan này không phụ thuộc vào ý thức của chúng ta" (hết trích). Tôi e câu này là bác "theo" mấy ông thầy Liên xô chứ không phải "theo" Hegel! Tôi không nói đúng sai, mà muốn nói: ta đang bàn về Hegel thì phai xem Hegel nói thế nào. Bác đọc lời giải thích sau đây trong Từ điển Hegel nhé: " Thus a thing as it is an sich has no overt determinate character; at most, it has a potential character which will be actualised only by its relations to other things. An infant, e.g, is an sich rational, but its rationality is merely potential, not actual and "for another" or "in it" (an ihm). An sich in this sense does not contrast with fuer uns [for us] (XT nhấn mạnh]: the infant's rationality is for us, since we can see, from such actual features as it has, that it is potentially rational. Thus hegel often uses the expression an sich oder fuer uns ('in itself or for us) (XT nhấn mạnh) to indicate that what something is only potentially and unknown to itself (XT nhấn mạnh] is known to us philosophers or outside observers" hết trích, tr 134).Cụ Bùi cũng giảng rất rõ trong các chú thích cuối các tr 318, 319, 320, 321, quyển HTHTT. Ngoài ra, bác bảo cụ Bùi chú thích an sich là "minh nhiên" ở đâu vậy bác? Sao có chuyện ngược đời vậy, vì cụ Bùi luôn nhấn mạnh tính "mặc nhiên" (implicitly/ potentially) của khái niệm, sự vật khi chưa phát triển đầy đủ, còn ở dạng tiềm năng? Về từ "độc lập-tữ chủ", tôi đã trình bày đủ. "Tự chủ" ở đây theo nghĩa khoa học lôgíc chứ không theo nghĩa đạo đức học. Từ này đã có từ thời Aristote: kath'auto khi Aristote ví dụ về...con ngựa tự chạy, không cần người cưỡi! Bác sử dụng từ điển Đức-Anh thông dụng nên hiểu vậy thôi!
Trương Minh - 15:08 26/04/2014
Cái bên trong (in itselt) này, theo Kant thì là bất khả tri! Ở đây, Kant bị Hegel phê phán gay gắt. Theo Hegel, cái bên trong tất yếu sẽ hiện ra bên ngoài; bản chất tất yếu sẽ hiện ra trong hiện tượng; khái niệm con người tất yếu sẽ hiện ra trong con người đơn nhất; hạt sồi là cái cây tại thân (in itselt) và do đó, trong quá trình vận động và phát triển của mình, hạt sồi sẽ trở thành cái cây; đứa trẻ là người lớn tại thân (in itselt) và do đó, trong quá trình phát triển, đứa trẻ sẽ trở thành người lớn. Con người là tồn tại tại thân và vì mình: Nguyễn Văn A vẫn là Nguyễn Văn A cho dù nó là đứa trẻ hay người lớn! Do không chỉ là cái "vì mình" mà còn là cái "tại thân" nên con người là một quá trình phát triển!
Trương Minh - 15:12 26/04/2014
Nhất trí với bác, tôi sẽ trích ngay trong "Khoa học logic" của Hegel chứ không phải trong từ điển!
xuân thành - 15:45 26/04/2014
Bây giờ, tôi liều mạng tìm hiểu từ hóc búa, "ác đạn" nhất nảy giờ là từ Ideal (Đức" ideell) và Ideality (Đức: Idealitaet). Gặp chữ này, cụ Phạm dịch nhất loạt là "lý tưởng", nhưng không giải thích tại sao dịch như thế va nó có nghĩa gì. Ngược lại, cụ Bùi thì dịch ideell là "ý thể, tính ý thể", còn Idealitaet là "tính ý thể". Thật là khác nhau 180 đô! Chỉ có điều cụ giải thích kỹ, lặp đi lặp lại nhiều lần, vì biết đây là chữ khó. Chỗ cụ Bùi nói rõ nhất về cách dịch và nghĩa từ là ở chú thích (84), BKT 1, tr 133, như sau: "ideell/Anh :ideal: trong thuật ngữ Hegel, Idee chỉ cái Tuyệt đối, trong chừng mực nó là tiến trình toàn bộ của việc hiện thực hóa ý nghĩa, như là Khái niệm được hiện thực hóa, và được dịch là Ý niệm viết hoa). Nếu nó được dùng ở dạng số nhiều hay đặc thù hóa (vd: ý niệm về...), sẽ không viết hoa. Cái gì được nhận thức như là một mômen ở trong Khái niệm được gọi là ideell (dịch là: "có tính ý thể"); và Idealitaet (danh từ) là thuộc về cái gì có tính ý niệm (dịch là: tính ý thể). "Tính ý thể" hay "ý thể tính" là sự thật hay chân lý của thực tại, của cái gì hữu hạn [XT nhấn mạnh]; tức, đồng nghĩa với chữ "bị thủ tiêu, thải hồi" (das Aufgehobene/ the sublated) [XT nhấn mạnh] và việc nhận thức tính ý thể này là "thuyết duy tâm" (Idealismus) theo nghĩa của Hegel [XT nhấn mạnh] (theo cách dịch thông thường, thay vì "thuyết ý niệm). Xem tiểu đoạn 95, Nhận xét 2)." (hết chú thích). Tiểu đoạn 95, Nhận xét 2 là phần giảng thêm của chính Hegel. Ta hãy xem Hegel giảng thế nào! (còn tiếp, vì còm quá dài, e đọc xỉu!!)
Trương Minh - 15:54 26/04/2014
Xin lỗi bạn Xuân Thành, tôi đánh máy sai, không kiểm tra lại, "mặc nhiên" chứ không phải minh nhiên! Tôi chưa thấy sự chính xác lắm khi cụ Bùi Văn Nam Sơn lại chú giải "in itsself" là "mặc nhiên"! Tiếng Việt, thông thường coi "mặc nhiên" là sự ngầm hiểu, không cần nói ra bằng lời, không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm "in itself"!
tuấn khải - 16:04 26/04/2014
Ông Trương Minh tranh thủ giảng giáo trình Mác-Lênin mà bọn tôi tụng đến mòn răng rồi, nhưng lai không hiểu ông Xuân Thành muốn nói gì qua đoạn quan trọng ấy trong Từ điển. (Từ điển Hegel của nhà Blackwell được giới chuyên gia cả thế giới sử dụng mà coi bộ ông Trương Minh chê không thèm đọc! Ông làm ơn dịch đoạn Từ điển trên đây xem nào! Hồi hộp xem tiếp vụ "lý tưởng" hoặc "ý thể", bác Xuân Thành ơi!
xuân thành - 16:32 26/04/2014
(tiếp ) Hegel giảng ở tr 340 (BKT 1): xin trích vài câu vì khá dài: " Trong tồn tại cho mình, quy định về tính ý thể đã vào cuộc. tồn tại hiện có (Dasein), thoạt đầu chỉ được nắm lấy dựa theo tồn tại hay sự khẳng định của nó, còn tính thực tại ( xem tiểu đoạn 91), do đó, tính hữu hạn [XT nhấn mạnh]thoạt đầu cũng ở trong quy định của thực tại, Nhưng, chân lý [hay sự thật] của cái hữu hạn thực ra là tính ý thể của nó [XT nhấn mạnh].. Cũng thế, bản thân cái Vô hạn của giác tính [XT nhấn mạnh] - được đặt bên cạnh cái hữu hạn - cũng chỉ là một trong hai cái hữu hạn, là một cái không đúng thật [XT nhấn mạnh], một cái có tính ý thể [XT nhấn mạnh] [ XT xin thêm hai chữ cho rỏ nghĩa:[Vạch trần]Tính ý thể này của cái hữu hạn là nguyên tắc chính yếu của triết học , và, vì thế, bất kỳ nền triết học đúng thật nào cũng là thuyết duy tâm" (hết trích). Câu hơi khó hiểu, nên cụ Bùi dành một đoạn dài giải thích lại trong Chú giải ở trang 341.Lần này cụ giảng kỹ hơn so với chú thích đã dẫn ở còm trước. Chiu khó đọc tiếp nghen! (còn tiếp)
xuân thành - 17:10 26/04/2014
(tiếp) Cụ Bùi giảng (BKT1, tr 341): " "tính ý thể' (Idealitaet/ ideality): phạm trù mới này cần được hiểu trong sự tương ứng chặt chẽ với phạm trù (tính) thực tại (Realitaet/reality) ở tiểu đoạn 91. Ở tđ 91, tồn tai hiện có (Dasein) được hiểu một cách phiến diện dựa theo sự tồn tại hay sự khẳng định của nó. Vì thế, nó có "thực tại". Cả cái hữu hạn (cũng thuộc phạm vi tồn tại hiện có) cũng có tính quy định của thực tại. Nhưng rồi qua các bước phát triển của tồn tại hiện có, nó bộc lộ bản tính phủ định của tồn tại hiện có hữu hạn. Tồn tại này cho thấy chỉ là một mômen của thực tại đúng thật duy nhất, đó là của cái vô hạn đúng thật hay của tồn tại cho mình. Chính đó là tính ý thể; ý thể (ideell) là cái gì chỉ là mômen bị thủ tiêu, vượt bỏ của một thực tại cao hơn [BVNS in nghiêng, nhấn mạnh] (chử ideell đồng nghĩa với 'aufgehoben"/:sublated: bị thải hồi, vượt bỏ). Ở đây, cái hữu hạn chì là một mômen của tồn tại cho mình vô hạn (trong Khoa học Lô gíc, Hegel còn gọi là "tồn tại cho cái Một"/ Sein fuer Eines, I, 149-153 và ta sẽ bàn ở tđ 239). Nói cách khác, chân lý của cái hữu hạn không phải là (tính) thực tại mà là tính ý thể của nó [XT xin phép thêm: là tính có thể bị vượt bỏ của nó]. Cái vô hạn tồi của giác tính (đặt bên cạnh cái hữu hạn) thì bản thân cũng là hữu hạn và không có thực tại đúng thật; nó là một cái vô hạn không đúng thật, một cái vô hạn ý thể [XT nhấn mạnh], nghĩa là một mômen bộ phận của sự vô hạn đúng thật của tồn tại cho mình. Tính ý thể của của cái hữu hạn từ nay là lập trường chính yếu của triết học, và, vì thế, mọi triết học đúng thật đều là một thuyết (vạch ra tính) "ý thể" (thuyết "duy tâm"). (hết trích). Sau đây, ta sẽ thử "kiểm tra" xem, dựa vào Từ điển Hegel như một căn cứ đáng tin cậy. (còn tiếp)
Minh Đức - 17:42 26/04/2014
Tôi nói thật, các phạm trù mà ông Khu sử dụng, toàn là các phạm trù do một nhóm những ông dịch kinh điển Mác, Ăng-ghen và Lênin học ở Liên xô (cũ) và Đông Đức (cũ) ngày xưa (có thể bao gồm cả ông Trần Đức Thảo) sử dụng! Ngày xưa các ông ấy chỉ biết sử dụng phạm trù "chân lý" chứ sao biết thêm được có chỗ phải dịch là "cái đúng thật"; các ông ấy chỉ biết dịch Idealitaet/ ideality là "cái lý tưởng" chứ làm sao biết được phải dịch là "tính ý thể"; các ông ấy chỉ biết dịch thuật ngữ selbständig theo cái nghĩa indenpendent (độc lập) chứ làm sao biết là phải kết hợp cả 3 nghĩa của nó với nhau thành độc lập - tự chủ như ông Bùi Văn Nam Sơn làm!
Trần Hoàng - 20:01 26/04/2014
Trích vài câu từ đoạn trích mà bạn Lê Ngọc Thường đã nêu ở trên: Ông Bùi Văn Nam Sơn dịch: "[Tính] thực tại và tính ý thể thường được xem như một cặp quy định đối lập với nhau với cùng một sự độc lập-tự chủ như nhau, vì thế, người ta nói rằng ngoài thực tại ra, “cũng” còn có một tính ý thể". Ông Phạm Chiến Khu dịch: "Cái thực tại và cái lý tưởng thường được xem xét như là hai quy định đối lập nhau, có cùng tính độc lập như nhau, và theo đó, người ta nói rằng ngoài cái thực tại, còn có cái lý tưởng". Thưa ông Xuân Thành, tôi là người Việt Nam và tôi đã từng được nghe người ta nói: "ngoài cái thực tại ra, còn có cái lý tưởng" chứ chưa từng nghe thấy ai nói (ngoại trừ khi đọc bản dịch của ông Bùi Văn Nam Sơn) rằng "ngoài thực tại ra còn có một tính ý thể"! Có thể bên "Tây" người ta nói như vậy và tôi chưa từng sống bên “Tây” nên không nghe được!
Lê Ngọc Thường - 20:56 26/04/2014
Nhân tiện chúng ta đang bàn về khái niệm ideality (các dich giả dịch tài liệu kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin dịch là "cái lý tưởng"; cụ Bùi Văn Nam Sơn dịch là "tính ý thể"): Bản dịch của Wallace: In Being-for-self enters the category of Ideality. Being-there-and-then, as in the first instance apprehended in its being or affirmation, has reality (§ 91); and thus even finitude in the first instance is in the category of reality. But the truth of the finite is rather its ideality. Ông Bùi Văn Nam Sơn dịch: Trong tồn tại-cho-mình, quy định về tính ý thể đã vào cuộc. Tồn tại- hiện có (Dasein), thoạt đầu chỉ được nắm lấy dựa theo tồn tại hay sự khẳng định của nó, còn [tính] thực tại (xem §91), do đó, tính hữu hạn thoạt đầu cũng ở trong sự quy định của thực tại. Nhưng, chân lý [hay sự thật] của cái hữu hạn thực ra là tính ý thể của nó. Ông Phạm Chiến Khu dịch: Trong tồn tại vì mình, hiện diện quy định cái lý tưởng. Tồn tại hiện có, trước hết, chỉ được nắm bắt dưới góc độ tồn tại của nó, hay tính khẳng định của nó, đó là cái thực tại (xem §91), và do đó, tính hữu hạn, trước hết, cũng thể hiện trong quy định cái thực tại. Nhưng, chân lý của cái hữu hạn, ngược lại, là cái lý tưởng của nó.
mai nương - 21:36 26/04/2014
Bác Trần Thường ơi! Tôi quý sự thành thật của bác! Đúng là trong ngôn ngữ thông thường, "thực tại" trái với "lý tưởng" giống như khi ông xã nhà tôi nhìn ...tôi và ngắm ,,,hoa hậu! Triết học cao xa mấy thì cũng vậy thôi, nhưng ở đây ông già Hegel đâu có nói gì về "lý tưởng" đâu !. Chỉ vì hiểu không tới nơi nên dịch nhầm, làm bác khổ sở, đâm ra "ghét tây" ầm ầm. Oan cho tụi "giẫy chết" bác à!. Bác cứ từ từ nghe bác Xuân Thành trình bày, sẽ rõ đầu đuôi thôi, thưa bác!
Minh Đức - 22:43 26/04/2014
Thật là buồn với nền triết học Việt Nam, mấy chục năm nay, chúng ta đào tạo được cả trăm giáo sư, tiến sỹ triết học, nhưng hầu hết không phát hiện được rằng các nhà dịch thuật sách kinh điển (của Mác, Ăngghen, Lênin, đặc biệt là Lênin toàn tập, tập 29), sử dụng nhiều thuật ngữ sai, không chuẩn. Ví dụ: thuật ngữ "cái lý tưởng" (dịch đúng phải là "cái ý thể"); thuật ngữ "tri thức" (dịch đúng phải là "cái biết"); "chân lý" (dịch đúng phải là "cái đúng thật"); thuật ngữ "độc lập" (dịch đúng phải là "độc lập - tự chủ"); thuật ngữ "độ" (dịch đúng phải là "hạn độ"); thuật ngữ "sinh thành" (dịch đúng phải là "sự trở thành").... Tôi là người đọc nhiều các sách kinh điển nói trên, đọc nhiều lần Lênin toàn tập, tập 29 (Bút ký của Lênin khi đọc "Khoa học logic" của Hegel), nhưng không hề thấy bóng dáng của các thuật ngữ chính xác, chuẩn xác mà cho mãi đến ngày hôm nay nhờ công sức của cụ Bùi Văn Nam Sơn chúng ta mới có được, như "tính ý thể"; "cái biết"; "cái đúng thật"; "hạn độ"; "sự trở thành"...). Thật buồn với ông Khu, ông dịch lại "Khoa học logic của Hegel", nhưng lại đi theo "vết xe đổ" của các dịch giả sách kinh điển (sách của Mác, Ăngghen, Lênin); vẫn cứ sử dụng các thuật ngữ sai lầm như "cái lý tưởng"; "tri thức"; "độ"; "chân lý"; "sinh thành"....
xuân thành - 23:33 26/04/2014
(tiếp) Câu chuyện thật ra không khó hiểu lắm, nhưng trở nên rắc rối và dễ gây hiểu lầm là vì thuật ngữ tiếng Đức của Hegel có hai từ khác nhau: das Ideal (cái lý tưởng) /ideal (tính từ) và ideell (thuộc về Idee/Ý niệm, từ đó đẻ ra từ Idealitaet/ideality!), trong khi tiếng Anh chỉ có một từ là ideal cho cả hai nghĩa! Không am tường tiếng Đức (của Hegel!) thì hiểu nhầm là ...dễ hiểu. Trong tiếng Đức thông dụng, ideal và ideell không khác mấy, trừ khi chữ ideal mang nghĩa "lý tưởng" nhưng trong thuật ngữ Hegel phải phân biệt cho kỹ! - chữ Đức Ideal/ ideal(lý tưởng), nơi Hegel, chỉ dùng duy nhất cho mỹ học và nhất là nghệ thuật: "thuộc về lý tưởng hay thuộc vể Ý niệm cái Đẹp (Từ điển Hegel: ideal, like Ideal, restricted to aesthetics and especially art: "pertaining to the ideal or to the idea of beauty", tr 126). (...his own preference is to give "Ideal' an exclusively aesthetic sense, nt). - Ngược lại, ideell thì phải phân biệt với ideal: ideell gắn với Idee (Ý niệm/Anh: IDEA) chứ không gắn với Ideal (lý tưởng) (For Hegel, by contrast, ideell is distinct from ideal: ideell is connected with Idee (Idea) rather than "Ideal", nt). - không thể dịch là "lý tưởng", vậy ideell/ Idealitaet là gì? - tr 127 của Từ điển giải thích 4 nghĩa khác nhau của ideell, ở đây chỉ ghi lại câu kết luận: "Hegel thường xem ideell ngang hàng với cái gì được vượt bỏ: thực tại và các bộ phận của nó được/bị Khái niệm thải hồi/vượt bỏ" (Hegel often equates the ideell with what is sublated: reality and its parts are sublated by the concept) , đúng như lời giảng của Hegel và chú giải của cụ Bùi ở trên. - Hegel còn liên kết ideell với sự Vô hạn: những bộ phận hữu hạn của thực tại được vượt bỏ thành cái toàn bộ tự tồn được Khái niệm xuyên thấm (He also associates it with INFINITY: the finite parts of reality are sublated into the self-contained whole pervaded by the concept, tr 127). - Idealitaet/ideality: "trong triết học, Idealitaet là đặc tính của cái gì mang tính ideell, nhưng để đối lập lại với " thực tồn' và "thực tại", chứ không theo nghĩa "mẫu mực"/lý tưởng ( Idealitaet in philosophy is the characteristic of being ideal, but in contrast to 'real' and 'reality', not in the sense of 'exemplary", nt) [XT nhấn mạnh]. - Idealitaet có từ thời Kant khi Kant bàn về Idealitaet của không gian và thời gian. Theo Kant, ai nghi ngờ sự tồn tại của những đối tượng bên ngoài là mắc lỗi "duy tâm giáo điều", gán Idealitaet cho chúng. Vì thế, với Kant, Idealitaet của không gian và thời gian (nơi ông) chỉ có tính 'siêu nghiệm' (transzendental) chứ không có tính duy tâm giáo điều. Đó là lý do Kant gọi triết học của mình là 'thuyết duy tâm siêu nghiệm' hay 'duy tâm phê phán'.Cụ Bùi dùng từ tính ý thể" từ khi dịch Kant và dùng lại chữ này khi dịch Hegel cho nhất quán về thuật ngữ , dù Hegel hiểu từ ideell khác với Kant. - Thi thoảng Hegel cũng dùng động từ idealisieren/ Idealisierung (Anh: idealizing), nhưng không phải theo nghĩa thông thường là "lý tưởng hóa" [XT nhấn mạnh] mà theo nghĩa biến cái gì đó thành idell (mang tính ý thể)Ý niệm là một tiến trình liên tục của việc ý thể hóa hay làm cho sự vật trở nên có tính ý thể, chứ không phải một kết quả tĩnh tại ( It does not have the usual sene of treating or regarding soemething as ideal or exemplary, but that of making something 'ideell'. The idea is a continuous process of idealizing or making things ideal, rather than a static result, nt). Còm đã quá dài, thiết tưởng đã góp phần làm rõ phần nào chữ "tính ý thể" của cụ Bùi. (...
Lê Quang Hồ - 05:25 27/04/2014
Xin làm ơn dẹp bà giáo sư Thái Kim Lan dùm. Biết tiếng Đức là một chuyện, diễn thành tiếng Việt là chuyện khác nhé. Dù tôi còn phải học hỏi nhiều, nhưng tôi không ưa cách diễn Nôm của GS Thái Kim Lan. Còn về kiến thức căn bản trong lịch sử triết học, bài giới thiệu của bà GS trong cuốn Phê Phán Lý Tính Thuần Túy của Kant đem cắt bỏ là vừa. Và yêu cầu Mạc Đại không lăng mạ Marx, Lenin khi nói các giáo sư VN rất chú tâm vào 2 người này. 50 năm nghiên cứu ở Việt Nam về Marx và Lenin không sản xuất ra nổi một tác phẩm ra hồn về Marx và Lenin. Thua cả Nhật Bản vào thời kỳ trước Thế Chiến thứ nhất, thua cả Trung Quốc, thì không hiểu họ chú tâm kiểu gì. Ở mặt cá nhân tôi, Karl Marx khổng lồ đủ để xứng với bất cứ triết gia mà tôi không hoài nghi gì việc xuất bản bộ Toàn tập Marx-Engels có thể coi là một công trình dịch thuật đúng nghĩa. Còn Phạm Công Thiện, sách ve chai của ông ta dùng như một kiểu thuốc phiện, hi vọng nhiều người không thích hút nó cho nhiều vào.
Trương Minh - 06:52 27/04/2014
Bác Xuân Thành rất sùng bái từ điển Hegel (Hegel Dictionary), của Michael Inwood, nhưng khi trích đã cắt xén sao cho có lợi cho cách giải thích của mình. Bạn nào giỏi tiếng Anh xin dịch hộ đoạn sau đây (trong từ điển Hegel của Michael Inwood)! Nếu không tôi sẽ dịch. Xin nói trước, trình độ tiếng Anh của tôi còn rất "thô", bạn Hồng Phúc chê là đúng đấy! http://www.blackwellreference.com/public/tocnode?id=g9780631175339_chunk_g978063117533913_ss1-3 A Hegel Dictionary Edited by: Michael Inwood eISBN: 9780631175339 Extract In German, as in English, ‘ideal’ is both (1) a noun ( das Ideal ) and (2) an adjective ( ideal ). The adjective has a French-derived near-equivalent, (3) ideell. It generates another noun, (4) ( die ) Idealität (‘ideality, the characteristic of being ideal’) and a verb (5) idealisieren (‘to idealize’). 1. In ordinary usage an ideal is a goal or model in any sphere of human endeavour: education, politics, art, science, etc. An ideal may be an abstract conception such as perfect justice, or an imaginary individual (e.g. Plato's ideal state ) or an existing individual (e.g. Socrates) regarded as embodying such a conception. One can rationally pursue an ideal even if one does not believe that one can fully realize it or even that it is realizable at all, as long as one believes that the pursuit will lead one closer to the ideal. For Kant, an Ideal is an individual conceived as fully conforming to an idea . Thus there are pure ideals (e.g. God, the highest good) and empirical ideals (e.g. perfect beauty, perfect happiness). Such ideals have no objective reality, but they regulate our cognitive and practical endeavours. Hegel uses das Ideal in a similarly wide sense in early works (e.g. Christ as a personified ideal) and in discussing the views of others. But his own preference is to give Ideal an exclusively aesthetic sense.
tuấn khải - 09:18 27/04/2014
Tôi khá thất vọng về chất lượng của cuộc thảo luận! Chỉ duy nhất có bạn Xuân Thành là đi vào vấn đề,đọc và tìm hiểu nghiêm túc. Bạn Trương Minh thì khá kiên trì, nhưng thiếu căn bản triết học, đọc một đoạn Từ điển cũng không trôi mà cứ cãi bướng, khích bác. Sao lại bảo "sùng bái" Từ điển? Học mà không dùng từ điển là thói quen rất tệ của người Việt, cứ phán bừa rồi chia phe cãi nhau! Chẳng ra làm sao cả! Có lẽ nên khép lại cuộc trao đổi ở đây thôi, mỗi người cố tự học thêm cho có căn bản, trước khi đi vào đề tài quá khó cho những người "tay ngang" như phần lớn chúng ta ở đây. Tôi rất đồng cảm với bạn Minh Đức về nỗi buồn trước "thảm cảnh" của giới nghiên cứu VN! Biết bao giờ chúng ta mới đủ trưởng thành và đủ sức trao đổi với nhau như những "chuyên gia"? Nền giáo dục này làm hỏng hết rồi, mỗi người hãy lo 'tự cứu" thôi, nếu thật tâm tha thiết với triết học, khoa học.Trước mắt, tôi xin đề nghị bạn Xuân Thành hay admin THedu tập hợp các còm của bạn Xuân Thành bàn về thuật ngữ Ideality thành một bài, chẳng hạn với nhan đề: "Lý tưởng" hay "Ý thể"? đăng trên triethocedu để lưu lại lâu dài, hơn là nhọc công "đàn gãy tai trâu" như thế này. Xin cám ơn và kính chào!
Trương Minh - 09:22 27/04/2014
Đoạn trích trong từ điển Hegel của Michael Inwood nói trên bác bỏ hoàn toàn nhận định sau đây của bác đấy bác Xuân Thành ạ! Tôi đang chờ có ai dịch hộ không, nếu không tôi sẽ dịch và chứng minh điều đó! "Câu chuyện thật ra không khó hiểu lắm, nhưng trở nên rắc rối và dễ gây hiểu lầm là vì thuật ngữ tiếng Đức của Hegel có hai từ khác nhau: das Ideal (cái lý tưởng) /ideal (tính từ) và ideell (thuộc về Idee/Ý niệm, từ đó đẻ ra từ Idealitaet/ideality!), trong khi tiếng Anh chỉ có một từ là ideal cho cả hai nghĩa! Không am tường tiếng Đức (của Hegel!) thì hiểu nhầm là ...dễ hiểu. Trong tiếng Đức thông dụng, ideal và ideell không khác mấy, trừ khi chữ ideal mang nghĩa "lý tưởng" nhưng trong thuật ngữ Hegel phải phân biệt cho kỹ! - chữ Đức Ideal/ ideal(lý tưởng), nơi Hegel, chỉ dùng duy nhất cho mỹ học và nhất là nghệ thuật: "thuộc về lý tưởng hay thuộc vể Ý niệm cái Đẹp".
mai nương - 10:07 27/04/2014
Đồng ý với bạn Tuấn Khải và chia xẻ nỗi buồn chung với bạn! Nên tạm khép lại "diễn đàn: ở đây thôi! Cám ơn và ...tội nghiệp cho công sức của bạn Xuân Thành! (Tôi rất bất bình trước còm hỗn hào, vô luận cứ của bạn Lê Quang Hồ! Lối còm của bạn Hồ là tiêu biểu cho việc điếc không sợ súng, chửi chơi sướng miệng theo cảm xúc nhất thời. Tôi dị ứng với lối còm này ngang với lối còm cả vú lấp miệng em kiểu tuyên giáo inquisitor mông muôi! Thôi hổng nói nữa để không khéo trở thành như bọn họ!).
tuấn khải - 10:28 27/04/2014
Thôi bạn Trương Minh ơi, bạn đọc không thủng nghĩa mà cứ nói ngang xương đòi "đánh đổ hoàn toàn"!! Bạn mới đọc đoạn đầu của mục từ với nội dung : 1.In ordinary usage (Trong cách sử dụng thông thường!). Nhưng ngay trong đoạn mở đầu này, Inwood đã nói rõ: Hegel dành riêng chũ Ideal (lý tưởng) cho mỹ học (But his own preference is to give Ideal an exclusively aesthetic sense). Chẳng lẽ BKT 1 (Khoa học lô gíc) là...mỹ học? Chuyện sờ sờ thế mà cứ cải bướng! Bạn trích dẫn thì hãy tự lo dịch lấy mà hiểu chứ nhờ ai? Hay bạn sẽ dịch Capital của Marx thành ...Thủ đô như bản tin TTXVN mấy hôm vừa rồi! Chấm dứt ở đây là vừa!
văn tèo - 11:46 27/04/2014
Một đàng thằng ngọng đứng xem chuông Chúng bảo nhau rằng ấy..ái...uông! (Không biết nên tặng hai câu Hồ Xuân Hương này cho ai đậy?! Không khéo ông Trương Minh nở đóa đòi "đánh đổ hoàn toàn" cái ái...uông!)
Trương Minh - 16:36 27/04/2014
Do biết mình còn rất “thô” trong việc dịch tiếng Anh, nhưng chờ mãi không thấy ai dịch hộ. Thôi thì “thô” cũng được, mong sao ý không sai là được! Đoạn triếng Anh trích trong “Từ điển Hegel của Michael Inwood” nói trên có thể dịch “thô” như sau: Trong tiếng Đức cũng như trong tiếng Anh, “ideal” [cái lý tưởng] vừa là danh từ vừa là tính từ, [đều viết là] “ideal”. Tiếng Pháp có tính từ “ideell” gần như là đồng đẳng với [khái niệm] ideal. [Khái niệm] “ideal” (cái lý tưởng) đẻ ra một danh từ khác, tiếng Đức là “Idealität”, tiếng Anh là “ideality” [tính lý tưởng] (tính lý tưởng là đặc tính trở thành cái lý tưởng), động từ của nó là “idealisieren” [thực thi, hiện thực hóa cái lý tưởng]. Thông thường, cái lý tưởng (ideal) được hiểu như là mục đích hoặc mẫu hình trong các lĩnh vực hoạt động của con người: trong giáo dục, trong chính trị, trong nghệ thuật, trong khoa học.... “Cái lý tưởng” có thể là một khái niệm trừu tượng như “sự công bằng hoàn hảo” hoặc một sự vật đơn nhất tưởng tượng (ví dụ nhà nước lý tưởng của Plato) hoặc một cá nhân đang tồn tại (ví dụ, Socrates) với tư cách là hiện thân của cái lý tưởng. Con người có thể theo đuổi cái lý tưởng một cách hợp lý thậm chí ngay cả khi không tin tưởng rằng có thể biến nó thành hiện thực một cách đầy đủ hoặc toàn bộ cái lý tưởng đó sẽ được hiện thực hóa. Chừng nào con người còn tin như vậy thì sự theo đuổi sẽ hướng con người tiến gần đến cái lý tưởng. Đối với Kant, cái lý tưởng là [một sự vật, một ngôi vị] đơn nhất hoàn toàn tương đồng với ý niệm. Đó có thể là những cái lý tưởng thuần khiết (ví dụ Thượng Đế, lợi ích tối thượng) hoặc các lý tưởng được trải nghiệm (ví dụ, cái đẹp hoàn hảo, sự hạnh phúc hoàn hảo); chúng điều tiết nhận thức và các nỗ lực thực tiễn của chúng ta. Hegel sử dụng “das Ideal” [thuật ngữ “cái lý tưởng”] giống như cái nghĩa rộng [nêu trên] trong các tác phẩm đầu tay (ví dụ, “Đức Chúa Christ với tư cách là cái lý tưởng được nhân cách hóa”) và trong sự tranh luận về quan điểm của những người khác. Song sự ưa chuộng [sở thích] riêng của ông là gắn cái hàm nghĩa chuyên về thẩm mỹ cho “cái lý tưởng”. Từ đoạn dịch trên, chúng ta thấy: Theo Ngài Michael Inwood thì: 1) Thuật ngữ ideell, có nguồn gốc từ tiếng Pháp! 2) Thuật ngữ Ideal [cái lý tưởng] đẻ ra thuật ngữ tiếng Đức là “Idealität”, tiếng Anh là “ideality” [tức chúng ta phải dịch nó là “cái lý tưởng”] (nói trái với bác Xuân Thành, theo bác Xuân Thành thì thuật ngữ ideell thuộc về idee và nó mới là “bố đúng thật” của thuật ngữ tiếng Đức là “Idealität”, tiếng Anh là “ideality”, do đó chúng ta phải dịch nó là “tính ý thể”). 3) Theo bác Xuân Thành, thuật ngữ Đức Ideal/ ideal (với tư cách là “lý tưởng”), nơi Hegel, chỉ dùng duy nhất cho mỹ học, thì ông Michael Inwood lại cho rằng “Hegel sử dụng “das Ideal” [thuật ngữ “cái lý tưởng”] giống như cái nghĩa rộng [nêu trên] trong các tác phẩm đầu tay (ví dụ, “Đức Chúa Christ với tư cách là cái lý tưởng được nhân cách hóa”) và trong sự tranh luận về quan điểm của những người khác”. 4) Ông Michael Inwood chỉ nói Kant là người gắn ideal với ý niệm, chứ không nói nói gì đến Hegel trong việc này! 5) Chính bản thân bác Xuân Thành cho biết: “Trong tiếng Đức thông dụng, ideal và ideell không khác nhau mấy, trừ khi chữ ideal mang nghĩa "lý tưởng"”! Vậy thì xin bác cho biết trong tiếng Đức thông dụng hai thuật ngữ này không khác nhau mấy là ở cái nghĩa nào, nếu không phải ở cái nghĩa là cái, tính lý tưởng? Nói cách khác, cái nghĩa thông dụng giống nhau giữa hai thuật ngữ này là gì? Tôi chịu không tìm ra sự giống nhau này! Kính bác!
tuấn khải - 00:55 28/04/2014
PHÚC THỐNG PHỤC NHÂN SÂM!!! Bác Trương Minh biết chuyện tiếu lâm này không: bệnh nhân đau bụng, thầy lang lật sách ra tra, bèn hớn hở phán ngon lành: uống nhân sâm sẽ khỏi! Uống xong, bệnh nhân lăn đùng ra chết! Thầy lang phân bua: sách dạy rành rành đây này : phúc thống phục nhân sâm! (đau bụng uống nhân sâm!). Thầy đồ bảo lật tiếp trang sau, té ra còn hai chữ: tắc tử! (ắt chết!). Vụ "ideal" này ngó bộ cũng "tắc tử " quá! Đầu tiên, người ta liệt kê 5 từ trong từ điển thông dụng có liên quan đến "ideal", chưa giải nghĩa ,rối mới nói cách dùng của chúng trong ngôn ngữ thông dụng và nơi Hegel thời trẻ (số 1), sau đó mới lần lượt giảng nghĩa 4 từ còn lại THEO CÁCH DÙNG CỦA HEGEL(tôi nhấn mạnh) gồm: 2. nghĩa tính từ ideal trong Hegel (tôi nhấn mạnh) 3. nghĩa của tính từ ideell trong Hegel (tôi nhấn mạnh) 4. nghĩa của danh từ Idealitaet trong Hegel (tôi lại nhấn mạnh!!0 5. sau cùng, nghĩa của động từ idealisieren trong Hegel (tôi nhấn mạnh lần chót !!!) Nghĩa 5 từ ấy như thế nào TRONG HEGEL thì đọc tiếp phần ..."tắc tử" trong Từ điển Inwood (tr 126-127-128, hoặc nếu nuốt không trôi thì ráng đọc phần tóm tắt của bác Xuân Thành ở trên. Khổ thế đấy, mới đọc loáng thoáng phần (1) In ordinary usage (trong lối sử dụng thông thường) đã vội ồ lên như thầy lang cho uống nhân sâm! Tôi không trách bác kém tiếng Anh, tôi chỉ trách bác "hay chữ lỏng" mà khoác lác, nói bừa, biến diễn đản triethocedu thành nơi tấu hài. Láu táu, háo thắng , học vấn lổ mỗ, chưa sạch nước cản thì không nên bàn triết học và làm...thầy lang! Tôi bực và giận, nên buộc phải nặng lời, bác đừng trách tôi. Thôi! ngừng lại! Đóng cửa đọc sách 10 năm rồi hãy nghị luận với bậc cao sĩ, đùng cãi nhây làm phiền thiên hạ.
Trương Minh - 06:21 28/04/2014
Thực ra, bản chất vấn đề sử dụng thuật ngữ "ideal" [cái lý tưởng] là ở chỗ, cùng một tên gọi nhưng cách hiểu rất khác nhau. Cách hiểu thông thường thì người ta quan niệm "cái lý tưởng" theo sắc thái ít nhiều mang tính chủ quan, tùy tiện, như là mục đích thuần túy của con người hoặc phụ thuộc vào quan niệm chủ quan của con người về "chân, thiện, mỹ". Kant và đặc biệt là Hegel, không chấp nhận cách hiểu đó. Theo Hegel, "cái lý tưởng" chính là khái niệm của sự vật, và khái niệm của sự vật thì là "linh hồn", "quy luật vận động khách quan" của sự vật chứ không phải là quan niệm chủ quan của chúng ta về sự vật. "Cái thực tại" mà trùng khớp với "khái niệm" của nó thì nó đồng thời cũng là "cái lý tưởng". Ở cái nghĩa này thì bác Xuân Thành có lý khi cho rằng khái niệm "cái lý tưởng" của Hegel gắn bó mật thiết với ý niệm (idea, idee)! Cả năm cái nghĩa trong "Từ điển Hegel" của Michael Inwood là hàm nghĩa về điều đó. Trong tiếng Đức thông dụng, ideal và ideell không khác mấy chính là ở cái tên gọi! Sự khác nhau giữa Hegel và mọi người chính là ở cách hiểu! Cho nên, khi dịch thuật ngữ ideell trong "Khoa học logic" của Hegel, phải dịch là "cái lý tưởng" và việc chú giải cách hiểu của Hegel là rất cần thiết! Bạn Tuấn Khải nên bình tĩnh! Mất bình tĩnh, nổi nóng, không phải là bản lĩnh của những người hiểu biết sâu sắc! Việc mở mục "Ý kiến bạn đọc" của triethoc.edu.vn" là rất quan trọng, giúp chúng ta tranh luận, trao đổi xung quanh các vấn đề của triết học. Cách học nhanh nhất là thông qua tranh luận, trao đổi một cách từ tốn, lịch sự! Chúng ta cần tôn trọng không chỉ ý kiến đúng mà còn cả ý kiến sai! Nhờ ý kiến sai mà chúng ta mới nhìn rõ chân lý! Tôi nhất trí, có lẽ chúng ta nên dừng ở đây, nhưng đề nghị triethoc.edu.vn mở ra một chuyên mục, đại ý "Chúng ta hiểu được gì qua đọc "Khoa học logic" của Hegel"" để cùng giúp nhau tiếp cận với một tác phẩm triết học hết sức sâu sắc này! Chúng ta cần cám ơn cả ông Bùi Văn Nam Sơn và ông Phạm Chiến Khu, những người đã cố gắng chuyển tải "Khoa học logic" của Hegel ra tiếng Việt theo cách hiểu của mình! Hãy cố gắng tìm ra các "hạt nhân hợp lý" trong bản dịch của mỗi ông vì điều đó sẽ chúng ta nhanh tiến đến chân lý!
Nguyễn Tài - 09:15 28/04/2014
Mặc dù cũng đã "dày công" nghiên cứu triết học và cũng đã có được học vị thạc sỹ triết học, nhưng em tự thấy mình còn non lắm nên từ đầu đến giờ chỉ theo dõi các bác tranh luận, không dám phát biểu gì! Đề nghị bác Trương Minh nên tiếp tục cuộc tranh luận vì bản thân em thấy rất bổ ích và "vỡ" ra được nhiều điều! Ba năm nay em ôm cuốn sách "Khoa học logic" của Heghel do ông Bùi Văn Nam Sơn dịch, đọc đi, đọc lại nhiều lần mà hầu như chẳng hiểu gì cả bởi có nhiều thuật ngữ mới lạ quá, từ trước đến nay hầu như không thấy trong sách triết học bằng tiếng Việt! Bác Trương Minh giải thích nhiều điều thấy rất có lý. Ví dụ tại sao ông Khu dùng thuật ngữ Bậc mà không dùng thuật ngữ Độ như ông Sơn; tại sao các nhà dịch sách triết học kinh điển không dùng các thuật ngữ CÁI BIẾT, CÁI ĐÚNG THẬT, TÍNH Ý THỂ...; tại sao dịch "đầu cơ trong hôn nhân và kinh doanh" là đúng và dịch "tiến tới trong hôn nhân và kinh doanh là sai".... Bác đừng giận những kẻ như Tuấn Khải. Theo kinh nghiệm của em, những người hiểu biết ít, quan niệm trắng - đen rất rõ ràng, đã trắng thì chỉ có trắng, đã đen thì chỉ có đen, chứ không thấy được trong trắng có đen và trong đen có trắng! Chính vì thế mà họ rất dễ nổi nóng khi thấy ai đó nói trái với quan niệm của mình! Thằng hàng xóm nhà em chẳng học hành gì, một hôm, khi cãi lý với ông giáo (dạy đại học) cùng khu phố, nó đấm cho ông cụ một quả gẫy mấy cái răng! Đấy bác xem, trình độ tiếng Anh của Tuấn Khải như thế này đây (trích trong đoạn comment ở trên của Tuấn Khải: "Nhưng ngay trong đoạn mở đầu này, Inwood đã nói rõ: Hegel dành riêng chũ Ideal (lý tưởng) cho mỹ học (But his own preference is to give Ideal an exclusively aesthetic sense)". Trong khi bác nói bác kém tiếng Anh, thì lại dịch đúng hơn: "Song sự ưa chuộng [sở thích] riêng của ông là gắn cái hàm nghĩa chuyên về thẩm mỹ cho “cái lý tưởng”"! Mong bác tiếp tục tranh luận để chúng em học hỏi! Kính bác!
Lê Ngọc Thường - 10:12 28/04/2014
Tán thành ý kiến của bạn Nguyễn Tài, đề nghị bác Trương Minh tiếp tục tranh luận!
phan huy - 12:05 28/04/2014
Tôi thấy Từ điển nói rất rõ: ideal theo nghĩa "lý tưởng" ('ideal. exemplary, model) chỉ được Hegel dùng trong mỹ học. Còn ideell thì khác với ideal. Ideell (và Idealitaet) là cái gì manh tính "ý niệm" , tuy dùng tương phản với real hay rell (yhu85c tại) , nhưng không đơn giản (not mean simply) là "ý niệm" hay "hiện thân của Ý niệm", bởi Ý niệm không (đơn giản ) tương phản với real (thực tại), trái lại, Ý niệm (trọn nghĩa) là sự thống nhất giữa ideell và real. Thành thử nếu xem "Ý niệm (theo nghĩa "lý tưởng" ) đối lập với "thực tại" (real) là tách rời hai cái một cách siêu hình. Do đó, ideell /Idealitat chỉ muốn nói: real chỉ là một mômen sẽ/phải được vượt bỏ trong Khái niệm, (Ý niệm). Idealisieren (idealizing) không có nghĩa thông thường của việc xem cái gì đó như là "lý tưởng" hay "mẫu mực", mà như là việc làm cho cái gì đó (real) trở nên có tính Ý niệm, tức nhận ra rằng cái "thực tại hữu hạn" ấy chỉ là một mômen sẽ và phãi bị vượt bỏ (It does not have the usual sense of treating or regarding as ideal or exemplary, but that of making soething i"ideell") . Vì thế, cái Tôi hay Tinh thần , khi tiếp cận thế giới khách quan một cách lý thuyết hay thực tiễn, là biến thế giới ấy hay làm cho thế giới trở nên mang tính Ý niệm [tức cho thấy thế giới khách quan/thực tại chỉ là mômen sẽ được Khái niệm (Ý niệm) thâm nhập]. Ngay cả nơi sinh vật, thì linh hồn hay Khái niệm cũng không ngừng tham gia làm cho hay giữ cơ thể và những bộ phận của nó mang tính ideell [Ý niệm]; sinh thể sẽ chết nếu hoạt động này ngừng lại. ( Thus the I or the mind, in its intellectual and practical encounters with the objective world, make it ideal.Even in the case of a living creature the soul or concept is continually at work making or keeping the body and its parts "ideell".; the creature dies if thisactivity ceases). Như thế, "make ideal", nếu dịch là " làm cho nó thành "lý tưởng" thì hoàn toàn phản nghĩa (xem thực tại là "lý tưởng"/model, exemplary, trong khi lẽ ra phải xem nó chỉ như một mômen sẹ bị thải hồi, vượt bỏ (theo nghĩa của Aufheben). Nếu dịch ideell/Idealitaet là "tính Ý niệm" thì dễ hiểu hơn, nhưng dịch là "tính ý thể" thì thâm thúy hơn. Dịch là "lý tưởng" thì đễ gây hiểu lầm với lý do đã nói ở trên, trừ khi hiểu theo nghĩa "bóng bẫy", nhưng không đúng với tinh thần và cách viết chặt chẽ của Hegel ở đây. Tôi thấy nên đọc và dịch trọn vẹn mục từ "idel" này mới rõ dược (cả hai mục từ liên quan: idea và idealism).
xuân thành - 12:35 28/04/2014
Tôi đồng ý với với bác Phan Huy!
phan huy - 19:11 28/04/2014
Tôi nói thêm: từ đó mới thấy hết sự sâu sắc trong câu dịch của ông BVNS về đoạn văn của Hegel trong tiểu đoạn này. và phải chú ý từng chữ mới hiểu được, tôi thêm ngoặc vuông để làm rõ thêm: " Trong tồn tại-cho-mình, quy định về tính ý thể đã vào cuộc [nghĩa là, bây giờ ta mới cần du nhập phạm trù tính ý thể để lý giải chân tướng của cái tồn tại-cho mình, tức cái hữu hạn]. Tồn tại hiện có [Dasein] thoạt đầu [chữ "thoạt đầu" là hết sức quan trong!] chỉ được nắm lấy dựa theo tồn tại hay sự khẳng định của nó [tức thoạt đầu trong phạm trù "thực tại"/reality, đã bàn ở các tiểu đoạn trước], còn {cũng chính ] thực tại [này], [và], do đó, tính hữu hạn của nó thoạt đầu [lại chú ý chữ "thoạt đầu", nghĩa là chưa phát triển] cũng có sự quy định của thực tại [cứng nhắc, đối lập với cái vô hạn]. Nhưng, chân lý [ hay sự thật] [ngoặc vuông này của BVNS] của cái hữu hạn [lại] chính là tính ý thể của nó ". Câu cuối rất quan trọng, và dễ hiểu lầm. Tại sao ông BVNS lại mở ngoặc vuông : "chân lý [hay sự thật] của cái hữu hạn..."? Vì ""chân lý" ở đây phải hiểu theo nghĩa: "trong sự thật", "trong chân tướng", "thật ra chính là" : cái hữu hạn lộ chân tướng là cái gì không thể được "nắm lấy như thoạt đầu " ở trong quy định cứng nhắc của thực tại', trái lại, "quy định thoạt đầu" này là cái gì phải được thãi hồi-vượt bỏ (sublated= ideell] để thống nhất với Khái niệm. Bây giờ, ta mới thấy sự quan trọng việc hiểu và dịch từ "truth" theo hai sắc nghĩa: chân lý và chân tướng [nôm na: bộ mặt thật!] ,(ông BVNS dịch là "sự thật". "trong tính đúng thật").
Nguyễn Tài - 19:53 28/04/2014
Hình như bạn Lê Ngọc Thường đã trích đoạn dịch này ở trên, so sánh giữa 3 ông: ông Wallase, ông Sơn và ông Khu. Tôi xin copy lại xuống đây, để thấy sự dịch sai của ông Bùi Văn Nam Sơn! Đó là có một câu cụt, chẳng rõ nghĩa gì. Tại sao có câu cụt "còn [tính] thực tại (xem §91)"? Tại sao đến đây thì hết! Phải trả lời câu hỏi thì sao chứ? Bản dịch của Wallace: In Being-for-self enters the category of Ideality. Being-there-and-then, as in the first instance apprehended in its being or affirmation, has reality (§ 91); and thus even finitude in the first instance is in the category of reality. But the truth of the finite is rather its ideality. Ông Bùi Văn Nam Sơn dịch: Trong tồn tại-cho-mình, quy định về tính ý thể đã vào cuộc. Tồn tại- hiện có (Dasein), thoạt đầu chỉ được nắm lấy dựa theo tồn tại hay sự khẳng định của nó, còn [tính] thực tại (xem §91), do đó, tính hữu hạn thoạt đầu cũng ở trong sự quy định của thực tại. Nhưng, chân lý [hay sự thật] của cái hữu hạn thực ra là tính ý thể của nó. Ông Phạm Chiến Khu dịch: Trong tồn tại vì mình, hiện diện quy định cái lý tưởng. Tồn tại hiện có, trước hết, chỉ được nắm bắt dưới góc độ tồn tại của nó, hay tính khẳng định của nó, đó là cái thực tại (xem §91), và do đó, tính hữu hạn, trước hết, cũng thể hiện trong quy định cái thực tại. Nhưng, chân lý của cái hữu hạn, ngược lại, là cái lý tưởng của nó. Không hiểu sao đoạn dịch của ông Sơn lủng củng và tối nghĩa thế! Chân lý khác sự thật đấy, hai thuật ngữ này không giống nhau đâu!
Nguyễn Tài - 20:09 28/04/2014
Lấy ví dụ về sự khác nhau giữa chân lý và sự thật: Tên Lê Văn Luyện giết cả nhà một chủ tiệm vàng là sự thật! Tên Lê Văn Luyện giết cả nhà một chủ tiệm vàng là chân lý!
mai nương - 22:46 28/04/2014
Đúng là đàn gãi tai trâu! Phí lời thôi , hai bác Xuân Thành và Phan Huy ơi!
hong phuc - 23:24 28/04/2014
Cuộc tranh luận càng ngày càng thú vị, xuất hiện những ý kiến đi vào chiều sâu và đầy tinh tế, như của bác Phan Huy. Nếu được, tôi xin đề nghị: Để tránh tình trạng lan man và vụn vặt, các bác hãy tập hợp ý kiến của mình lại viết thành bài hoàn chỉnh thì sẽ hay hơn nhiều và đảm bảo tính nghiêm túc hơn nhiều. Hy vọng những người có nội lực thâm hậu như bác Phan Huy sẽ có bài phân tích cực hay về cách dùng chữ của cụ Sơn trong việc dịch Hegel. Còn những ý kiến khen ông Khu và chê cụ Sơn, tôi thấy giống nhau ở mấy điểm sau: - Đọc không thông tiếng Anh, và hầu như chưa ai có trong tay quyển A Hegel Dictionary của M. Inwood. Từ điển đọc chưa thông thì đừng mơ chuyện hiểu kinh điển. -Đều cùng tiền giả định rằng cách dùng chữ nghĩa của các nhà dịch kinh điển Mác-Lê là chân lý, mọi sự khác đi đều sai lầm. Bản tính và hậu quả của quan niệm này đối với hoạt động dịch thuật như thế nào không phải là điều khó hình dung. - tiêu chuẩn đánh giá của quý vị là DỄ HIỂU. Dễ hiểu hay khó hiểu chỉ là những từ ngữ rỗng, bởi vấn đề của hiểu là sai hay đúng chứ không phải dễ hay khó. Các vị có tiền giả định và tiêu chuẩn có thể chấp nhận được nào khác hay không?
Trương Minh - 23:25 28/04/2014
Bạn Phan Huy càng nói, càng chứng tỏ bạn hiểu chưa nhiều và còn có chỗ chưa đúng về Hegel! Theo Hegel, "tồn tại cho mình" hay "tồn tại vì mình" chính là cái vô hạn mà ví dụ gần nhất của nó là cái "Tôi" (nói cho dễ hiểu hơn, tồn tại vì mình đích thực, chính là loài người, chính là nhân cách đấy bạn Phan Huy ạ)! Tại sao bạn lại bảo nó là cái hữu hạn! Bạn nói như thế này đây: [nghĩa là, bây giờ ta mới cần du nhập phạm trù tính ý thể để lý giải chân tướng của cái tồn tại-cho mình, tức cái hữu hạn]. Theo Hegel (bạn có thể tìm thấy trong "Khoa học logic" của ông), "tồn tại vì mình" là chất hoàn thiện, có nghĩa trong sự biến đổi, trong sự vận động tiếp theo của nó, nó luôn bảo tồn được chính mình, không bị biến thành cái khác như tồn tại của thế giới vô cơ! Nếu như sự vật của thế giới vô cơ, trong sự vận động của nó, tất yếu sẽ đánh mất mình và chuyển hóa thành cái khác thì "tồn tại vì mình", trong sự vận động của nó, nó chỉ chuyển hóa vào chính nó, tức vẫn bảo tồn được bản thân mình. Chính vì thế sự vận động của "tồn tại vì mình" không còn là sự chuyển hóa thành cái khác mà là sự phát triển! Theo Hegel, "chân lý của cái thực tại là cái lý tưởng" có nghĩa là gì? Có nghĩa, suy đến cùng, cái thực tại tất yếu sẽ phải vận động tuân theo khái niệm (tức cái lý tưởng) của nó. Nên nhớ Hegel đồng nhất cái lý tưởng của sự vật với khái niệm khách quan, đích thực của sự vật, chứ không phải với quan niệm chủ quan của chúng ta! Bạn có nói đến thuật ngữ "thải hồi", "vượt bỏ" (ông Khu gọi là "lột xác", "lột bỏ") và bạn, phần nào đã diễn tả đúng được cái nghĩa của từ này. Đó chính là sự phủ định biện chứng, vừa bị phủ định, nhưng đồng thời cũng được giữ lại. Ở đây, giải thích nôm na, để cho dễ hiểu là thế này: "khái niệm", "cái lý tưởng", tức "chân lý" của thực tại sẽ "lột xác", "lột bỏ" cái thực tại, buộc cái thực tại phải vận động, biến đổi như là một chuỗi phán định và suy lý, tức như là khái niệm. Thông qua cái quyền lực như vậy, quyền lực buộc cái thực tại tuân thủ theo mình mà khái niệm (hiện thân của nó là tồn tại vì mình, là loài người, là nhân cách, là cái “Tôi”) bảo tồn được chính mình! Với cái nghĩa như vậy thì khái niệm chân lý khác xa so với khái niệm sự thật! Tôi đã muốn dừng, nhưng khi đọc ý kiến của bạn, buộc phải nói thêm mấy lời! Có gì không phải, xin được lượng thứ!
Trương Minh - 23:54 28/04/2014
Tại sao bạn Hồng Phúc chủ quan thế nhỉ! Tôi xin nêu nguyên xi 5 cái nghĩa của IDEAL trong "Từ điển Hegel" dưới đây để bạn biết tôi đã đọc hết! Bạn giỏi tiếng Anh hãy dịch để mọi người cùng biết có được không? 1. In ordinary usage an ideal is a goal or model in any sphere of human endeavour: education, politics, art, science, etc. An ideal may be an abstract conception such as perfect justice, or an imaginary individual (e.g. Plato's ideal state) or an existing individual (e.g. Socrates) regarded as embodying such a conception. One can rationally pursue an ideal even if one does not believe that one can fully realize it or even that it is realizable at all, as long as one believes that the pursuit will lead one closer to the ideal. For Kant, an Ideal is an individual conceived as fully conforming to an idea. Thus there are pure ideals (e.g. God, the highest good) and empirical ideals (e.g. perfect beauty, perfect happiness). Such ideals have no objective reality, but they regulate our cognitive and practical endeavours. Hegel uses das Ideal in a similarly wide sense in early works (e.g. Christ as a personified ideal) and in discussing the views of others. But his own preference is to give Ideal an exclusively aesthetic sense. It need not refer only to art, but also, e.g., to the beauty of the body as an expression of the spirit, but it is used most frequently in LA. The point of this restriction is this. For Hegel, as for Kant, an Ideal is the embodiment of an idea (Idee) in an individual. But actual individuals such as the state can embody the idea and do not involve the misfit between idea and reality suggested by Ideal, and Hegel, unlike Kant, was averse to imaginary ideal entities that are not, but ought to be, realized. (He saw Plato's state as a description of the Greek city- state, not an ideal.) But a work of art, such as a statue, (a) is an actual sensory individual and thus not a mere ideal; (b) portrays a sensory individual, e.g. a human body, that is ideal with respect to any existing individual of its type, since it lacks defects that any existing individual has; and (c) not only represents the absolute idea in sensory form, but itself exemplifies the idea, since it is a relatively self-contained whole, which sublates the material conditions of its production and whose form and content are in full accord. Thus Hegel equates the idea of beauty, the idea in sensory form, with the Ideal. 2. The adjective ideal (‘pertaining to an Idee or Ideal’) has three senses: (a) ‘ideal, exemplary, model’; (b) in contrast to real, ‘not material, not sense perceptible, etc.’; (c) in contrast to real in another sense, ‘not existing except in thought or imagination’. Hegel uses ideal in sense (b) in discussing the views of others, but his preferred sense is (a), restricted, like Ideal, to aesthetics and especially art: ‘pertaining to the ideal or to the idea of beauty’. (còn tiếp)
Trương Minh - 23:58 28/04/2014
Tiếp: 3. In ordinary German ideell differs little from ideal, except that it is less likely to be used in sense (a) of ideal (‘exemplary, model’). For Hegel, by contrast, ideell is distinct from ideal: ideell is connected with Idee (‘idea’) rather than Ideal, and, of the ordinary senses of ideal, it comes closest to (b). Since ideell contrasts, at least initially, with real or reell (Hegel draws no corresponding distinction between these words), it does not mean simply ‘being or embodying a or the idea’. For the idea does not contrast with the real, but is the unity of the ideal and the real (Enc. I §214). Thus in the Logic Hegel first introduces the ideell in connection not with the idea, but with being-for-itself and infinity. The relation of the ideell to the Idee is this: the idea is the unity of the concept and its reality. The concept (e.g. the seed, the soul) is an intrinsic unity, but is nevertheless concrete, involving diverse aspects or moments which are not yet posited in their full distinctness. The reality (e.g. the plant, the body) is a unity in virtue of the unifying power of the concept, but its diverse aspects are explicitly differentiated. All these items are ideell in different, but related ways: (a) The concept as a whole is intrinsically ideell in contrast to its reality. It is not made ideell by anything else, but is ideell in virtue of its dependence only on itself. The I*, for example, is ideell, since it exists only in virtue of its awareness of itself. (b) An aspect of the concept is ideell, both because it is only an aspect, not the whole concept, and because it is not yet realized: e.g. in the seed, blood is only ideell. (c) The reality is ideell in virtue of its dependence on the concept or it is made ideell by the concept. It does not thereby cease to be real: its reality is sublated in its ideality. (d) An aspect of the reality is ideell in virtue of both its dependence on the concept and its dependence on the whole of which it is a part: e.g. a severed limb cannot survive as a living organ. Hegel often equates the ideell with what is sublated: reality and its parts are sublated by the concept. He also associates it with infinity: the finite parts of reality are sublated into the self-contained whole pervaded by the concept. The notion of the ideell applies to anything that exemplifies the idea: the world as whole, large phases of the world such as the logical idea, and items within the world such as life, the mind and the state. It is the central concept of Hegel's idealism. (Occasionally Hegel uses ideell in a sense that has no clear relation to his sense of Idee: e.g. space and time are ideell, in contrast to bodies, in virtue of their lack of solidity, though they are not thereby non-existent or merely subjective.) (còn tiếp)
Trương Minh - 00:00 29/04/2014
Tiếp: 4. Idealität in philosophy is the characteristic of being ideal, but in contrast to ‘real’ and ‘reality’, not in the sense of ‘exemplary’. Thus for Kant to believe that the existence of external objects is doubtful is to ascribe Idealität to them and constitutes (one type of) idealism with respect to them. He ascribes ‘transcendental Idealität’ to space and time, and thus endorses transcendental idealism with respect to them. For Hegel Idealität is the characteristic of being ideell, usually in Hegel's preferred sense, and to ascribe ideality to a type of entity constitutes idealism with respect to it. 5. Hegel occasionally uses idealisieren or Idealisierung (‘idealizing’), and often employs the concept without using the word. It does not have the usual sense of treating or regarding something as ideal or exemplary, but that of making something ideell. The idea is a continuous process of idealizing or making things ideal, rather than a static result. Thus the I or the mind, in its intellectual and practical encounters with the objective world, makes it ideal. Even in the case of a living creature the soul or concept is continually at work making or keeping the body and its parts ideell; the creature dies if this activity ceases. This exemplifies Hegel's belief that the world and significant items within it, notably humans, are in (or simply are) unremitting tension and activity, a belief that goes back to Heraclitus, but persisted in Neoplatonism.
hong phuc - 00:58 29/04/2014
Tôi nói là ĐỌC KHÔNG THÔNG, chứ không phải là ĐỌC HẾT hay KHÔNG HẾT. Đọc hết thì trẻ con đọc cũng hết; đọc thông thì cấp độ hoàn toàn khác. Xin lỗi, một câu tiếng Việt đơn giản của tôi mà bác còn hiểu sai như thế làm sao ai có thể tin được việc bác hiểu Hegel là đúng? Lỗi này của bác phản ánh một thực trạng rất chung là chúng ta cứ thích bàn chuyện cao siêu nhưng lại hay sai ở những gì đơn giản nhất. Điều đơn giản đã sai thì lấy cơ sở nào để tin những bàn luận về điều phức tạp, tinh tế là đúng hở bác Trương Minh?
hong phuc - 01:18 29/04/2014
Nhân tiện, tôi cũng muốn nói những nhận xét của bác Phan Huy rất sâu sắc, có lẽ nền học vấn của bác ấy là do các nước tiên tiếng đào tạo, chứ không phải học ở trong nước.
Nguyễn Tài - 07:06 29/04/2014
Thật đáng buồn cho bạn Hồng Phúc, có những cái bạn Trương Minh và các bạn khác nêu ra tôi cũng chưa tin lắm và đang tìm cách tìm hiểu thêm xem có đúng hay không. Nhưng nhiều cái nêu ra rất chí lý, rất bổ ích (ví dụ khải niệm BẬC ở ông Khu và ĐỘ ở ông Sơn...)! Bạn nói ông Trương Minh tiếng Anh kém mà dịch câu "But his own preference is to give Ideal an exclusively aesthetic sense" thành "Song sự ưa chuộng [sở thích] riêng của ông là gắn cái hàm nghĩa chuyên về thẩm mỹ cho “cái lý tưởng”" khá chuẩn, trong khi cả bác Xuân Thành và một số bạn của bác dịch theo cái nghĩa, đại ý "chỉ duy nhất dùng thuật ngữ này trong mỹ học"! Ông Trương Minh "ít hiểu biết" mà chỉ được ra rất nhiều chỗ dịch không đúng của bác Bùi và bây giờ là cái sai của bác Phan Huy (khi coi "tồn tại để cho mình" là cái hữu hạn"! Chúng ta hãy bình tĩnh, chớ có coi thường các dịch giả đã dịch các bộ sách kinh điển của Mác, Ăngghen và Lênin, trong đó có cụ Trần Đức Thảo và cả ông Hoàng Minh Chính nữa đấy! Bạn nên nhớ rằng các thế hệ mai sau sẽ giỏi hơn chúng ta nhiều, kể về mặt kiến thức triết học và ngoại ngữ! Tác phẩm dịch của ông Sơn và ông Khu đã xuất bản thành sách rồi, "bút sa, gà chết", họ sẽ đánh giá khách quan cái gì ở ông Sơn, ông Khu là đúng và cái gì ở ông Khu, ông Sơn là sai! Tôi xin nhấn mạnh rằng, chúng ta cần coi trọng tư duy "phê phán", hay nói cho nó lịch sự hơn là tư duy "phản biện". Ông Sơn và ông Khu là những người rất đáng kính, nhưng không có nghĩa là chúng ta không được nêu những chỗ dịch sai của các ông ấy! Tôi đang mong có một ông thứ ba dịch lại "Khoa học logic" của Hegel trên cơ sở kế thừa bản dịch của ông Sơn và ông Khu! Bác Hồng Phúc mà làm chính trị, chắc bác sẽ bỏ tù hết những ai nói khác với bác! Xin bác tha lỗi nếu tôi nói quá!
hong phuc - 11:17 29/04/2014
Những gì quý vị thấy "đáng buồn" cho tôi phản ánh tình trạng đáng buồn của tư duy của quý vị, bác Nguyễn Tài ạ. Những gì tôi nói đều cực kỳ đơn giản, quý vị còn hiểu sai, tán nhảm, thêm thắt tùy tiện đến thế thì quý vị lấy tư cách gì mà bàn chữ nghĩa của Hegel? Nếu quý vị không rành tiếng Nga thì quý vị không xứng để khen ông Khu dịch đúng. Nếu quý vị không thông tiếng Đức thì việc quý vị chê cụ Sơn dịch sai chỉ là trò nhảm nhí mà thôi. Quý vị hãy nhìn lại quý vị xem xét ở tiêu chuẩn tối thiểu thì quý vị có đủ tư cách cầm cân nảy mực để phán kẻ đúng người sai không? Đương nhiên quý vị có thể làm như thế nếu quý vị coi mình thuộc hạng điếc không sợ súng.
văn tèo - 00:50 30/04/2014
Không biết mà chịu học thì dễ tiến bộ. Nhưng sẽ không học được gì nếu cứ tưởng rằng mình đã biết rồi! Hegel, trong Lời Tựa HTHTT, đã cảnh báo: cái quen thuộc sở dĩ không được nhận thức , chính là vì nó quen thuộc! Quen thuộc vì học sai, hiểu sai từ những ông thầy học sai, hiểu sai truyền lại! - Mẹ ơi! ông Trương Minh được học như thế này: "theo Hegel [????], tồn tại cho mình là cái vô hạn", "là chất hoàn thiện", v.v..Tôi đố ông biết "theo Hegel", cái vô hạn là cái gì? Ông có bao giờ nghe đến chữ "tự mình-và-cho-mình" (an-und-fuer-sich-selbt", "bei sich selbst/ (being -at-home-with oneself),'zu sich (coming to oneself) IN THE OTHER không? Thật ra lỗi tại các ông thầy LX của ông, thôi ! Ông biết tại sao không? Tại sao họ chỉ thích lý giải "giai cấp tự mình" (chưa được đảng giác ngộ!) rồi dừng lại ở "chất hoàn thiện" là "giai cấp cho mình" (được giác ngộ vùng lên !) mà không nói gì nhiều về "cái vô hạn đúng thật " :"coming to oneself in the other"? Ông thuộc bài Plechanov chưa? Ông đọc câu này chưa: ""Thus in the Logic, Hegel FIRST introduces the "ideell" in connection NOT with the idea, but with the being-for-self AND infinity". Chữ AND hay chữ OR? Câu này nữa: "A finite entity is (...)thus not fully determined by its concept: it has features that are not, and often lacks features that are, embodieed in its concept", và vì thế, mới cần du nhập phạm trù Idealitaet. - ông biết tại sao cụ Marx nói được cái ý hay ho này không: CNCS KHÔNG phải là lý tưởng để vươn tới, để bắt thực tại khuôn theo, mà là vận động hiện thực không? Là nhờ cụ học được tổ sư Hegel trong tiểu đoạn về Idealitaet này đấy! Marx giản lược Hegel rất nhiều, nhưng chỗ này thì Marx quả là chân truyền nhờ không hiểu Idealitaet theo nghĩa "lý tưởng" "ought-to-be' ngây ngô đấy!! Biển học vô bờ, ông Trương Minh à!
Trương Minh - 08:50 30/04/2014
Tuyệt vời! Những câu hỏi của cụ Tèo đã động vào những vấn đề rất hóc búa trong "Khoa học logic của Hegel! Tôi, cũng như bạn nào đó đã nói ở trên, mấy năm nay ôm bản dịch của cụ Bùi Văn Nam Sơn về tác phẩm này, đọc nhức cả óc, hầu như chỉ hiểu được độ ba chục phần trăm. Sau khi đọc bản dịch của Wallace, và một đống từ điển triết học, trong đó có "Từ điển Hegel" của M. Inwood, tôi hiểu thêm được độ vài chục phần trăm nữa. Nhưng ba tháng nay, sau khi đọc bản dich của ông Phạm Chiến Khu, tôi tự tin đã hiểu được tới bảy, tám chục phần trăm tác phẩm này! Cụ Tèo có trích câu: ""Thus in the Logic, Hegel FIRST introduces the "ideell" in connection NOT with the idea, but with the being-for-self AND infinity". Và đặt câu hỏi "Chữ AND hay chữ OR?". Hàm ý cụ muốn khẳng định "tồn tại cho mình" (theo cách dịch của ông Sơn) hay "tồn tại vì mình" (theo cách dịch của ông Khu) chính là cái hữu hạn! "Khoa học logic" của Hegel rất sâu sắc và rất khó hiểu! Tôi xin nêu vài tiêu chí rất quan trọng trong số những tiêu chí giúp chúng ta đánh giá xem khả năng hiểu Hegel của chúng ta đến đâu chính là: 1) Sự hứng thú: Khi đọc chúng ta thấy bị lôi cuốn, bị thu hút, không "nhức đầu"; 2) Càng đọc càng thấy bộ óc của Hegel là "siêu đẳng"! Tại sao là chũ AND (và) chứ không phải là chữ OR (hoặc)! Vấn đề là ở chỗ, theo Hegel, "tồn tại để cho mình" ["tồn tại vì mình"] chưa phải là bậc thang phát triển cao nhất của "cái vô hạn", "cái tuyệt đối". Bậc thang phát triển cao nhất của "cái vô hạn", "cái tuyệt đối" chính là "ý niệm tuyệt đối"! Để giải đáp những thắc mắc nêu trên cần nói nhiều hơn! Trước khi chúng ta cần trao đổi nhiều hơn về vấn đề này, đề nghị bạn Lê Ngọc Thường trích dịch phần dịch của cả hai ông Bùi Văn Nam Sơn và ông Phạm Chiến Khu về mục § 91 (mục Hegel nói về "tồn tại cho mình") để chúng ta có sự am hiểu sơ bộ đã! Cảm ơn bạn Lê Ngọc Thường giúp việc này!
Trương Minh - 09:01 30/04/2014
Tôi xin nói rõ hơn cái ý "vài tiêu chí rất quan trọng trong số những tiêu chí giúp chúng ta đánh giá xem khả năng hiểu Hegel của chúng ta đến đâu" mà tôi nói chưa thật rõ lắm ở trên! Cái ý mà tôi muốn nói ở trên là càng hiểu sâu thì chúng ta càng thấy: 1) Hứng thú: càng đọc chúng ta thấy bị lôi cuốn, bị thu hút, không "nhức đầu"; 2) Sự vĩ đại của Hegel: càng đọc chúng ta càng thấy bộ óc của Hegel là "siêu đẳng"!
thị tẹo - 10:07 30/04/2014
Bây giờ mới rủ nhau đi "tìm hiểu sơ bộ" mà mấy hôm rày đã dám đăng đàn nói như thánh phán, dạy dỗ cả và thiên hạ! Nhân 30.4, bỗng nhớ chuyện "tivi tủ lạnh chạy đầy đường" ở Hà nội! Sợ các bố này thật! Học hành lôm côm thì có "ôm" KHLG cả đời cũng chỉ chuốc bệnh nhức đầu thôi! Ông nhảy qua "ôm" hơn 100 trang "bổ đề" NBC chơi luôn đi, sẽ thấy hứng thú như đọc ' X xì 30 phá lưới!". Tôi và ông đều đã "tốt nghiệp" bốn phép tính từ hồi học lớp 4 trường làng, đọc như chơi ấy mà! Ngày càng nhảm, xin rút lui trước!
Nguyễn Thiện - 12:06 30/04/2014
Bác Trương Minh kính mến! Bác đừng giận Thị Tẹo! Đúng như Nguyễn Tài đã nói ở trên: "Bác đừng giận những kẻ như Tuấn Khải. Theo kinh nghiệm của em, những người hiểu biết ít, quan niệm trắng - đen rất rõ ràng, đã trắng thì chỉ có trắng, đã đen thì chỉ có đen, chứ không thấy được trong trắng có đen và trong đen có trắng! Chính vì thế mà họ rất dễ nổi nóng khi thấy ai đó nói trái với quan niệm của mình! Thằng hàng xóm nhà em chẳng học hành gì, một hôm, khi cãi lý với ông giáo (dạy đại học) cùng khu phố, nó đấm cho ông cụ một quả gẫy mấy cái răng!" Thị Tẹo cũng thế, đó là những kẻ rất thành thạo sử dụng ngôn ngữ chửi bới theo kiểu hàng tôm hàng cá! Theo tôi, trong diễn đàn này, những người có ý kiến khác với bác, nhưng vẫn giữ được bản lĩnh của người trí thức, không nhiều đâu (đó là bác Xuân Thành, bác Phan Huy, một vài người nữa)! Người trí thức đích thực, khi tranh luận, lời nói thuần khiết là lý tính, không mang sắc thái cảm xúc (cay cú, bực tức, đả kích, nóng giận...)! Mong bác tiếp tục tranh luận vì chúng em thấy rất bổ ích! Ai cũng hiểu bác muốn bạn Lê Ngọc Thường trích đăng phần dịch của hai ông Sơn Và Khu, mục nói về “tồn tại cho mình” của ông Hegel để cung cấp sự hiểu biết sơ bộ cho những người đang theo dõi sự tranh luận giữa bác và các bác: Xuân Thành, Phan Huy và Tèo. Thế mà Thị Tẹo gán luôn cho bác, đại ý rằng rằng bác mới chỉ có sự hiểu biết sơ bộ thì làm sao mà tranh luận được! Cảm ơn bác!
hạnh liên - 12:09 30/04/2014
"Là đúng đấy!"; "là chuẩn đấy!"; "là sai đấy!"; "là hoàn toàn sai!"..., thế sao lại đi "tìm hiểu sơ bộ"??!! Hichic! Trước phục cái liều, sau phục cái lỳ của bố!! Em thì theo chị Tẹo chào thua cho nó đỡ mất mấy ngày nghỉ lễ!
TRIẾT HỌC - 21:51 30/04/2014
Thưa các bạn, Cuộc tranh luận và trao đổi thẳng thắn, sôi nổi, và khá quyết liệt, của các bạn về cách dịch chữ nghĩa Hegel trên triethoc.edu.vn là một niềm vinh hạnh cho chúng tôi, những người xây dựng website này. Cho tới nay, cuộc tranh luận của chúng ta đã được hơn 120 lượt ý kiến, phần nào đã cung cấp được cái nhìn đa chiều về hoạt động dịch thuật qua các dịch phẩm của Ts. Phạm Chiến Khu và nhà triết học-dịch giả Bùi Văn Nam Sơn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy cuộc tranh luận của chúng ta đang dần có xu hướng "ăn thua", đả kích cá nhân với nhau. Để vẹn tình tứ hải giai huynh đệ trong lĩnh vực triết học, chúng tôi xin mạn phép khép lại cuộc tranh luận này. Bạn nào cảm thấy ấm ức vì mình nói chưa trọn lời cạn ý thì bạn có thể triển khai toàn bộ ý tưởng của mình thành bài viết hoàn chỉnh và gửi về cho chúng tôi theo hai địa chỉ được ghi ở cuối trang giao diện website này. Chúc các bạn nhiều niềm vui và sức khỏe. Thân kính Triethoc.edu.vn
ĐINH MỸ AN - 09:49 27/12/2014
Theo Tôi, Triết học Cổ Điển Đức là một nền triết học rất khó, con dường dẫn tới nó không chỉ có Một. Tuy nhiên, như tôi thấy thì con đường mà cả ông Phạm Chiến Khu và ông Bùi Văn Nam Sơn đã trải qua đều hay, đều hiệu quả, và đều đáng để học tập. Tôi thấy chúng ta phải chịu ơn hai ông rất nhiều, vì nhờ qua hai ông mà chúng ta mới có thể tiếp cận những tác phẩm triết học kinh điển, mà xét ra nếu so với thời điểm ra đời của nó, thì chúng ta đến dược với nó kể cũng hơi muộn. Tất nhiên, nói vậy không có nghĩa là chúng ta không có quyền đánh giá, nhận xét, bình luận về công việc cũng như kết quả công việc của hai ông. Song, tôi thiển nghĩ ta nên lấy hai ông làm tấm gương sáng để học theo, nhất là từ những gì hai ông đã làm được, và nếu như biết sử dụng, biết phát huy một cách hiệu quả thì thật càng hay. Vậy nên theo ý tôi, muốn nói gì về công việc cũng như thành quả công việc mà hai ông đã thực hiện và đạt được mà lại chưa từng ít nhiều làm được như hai ông, thì dẫu có nói cũng không mấy thuyết phục, nói vậy cũng chỉ là bên ngoài lề.
Tôi có vài lời chia sẻ như vậy, chứ nhất quyết không có ý nhất bên trọng, nhất bên khinh gì ai, vậy mong mọi người hiểu cho và đồng cảm!
Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt