SCHELLING NÓI VỀ HEGEL*
FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)
Nếu bây giờ ở đây, tại Berlin, các vị hỏi một người nào đó có khái niệm dù chỉ nhỏ nhất về quyền lực của tinh thần đối với thế giới, nơi có vũ đài trên đó diễn ra cuộc đấu tranh để giành sự thống trị đối với dư luận xã hội của Đức trong chính trị và tôn giáo, tức là, giành sự thống trị đối với chính nước Đức, thì người ta sẽ trả lời các vị rằng vũ đài đó ở trong trường đại học tổng hợp, cụ thể là trong giảng đường số 6, nơi Schelling giảng những bài triết học mặc khải. Vì trong thời điểm hiệm nay, tất cả những lời phản bác riêng biệt từng làm cho sự thống trị của triết học Hegel trở thành vấn đề tranh cãi, đều đã mờ đi, nhạt đi và lùi về phía sau trước chỉ riêng sự chống đối của Schelling. Tất cả mọi kẻ thù đứng ngoài triết học, như Stan, Henstenberg, Neander, đều nhường chỗ cho một chiến sĩ mà người ta chờ đợi người đó sẽ chiến thắng người bất khả chiến thắng trong lĩnh vực của chính ông ta. Mà cuộc đấu tranh đó quả thật khá độc đáo. Hai người bạn cũ lúc thiếu thời, bạn cùng phòng ở trường dòng Tuy-bin-ghen, lại gặp nhau mặt đối mặt sau bốn mươi năm như là những đối thủ. Một người đã chết cách đây mười năm, nhưng vẫn sống hơn bao giờ hết trong những học trò của ông; người kia, theo lời khẳng định của những học trò ấy, đã chết về mặt tinh thần trong vòng ba thập kỷ, nay hoàn toàn đột nhiên có tham vọng có được toàn bộ sức sống và đòi hỏi phải được thừa nhận. Ai là người đủ "vô tư" để coi mình là xa vời với cả hai người ấy, nghĩa là ai mà không coi mình là người thuộc phái Hegel – vì sau một vài lời Schelling nói, tất nhiên không ai có thể tuyên bố mình là người theo ông ta, - do đó, người nào có ưu điểm "không thiên vị" đáng khen ấy, người đó sẽ thấy trong bản án tử hình đối với Hegel mà lời phát biểu của Schelling ở Berlin đã nói ra, sự báo thù của các thần thánh đối với Schelling về bản án tử hình mà sinh thời Hegel đã tuyên đọc.
Một cử tọa đáng kể, nhiều màu sắc đã tập hợp lại để làm nhân chứng cho cuộc đấu tranh đó. Đứng đầu là giới qúy tộc đại học, những bậc cự phách của khoa học, những bậc hảo hán mà mỗi người trong số họ đã tạo ra một khuynh hướng riêng; họ đã được dành cho những chỗ gần gũi nhất cạnh giảng đàn, còn đằng sau họ trong một sự lộn xộn pha tạp, gặp đâu hay đấy, là những đại biểu của tất cả mọi địa vị xã hội, mọi dân tộc và mọi tín ngưỡng. Trong số thanh niên đầy nhiệt tình bỗng nhiên ta thấy một sĩ quan tham mưu râu bạc, còn bên cạnh ông ta là một người tự nguyện nhập ngũ ngồi trong tư thế hoàn toàn tự nhiên mà trong một cử tọa khác, do sự tôn kính đối với chỉ huy cao cấp, sẽ không biết độn thổ đi đâu cho khỏi ngượng. Các tiến sĩ già và những nhân vật thuộc giới tu hành mà giáo đoàn của họ có thể chẳng bao lâu nữa sẽ ăn mừng ngày ra đời của mình, cảm thấy bên trong họ tinh thần sinh viên cũ bắt đầu lên men, và họ lại đi nghe giảng. Những người Do Thái và những người Hồi giáo muốn thấy mặc khải Cơ Đốc giáo là gì. Đã nghe tiếng ồn ào hỗn hợp của tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Hung-ga-ri, tiếng Ba Lan, tiếng Nga, tiếng Hy Lạp mới và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ - nhưng bỗng vang lên tiếng chuông kêu gọi im lặng, và Schelling bước lên bục giảng.
Con người có vóc dáng trung bình, tóc bạc và mắt xanh nhạt vui vẻ mà trong biểu hiện của chúng có nhiều sự sinh động hơn là cái gì đó gây kính phục, cùng với một ít embonpont1*, gây ấn tượng về một người cha đôn hậu của gia đình hơn là một nhà tư tưởng thiên tài; giọng nói nghe không thật hay nhưng mạnh mẽ, thổ ngữ Sva-bơ – Ba-vi-e với âm "eppes" thường xuyên thay cho "etwas"2* – dáng vẻ bên ngoài của Schelling là như thế.
Tôi bỏ qua không nói đến nội dung những bài giảng đầu tiên của ông[1] để chuyển ngay sang những lời phát biểu của ông về Hegel, và tôi chỉ dành cho tôi quyền thêm những điều cần thiết nhất để giải thích chúng. Tôi truyền đạt lời của ông đúng như tôi đã ghi chép khi dự buổi giảng của ông.
"Triết học đồng nhất mà tôi đề ra, chỉ là một mặt của toàn bộ triết học, cụ thể là mặt phủ định. "Cái phủ định" đó hoặc phải được bổ sung bằng việc trình bày "cái thực chứng" hoặc, sau khi hấp thụ toàn bộ nội dung thực chứng của các hệ thống triết học trước kia, chiếm giữ vị trí "cái thực chứng" và bằng cách đó nâng mình lên triết học tuyệt đối. Số phận của con người cũng được một lý trí nào đó chi phối, bắt nó phải kiên trì trong tính phiến diện chừng nào anh ta chưa tận dụng hết tất cả mọi khả năng của nó. Với Hegel, người đã đề ra triết học phủ định với tư cách là triết học tuyệt đối thì cũng vậy. – Tôi gọi tên ngài Hegel lần đầu tiên. Tôi đã phát biểu thoải mái về những người thầy của tôi. Kant, Fichte, tôi cũng sẽ làm như vậy cả đối với Hegel, tuy chính điều đó không đem lại cho tôi bất cứ niềm thích thú nào. Nhưng tôi sẽ làm điều đó, vì tôi đã hứa với các vị là tôi sẽ hoàn toàn thẳng thắn. Mong các vị không cảm thấy rằng tôi sợ cái gì, rằng có những điểm mà tôi không thể tự do phát biểu. Tôi nhớ cái thời Hegel là người đối thoại của tôi, người đồng chí của tôi, và tôi phải nói rằng lúc triết học đồng nhất được hiểu, nói chung, một cách hời hợt và tầm thường, thì chính ông đã vì tương lai mà cứu tư tưởng cơ bản của nó mà ông vẫn trung thành với nó đến cùng. "Các bài giảng về lịch sử triết học" của ông[2] chủ yếu đã chứng minh cho tôi điều đó. Tìm được rất nhiều tài liệu đã được đi sâu nghiên cứu, ông đã tập trung chú ý của mình chủ yếu vào phương pháp, trong khi chúng tôi, những người khác, thì chủ yếu nghiên cứu nội dung của triết học. Những kết quả tiêu cực đạt được đã không thỏa mãn bản thân tôi, và tôi sẽ vui lòng chấp nhận mọi giải pháp thỏa đáng ngay cả từ tay những người khác.
Vả lại, vấn đề ở đây là Hegel có giữ vị trí của mình trong lịch sử triết học – cái vị trí cần phải dành cho ông trong hàng ngũ những nhà tư tưởng vĩ đại – trên cơ sở tìm cách nâng triết học đồng nhất tới triết học tuyệt đối, triết học cuối cùng – tất nhiên điều đó chỉ có thể xảy ra khi nội dung của nó thay đổi đáng kể – hay không; và điều đó, tôi có ý định chứng minh trên cơ sở những tác phẩm của chính ông mà toàn thế giới đều có thể đọc. Nếu có ai đó nói rằng lời chỉ trích Hegel tiềm ẩn ở đó, thì tôi sẽ trả lời rằng Hegel đã làm cái mà ở ông nó đứng ở hàng đầu. Triết học đồng nhất đã phải tự mình đấu tranh với mình, vượt ra ngoài phạm vi của bản thân minh chừng nào chưa có môn khoa học về cái "thực chứng" cũng được mở rộng ra cả đến sự tồn tại. Điều đó cắt nghĩa xu hướng của Hegel muốn đưa triết học đồng nhất ra khỏi phạm vi của nó, ra khỏi phạm vi tiềm năng của tồn tại, khả năng thuần túy của tồn tại và bắt sự tồn tại phục tùng triết học đó.
"Hegel, người đã cùng với Schelling vươn lên tới chỗ thừa nhận cái tuyệt đối, đã rời bỏ cái tuyệt đối, vì ông cho rằng cái tuyệt đối không được giả định trong trực quan trí tuệ, mà được ông tìm ra bằng con đường khoa học". Những lời đó là văn bản mà bây giờ tôi sẽ nói với các vị. – Cơ sở của đoạn đã được trích dẫn ở trên là ý kiến cho rằng triết học đồng nhất có kết quả là cái tuyệt đối, không chỉ về thực chất, mà cả về sự tồn tại; vì điểm xuất phát của triết học đồng nhất là sự không phân biệt chủ thể và khách thể, nên từ đó rút ra kết luận rằng tuồng như cả sự tồn tại của chúng cũng đã được chứng minh bằng trực quan trí tuệ. Vì thế Hegel hoàn toàn chân thành nghĩ rằng tuồng như tôi muốn thông qua trực quan trí tuệ chứng minh sự tồn tại, tồn tại của sự phân biệt đó, và chỉ trích tôi về việc sự chứng minh của tôi chưa đầy đủ. Tôi không muốn thế, điều đó được chứng minh qua những lời tuyên bố nhiều lần của tôi rằng triết học đồng nhất không phải là hệ thống tồn tại, còn về trực quan trí tuệ thì định nghĩa đó hoàn toàn không gặp trong sự trình bày triết học đồng nhất mà tôi thừa nhận là khoa học duy nhất trong số tất cả mọi sự trình bày liên quan đến thời kỳ đầu ấy. Sự trình bày đó nằm ở chỗ không ai nảy ra ý nghĩ tìm kiếm nó, cụ thể là trong "Zeitschrift fỹr spekulative Physik", trong quyển thứ hai, tập thứ nhất. Dĩ nhiên, định nghĩa đó cũng có cả ở những chỗ khác, vốn là một bộ phận trong di sản của Fichte. Fichte, người mà tôi không muốn đơn giản cắt đứt quan hệ, đã nhờ trực quan trí tuệ mà đạt tới ý thức trực tiếp, đạt tới cái "tôi" của mình: tôi theo cái đó để bằng cách như vậy đi tới sự không phân biệt. Vì cái "tôi" ấy trong trực quan trí tuệ không còn được xét một cách chủ quan nữa, nên nó đi vào lĩnh vực tư tưởng và, như vậy, không còn là cái đang tồn tại xác thực trực tiếp nữa. Như vậy, bản thân trực quan trí tuệ sẽ không thể chứng minh ngay cả sự tồn tại của cái "tôi", và nếu Fichte sử dụng nó cho mục đích ấy thì tôi vẫn không thể viện dẫn sự trực quan đó để xuất phát từ nó rút ra sự tồn tại của cái tuyệt đối. Vậy, Hegel có thể chỉ trích tôi không phải về việc bằng cứ chứng minh không đầy đủ mà tôi chưa bao giờ định đưa ra, mà chỉ về việc tôi muốn nhấn mạnh không thật dứt khoát việc tôi nói chung không đề cập vấn đề sự tồn tại. Vì, nếu Hegel đòi hỏi phải chứng minh tồn tại của tiềm năng vô tận, thì ông vượt ra ngoài giới hạn lý trí; nếu có tiềm năng vô tận thì triết học sẽ bị tồn tại ràng buộc, và ở đây cần phải đặt vấn đề: có thể quan niệm prius3* của tồn tại hay không? Hegel trả lời là không, vì ông bắt đầu logic của mình từ tồn tại và lập tức chuyển sang hệ thống tồn tại. Còn chúng tôi thì trả lời vấn đề đó một cách khẳng định, lấy tiềm năng thuần túy của tồn tại, với tư cách là tiềm năng chỉ tồn tại trong tư duy, làm điểm xuất phát. Hegel, người nói nhiều như vậy về tính nội tại, lại tự mình chỉ mang tính nội tại trong phạm vi cái không phải là nội tại đối với tư duy, vì tồn tại là cái không nội tại ấy. Lùi về lĩnh vực tư duy thuần túy - trước hết có nghĩa là rời bỏ mọi tồn tại ở bên ngoài lĩnh vực tư tưởng. Lời khẳng định của Hegel rằng sự tồn tại của cái tuyệt đối đã được chứng minh trong logic còn có một thiếu sót là như vậy, chúng ta có cái vô tận hai lần: ở cuối logic học và một lần nữa ở cuối toàn bộ quá trình. Nói chung không thể hiểu được vì sao trong hệ thống "Bách khoa thư"[3] logic học được đưa ra trước tất cả mọi cái còn lại, thay vì xuyên suốt toàn bộ chu kỳ một cách sinh động".
Schelling nói như vậy. Tôi đã dẫn ra phần lớn, và trong chừng mực có thể đối với tôi, những lời của chính ông ta và tôi có thể mạnh dạn khẳng định rằng ông ta sẽ không thể không ký tên vào những đoạn trích ấy. Thêm vào những điều đã nói, tôi có thể bổ sung lấy từ những bài giảng trước đó của ông ta rằng ông ta xét sự vật từ hai khía cạnh, tách quid khỏi quod4*, tách bản chất và khái niệm khỏi sự tồn tại. Các vấn đề thuộc loại thứ nhất được ông ta liệt vào khoa học về lý trí thuần túy hoặc vào triết học phủ định, còn các vấn đề thuộc loại thứ hai thì ông ta liệt vào khoa học với những yếu tố kinh nghiệm còn phải được xây dựng, vào triết học thực chứng[4]. Về triết học thực chứng thì cho đến nay người ta chưa biết gì cả, còn triết học phủ định thì đã xuất hiện cách đây bốn mươi năm trong cách diễn đạt không hoàn hảo mà bản thân Schelling đã từ bỏ, và bây giờ ông ta phát triển nó trong biểu hiện chân chính, hợp lý của nó. Cơ sở của nó là lý trí, tiềm năng thuần túy của nhận thức có nội dung trực tiếp là tiềm năng thuần túy của tồn tại, khả năng vô tận của tồn tại. Nguyên tắc thứ ba cần thiết đối với cái đó là tiềm năng vươn lên trên tồn tại mà không thể tự tha hóa nữa; tiềm năng đó chính là cái tuyệt đối, tinh thần là cái được giải phóng khỏi tất yếu phải chuyển hóa thành tồn tại và vĩnh viễn tự do đối với tồn tại. Cái tuyệt đối còn có thể được gọi là sự thống nhất "kiểu Oóc-phây"5* của hai tiềm năng ấy, như là cái mà ở bên ngoài nó không tồn tại cái gì cả. Nếu các tiềm năng mâu thuẫn với nhau, thì tính chất đặc biệt ấy của chúng là tính tận cùng.
Tôi nghĩ rằng một số ít những luận điểm ấy đủ để hiểu những điều đã nói ở trên và để làm rõ những nét cơ bản của học thuyết Schelling mới, về những nét này có thể được nhận xét ngay bây giờ ở đây. Tôi còn phải rút ra từ đó những kết luận mà, có thể, Schelling định phớt lờ, và còn phải bảo vệ người quá cố vĩ đại.
Nếu làm cho bản án tử hình mà Schelling đã tuyên bố đối với hệ thống của Hegel khỏi có hình thức biểu hiện theo lối văn phòng, thì có được điều sau đây: nói đúng ra, Hegel tuyệt nhiên chưa có hệ thống của mình, mà ông duy trì sự tồn tại thảm hại của mình bằng những mẩu thức ăn lấy từ cái bàn tư tưởng của tôi. Trong khi tôi dùi mài cái partie brillante6*, dùi mài triết học thực chứng, thì ông ta say mê hiến thân cho cái partie honteuse7*, triết học phủ định, và đảm nhận về phần mình – vì tôi không có thời gian làm điều đó - việc hoàn thiện và đi sâu nghiên cứu nó, sung sướng vô tận thấy rằng tôi còn tin tưởng giao cho ông ta việc này. Các bạn muốn chỉ trích ông ta về điều này chăng? "Ông ấy đã làm cái mà ở ông ấy nổi lên hàng đầu". "Vị trí trong số các nhà tư tưởng vĩ đại" vẫn thuộc về ông ta, vì ông ta là "người duy nhất thừa nhận tư tưởng cơ bản của triết học đồng nhất, trong khi những người khác hiểu nó một cách tầm thường và hời hợt". Và ở ông ta vẫn chẳng được cái gì tốt cả, vì ông ta muốn biến một nửa của triết học thành triết học chỉnh thể.
Người ta truyền đạt lời nói nổi tiếng thường được gán cho Hegel, nhưng như đã thấy qua những lời phát biểu dẫn ra ở trên của Schelling, chắc chắn là của ông này: "Chỉ có một trong số những học trò của tôi là hiểu tôi, vả lại, tiếc rằng người đó hiểu tôi không đúng".
Song chúng ta sẽ nói một cách nghiêm túc. Chúng ta, những người mang ơn Hegel nhiều hơn ông mang ơn Schelling, liệu chúng ta có thể để người ta viết trên bia mộ của người quá cố những lời xúc phạm như vậy hay không và có cần bảo vệ danh dự của ông bằng cách gửi lời thách thức cho kẻ phỉ báng ông, dù cho kẻ phỉ báng ấy có đáng sợ như thế nào đi nữa, hay không? Chính vì dù Schelling nói gì đi nữa, nhưng lời nhận xét của ông ta về Hegel là một sự xúc phạm, mặc dù nó có vẻ mang hình thức khoa học mà ông ta dùng để thể hiện sự xúc phạm đó. Ôi, tự tôi sẽ có thể – nếu cần làm như vậy – mô tả ông Schelling và bất cứ ai cũng được "một cách thuần túy khoa học" dưới một cái vẻ xấu xa đến mức ông ta sẽ thấy rõ ưu thế của "phương pháp khoa học". Nhưng tôi làm thế để làm gì? Và chẳng cần làm thế thì cũng đã là một sự táo bạo, nếu tôi, một chàng thanh niên, định dạy cho một ông già, nhất là Schelling, vì dù Schelling có phản bội tự do một cách quyết liệt như thế nào đi nữa, thi ông ta vẫn là người phát hiện ra cái tuyệt đối, và tên của Schelling, vì ông ta là người tiền bối của Hegel, được tất cả chúng ta nêu lên chỉ với sự chúc phúc sâu sắc nhất. Nhưng Schelling, người thừa kế Hegel, chỉ có thể đòi được kính trọng phần nào và hoàn toàn ít có thể đòi hỏi tôi yên lặng và bình tĩnh vì tôi đã bảo vệ người quá cố, còn chính người chiến sĩ thì có một sự ham mê nào đó; ai bình tĩnh tuốt kiếm của mình ra, người đó ít khi được khích lệ sâu sắc bởi sự nghiệp mà ông ta chiến đấu.
Tôi phải nói rằng lời phát biểu ở đây của Schelling và đặc biệt là những lời công kích ấy chống Hegel đã không cho phép nghi ngờ điều mà cho đến nay không muốn tin, cụ thể là nghi ngờ sự giống nhau giữa bức chân dung phác họa trong lời tựa viết cho cuốn sách nổi tiếng của Riedel xuất bản cách đây không lâu[5], với nguyên bản. Cái giọng điệu của Schelling đáng giá bao nhiêu khi nói về toàn bộ sự phát triển của triết học trong thế kỷ này, về Hegel, Hans, Feuerbach, Strauss, Ruge và "Deutsche Jahrbỹcher": lúc đầu ông ta đặt họ phụ thuộc vào mình, sau đó không đơn thuần bác bỏ, không, – bằng một lối nói khoa trương chỉ đặt chính ông ta dưới dáng vẻ thuận lợi nhất, mô tả toàn bộ khuynh hướng tư tưởng đó như là sự đùa bỡn của tinh thần, như là một sự hiểu lầm ngộ nghĩnh, như là một loạt sự nhầm lẫn vô ích. Tôi nói, nếu giọng điệu đó không trội hơn tất cả những cái mà trong quyển sách được nhắc đến ở trên chê trách Schelling, thì tôi hoàn toàn không thể hình dung được cái mà trong đời sống bình thường của con người được gọi là sự đứng đắn. Quả thật, cần phải thừa nhận rằng Schelling khó tìm được con đường ở giữa, không làm mất thanh danh cả ông ta lẫn Hegel, và có thể tha thứ cho sự ích kỷ đã thúc đẩy ông ta hy sinh bạn bè để cứu địa vị của mình. Nhưng Schelling vẫn đi quá xa, khi ông đòi thế kỷ chúng ta đừng tính đến thời gian đã bị mất đi một cách vô ích, là sự nhầm lẫn hoàn toàn của bốn mươi năm lao động và hoat động sáng tạo, bốn mươi năm suy nghĩ mà vì nó đã hy sinh những lợi ích quý báu nhất, những truyền thống thiêng liêng nhất, và tất cả những điều đó chỉ để cho Schelling không phải là người thừa trong vòng bốn mươi năm ấy. Và khi Schelling dành cho Hegel một chỗ đứng trong hàng ngũ những nhà tư tưởng vĩ đại dưới một hình thức khiến cho, về thực chất, gạch xóa tên ông khỏi số họ, coi thường ông như là tạo vật của mình, như là đày tớ của mình, thì điều đó lại càng lộ rõ hơn là một sự chế giễu; và cuối cùng, đó có phải là một loại thói keo kiệt đối với tư tưởng, một sự nhỏ nhen – niềm đam mê thấp hèn mà mọi người đều biết ấy được gọi là gì nhỉ? – khi Schelling tuyên bố tất cả những gì ông ta coi là đúng đắn ở Hegel đều là sở hữu của mình, hơn nữa là máu thịt của mình. Vì rằng sẽ là lạ lùng nếu chân lý cũ ấy của Schelling có thể duy trì dưới hình thức tồi của Hegel, và trong trường hợp này lời chê rằng sự diễn đạt không rõ ràng mà Schelling đã ném vào Hegel vào ngày thứ ba, nhất định sẽ bật trở lại chính ông ta. Thật ra, lời chỉ trích ấy, theo ý kiến chung, cả bây giờ cũng liên quan đến Schelling, mặc dù ông ta hứa trình bày một cách rõ ràng. Người nào lu mờ đi trong những thời kỳ thường gặp phải ở Schelling, người nào dùng những cách nói như quidditativ8* và quodditativ9*, sự thống nhất kiểu Oóc-phây v.v. và không hài lòng về việc ấy, ngoài ra còn từng phút dùng đến các từ các cách nói la-tinh và Hy Lạp, người đó tất nhiên làm cho mình mất quyền chửi bới phong cách của Hegel.
Vả lại, Schelling là người đáng thương hơn cả do sự hiểu lầm đáng buồn về vấn đề sự tồn tại. Hegel ngây thơ tốt bụng, với niềm tin của ông vào sự tồn tại của các kết quả triết học, vào quyền của lý trí đi vào sự tồn tại, được thống trị tồn tại! Nhưng vẫn sẽ lạ lùng nếu Hegel, người từng nghiên cứu Schelling kỹ đến thế và một thời gian dài có quan hệ cá nhân với ông ta, cũng như tất cả những người khác từng cố gắng hiểu thấu ý nghĩa của triết học đồng nhất, – nếu tất cả họ đều hoàn toàn không nhận thấy cái chủ yếu nhất, cụ thể là tất cả đó là điều vô lý và điều nhảm nhí chỉ tồn tại trong đầu Schelling và không mảy may đòi có ảnh hưởng nào đó đến thế giới bên ngoài. ở đâu đó chính điều này đã phải được ghi lại, và chắc chắn có ai đó sẽ tìm thấy điều đó. Và quả thật, ta sẽ rơi vào sự cám dỗ muốn ngờ vực, dù đó có phải là ý kiến ban đầu của Schelling và đó có phải là sự bổ sung sau này hay không.
Còn nhận thức mới về triết học đồng nhất thì sao? Kant đã làm cho tư duy lý tính thoát khỏi không gian và thời gian; Schelling ngoài cái đó ra còn tước mất của chúng ta cả sự tồn tại nữa. Sau cái đó chúng ta còn lại cái gì? Đây không phải chỗ chứng minh, để phản bác Schelling, rằng sự tồn tại chắc chắn thuộc lĩnh vực tư duy, rằng tồn tại là cái tự tại của tinh thần và rằng luận điểm cơ bản của toàn bộ triết học hiện đại, cogito, ergo sum10*, không thể bị lật nhào bằng một sự công kích đơn giản. Nhưng chúng tôi xin mạn phép hỏi: tiềm năng mà tự nó không có tồn tại thì liệu nó có thể đẻ ra tồn tại được không? Tiềm năng không đủ sức tự tha hóa nữa thì còn có thể được coi là tiềm năng hay không? Và sự phân ba các tiềm năng có phù hợp một cách lạ lùng nhất với kết quả mà "Bách khoa thư" của Hegel đi tới – với sự thống nhất làm một của ba nhân tố tư tưởng, giới tự nhiên và tinh thần hay không?
Và kết quả của tất cả những cái đó đối với triết học mặc khải như thế nào? Tất nhiên, nó thuộc về "triết học thực chứng", thuộc về kinh nghiệm. Lối thoát duy nhất đối với Schelling là thừa nhận mặc khải là một sự thực và luận chứng nó một cách nào đó, có điều không phải bằng lý trí, vì chính ông ta đã tự cắt tất cả mọi con đường luận chứng như vậy. ở Hegel vẫn không phải đơn giản như vậy – hoặc, có thể ở trong túi Schelling còn có những phương thức giải quyết khác chăng? Như vậy, có thể có toàn quyền gọi triết học đó là triết học kinh nghiệm, gọi thần học của nó là thần học thực chứng, còn luật học của nó, đúng hơn cả, sẽ là luật học lịch sử. Kết quả như vậy tất nhiên sẽ giống sự thất bại, vì tất cả những điều đó chúng ta đã biết ngay trước khi Schelling đến Berlin.
Nhiệm vụ của chúng ta sẽ là theo dõi diễn biến tư tưởng của ông ta và bảo vệ nấm mồ của người thầy vĩ đại khỏi bị chửi rủa. Chúng ta không sợ đấu tranh. Chúng ta không muốn gì ngoài việc trong một thời gian nào đó ở vào tình thế ecclesia pressa11*. ở đây diễn ra sự phân định ranh giới các trí tuệ. Tất cả những gì là chân lý đều chịu sự thử thách bằng lửa, còn đối với các yếu tố kém phẩm chất thì chúng ta vui lòng từ giã. Đối thủ phải thừa nhận rằng hơn lúc nào hết, thanh niên đông đảo đang quy tụ lại dưới cờ của chúng ta, rằng giờ đây hơn lúc nào hết, phạm vi những tư tưởng chiếm lĩnh chúng ta đã phát triển phong phú, rằng ở phía chúng ta chưa bao giờ có ngần ấy người dũng cảm, kiên cường và tài năng như bây giờ. Vậy, chúng ta hãy mạnh dạn đi vào trận chống kẻ thù mới; cuối cùng, trong số chúng ta sẽ có ai đó chứng minh rằng lưỡi kiếm của sự cổ vũ cũng tốt như lưỡi kiếm của thiên tài.
Còn Schelling thì cứ để ông ta thử thêm, xem ông ta có tập hợp được một trường phái xung quanh mình hay không. Nhiều người giờ đây theo ông ta chỉ vì họ, cũng như ông ta, chống Hegel và với lòng biết ơn tiếp nhận bất cứ ai đả kích Hegel, dù đó thậm chí là Léo hay Schubarth. Song, tôi nghĩ rằng Schelling quá tốt đối với những ngài ấy. Tương lai sẽ cho thấy ông ta còn có những môn đồ khác nữa hay không. Tôi chưa tin điều đó, tuy trong số những người nghe ông ta giảng có một số người thành công và đã chuyển sang thái độ thờ ơ.
Do F. Engels viết vào nửa cuối tháng Mười một 1841 Đã đăng trong tạp chí "Telegraph fỹr Deutschland" các số 207 và 208; tháng Chạp 1841 Ký tên: Phri-đrích Ôxvan-đơ |
In theo bản đăng trong tạp chí Nguyên văn là tiếng Đức |
Nguồn: C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập, tập 41. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Phiên bản điện tử: http://www.cpv.org.vn
* Bài viết này là bài thứ nhất trong loạt tác phẩm của F. Engels nhằm chống triết học tôn giáo – thần bí phản động của Schelling, năm 1841, theo lời mời của Friedrich Wilhelm IV, ông này đã tới Berlin để tham chiến chống phái Hegel trẻ, đại biểu của giới trí thức tư sản cấp tiến.
Engels đã đến nghe Schelling giảng ở Trường đại học Tổng hợp Berlin với tư cách là học viên dự tính.
1* – trạng thái đẫy, mập, vẻ khỏe mạnh.
2* – "cái gì đó".
[1] Xem "Schelling's Erste Vorlesung in Berlin, 15. November 1841". Stuttgart und Tỹbingen, 1841 ("Bài giảng đầu tiên của Schelling ở Berlin ngày 15 tháng Mười một 1841". Stút-gát và Tuy-bin-ghen, 1841).
[2] G.W.F.Hegel. "Vorlesungen ỹber die Geschichte der Philosophie". 3 Bde. Hrsg. Von K. L. Michelet. In: Hegels Werke. Bd. XIII-XV. Berlin, 1833-1836 (G.V. Ph.Hê-ghen. "Các bài giảng về lịch sử triết học". 3 tập. Do C.L.Mi-sơ-lê xuất bản. Trong ấn phẩm: Toàn tập của Hê-ghen. Tập XIII-XV. Béc-lin, 1833-1836).
3* – tính có trước.
[3] Đây muốn nói quyển sách: G.W.F.Hegel. "Encyclopọdie der philosophischen Wissenschaften im Grundrise" (G.V. Ph. Hê-ghen. "Bách khoa thư các khoa học triết học. Lược khảo"). Xuất bản lần thứ nhất năm 1817.
4* – quid và quod là hai đại từ trong tiếng la-tinh ứng với đại từ ữmo trong tiếng Nga. Trong triết học kinh viện, quid thuộc về khái niệm bản chất, còn quod thì thuộc về khái niệm tồn tại.
[4] Đây muốn nói "triết học thực chứng" – một khuynh hướng tôn giáo thần bí trong triết học, phê phán triết học Hegel từ phía hữu (C.H. Vây-xơ, I.G. Phi-stơ con, A. Guyn-tơ, Ph. Ba-a-đơ, Schelling về sau). "Các nhà triết học thực chứng" cố bắt triết học phục tùng tôn giáo, chống nhận thức lý tính và coi thần khải là nguồn duy nhất của tri thức "thực chứng". Họ gọi mọi triết học tuyên bố nguồn gốc của mình là nhận thức lý tính là triết học "phủ định".
5* – phù hợp với sự sùng bái Oóc-phây, một cách thần bí.
6* – phần cao quý.
7* – phần không cao quý.
[5] Đây muốn nói cuốn sách xuất bản khuyết danh của C. Riedel "V.Schellings religionsgeschichtliche Ansich; nach Briefen aus Mỹnchen". Berlin, 1841 ("Các quan điểm lịch sử tôn giáo của Schelling; theo những bức thư gửi từ Mỹnchen". Berlin, 1841).
8* – thuộc khái niệm bản chất.
9* – thuộc khái niệm tồn tại.
10* – tôi tư duy, do đó tôi tồn tại. Descartes. "Nguyên lý triết học".
11* – giáo hội bị xua đuổi.
Ý KIẾN BẠN ĐỌC