Bài viết này lược thuật lối diễn giải của Jonathan Culler về khái niệm “lý thuyết” trong lĩnh vực nghiên cứu văn học đương đại, được bày trong Literary Theory – A Very Short Introduction (Oxford: Oxford University Press, 1997). Đây là một trong những tập giáo trình nhập môn nghiên cứu văn học lý thú, có nhiều gợi mở, được đánh giá cao trong cộng đồng học thuật. Đặc điểm của giáo trình này là ...
Hans-Georg GADAMER | Bùi Văn Nam Sơn dịch || Trong tác phẩm này, ta thấy nào là “CÕI SỐNG” (Welt) và ĐẤT (Erde). Khái niệm “Cõi sống” từ lâu đã là một trong những khái niệm thông diễn học chủ đạo của Heidegger.
Chủ nghĩa Siêu thực, danh từ giống đực, cơ chế tự động của tâm lý thuần khiết được dùng để diễn đạt hoạt động đích thực của tư tưởng hoặc bằng ngôn từ, hoặc bằng chữ viết, hoặc bằng mọi cách thức khác. Được tư tưởng xui khiến, vắng mặt mọi sự kiểm soát của lý trí, ngoài mọi thành kiến mỹ học và đạo đức.
Với Feyerabend, ta không cần đến giả định về một thế giới đã hoàn tất hay một thực tại nhất phiến, bởi tuyệt nhiên không hề có một hiện thực tuyệt đối tách rời với mọi hệ quy chiếu. Ông nhắc nhở ta rằng “mọi khoa học đều thoạt đầu là những “nghệ thuật” trước khi chúng mất đi tính chất sáng tạo trước tính khách quan vô-ý thức. Và “cả nghệ thuật lẫn khoa học đều không biết đến ..
Nhưng một nhà thơ nghệ thuật vững vàng, tư tưởng sâu sắc, có thể làm thơ triết-học giá trị được không? Thơ triết-học có thể vừa bắt trí tuệ suy nghĩ, vửa ru tỉnh cảm giác say sưa hay là trái lại? Thơ có thể đi đôi với triết-học không, và nếu có, thì trong phạm vi nào?
Niềm lạc thú tức thì mạnh mẽ nhất, cao hứng nhất, và thuần khiết nhất, theo tôi nghĩ được tìm thấy trong sự chiêm ngưỡng cái Đẹp. Thực ra, khi người ta nói đến cái Đẹp, nói một cách chính xác người ta không nói đến một phẩm chất như vẫn thường được giả định, mà nói đến một hiệu quả
Muốn biết tính chất đẹp thế nào, phải nên biện biệt, không nên lẫn cái đẹp với nhiều cái khá, như sự thích, sự ích lợi, sự thực, sự “lành”. Cái đẹp đối với bấy nhiêu cái có quan hệ một cách rất mật thiết, những không phải là giống với bấy nhiêu cái. Nay ta xét sự quan hệ ấy ra làm sao.
Ta thường nói cái này đẹp, cái kia xấu; đọc bài văn khen hay, nhìn bức tranh khen khéo, nghe đàn mà cảm động, xúc cảnh mà hưng hoài. Bấy nhiêu cái đều gợi ra trong tâm tình ta một cái cảm riêng, các nhà tâm lý học gọi là “mĩ tình” (émotion esthétique).
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch || Cái cao cả trong Tự nhiên chỉ là một cách gọi không thật đích thực, và thật ra nó chỉ được phép gán vào cho lề lối tư duy hay đúng hơn, cho cơ sở để đi đến lề lối tư duy ở trong bản tính tự nhiên
Cả hai phong trào này đã làm thay đổi quan niệm về nghệ thuật, việc đồng hóa người sáng tạo với Chúa – người đã sáng tạo ra vũ trụ và việc đồng hóa tác phẩm với một vật đơn thuần chỉ để ngắm nhìn, đã minh họa cho việc thế tục hóa thế giới dần dần ở châu Âu, nhưng cũng góp phần kéo theo sự thiêng liêng hoá mới của nghệ thuật.
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Cái đẹp trùng hợp với cái cao cả ở chỗ cả hai đều làm hài lòng trên cơ sở của chính mình. Ngoài ra còn ở chỗ: cả hai đều không lấy một phán đoán của giác quan lẫn một phán đoán xác
Đó là lần đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp cụm từ “Nghệ thuật vị nghệ thuật” (l’art pour l’art), nhưng người ta phải có sự phân biệt các loại “mục đích”: mục đích mà người nghệ sĩ đã đề ra trước tiên, với ý định minh họa cho tác phẩm với mục đích nội tại, gắn liền với tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là các tác phẩm vĩ đại
IMMANUEL KANT (1724-1804) | Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải || Sở thích là quan năng phán đoán về một đối tượng hay về một phương cách biểu tượng bằng một sự hài lòng hay không hài lòng mà không có bất kỳ sự quan tâm nào. Đối tượng của một sự hài lòng như vậy gọi là ĐẸP.
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Trong chừng mực triết học được xem là chứa đựng các nguyên tắc cho nhận thức thuần lý về những sự vật thông qua các khái niệm (chứ không phải như môn lôgíc học chỉ đơn thuần
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch || Ta có thể gọi lý tính thuần túy là quan năng nhận thức từ các nguyên tắc tiên nghiệm, và việc nghiên cứu nói chung về khả thể và các ranh giới của nó là Phê phán lý tính thuần túy.