Triết học nghệ thuật

Phân tích pháp về cái đẹp - Phương diện thứ tư

 

 

PHÂN TÍCH PHÁP VỀ CÁI ĐẸP

 

PHƯƠNG DIỆN THỨ TƯ CỦA PHÁN ĐOÁN SỞ THÍCH,

XÉT VỀ MẶT HÌNH THÁI (MODALITÄT)* CỦA

SỰ HÀI LÒNG ĐỐI VỚI ĐỐI TƯỢNG

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
                                       

IMMANUEL KANT (1724-1804)

BÙI VĂN NAM SƠN dịch

 


Immanuel Kant. Phê phán năng lực phán đoán (Mỹ học và Mục đích luận). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà  Nội: Nxb. Tri Thức, 2006, tr. 129-134. | Phiên bản  đăng trên triethoc.edu.vn đã được sự đồng ý của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn.


 

§18

TÍNH HÌNH THÁI CỦA MỘT PHÁN ĐOÁN SỞ THÍCH LÀ GÌ?

Đối với bất kỳ một biểu tượng nào, tôi đều có thể nói rằng: biểu tượng ấy (với tư cách là một nhận thức) chí ít cũng có khả năng (möglich) gắn liền với một sự vui sướng. Còn đối với điều được tôi gọi là dễ chịu, tôi bảo rằng nó thực sự (wirklich) tạo ra trong tôi sự vui sướng. Nhưng, riêng với cái đẹp thì ta suy tưởng rằng nó có một quan hệ tất yếu (notwendig) với sự hài lòng. Tuy nhiên, sự tất yếu này là thuộc về một loại đặc biệt: nó không phải là một sự tất yếu khách quan theo nghĩa lý thuyết theo kiểu có thể nhận thức được một cách tiên nghiệm rằng bất cứ ai cũng sẽ cảm nhận sự hài lòng này nơi đối tượng được tôi gọi là đẹp. | Nó cũng không phải là một sự tất yếu [theo nghĩa] thực hành, tức là, nhờ vào các khái niệm của một ý chí thuần lý [ý chí của lý tính thuần túy] trong đó những tác nhân tự do được cung cấp một quy tắc, [và] sự hài lòng này là kết quả tất yếu của một quy luật khách quan, và không có nghĩa gì khác hơn là mỗi người đều tuyệt đối “phải” (solle) hành động theo một cách thức nhất định nào đó (mà không có ý đồ nào khác được). Trái lại, ở đây là một sự tất yếu được suy tưởng ở trong một phán đoán thẩm mỹ, nên nó chỉ có thể được gọi là sự tất yếu [theo nghĩa] điển hình (exemplarisch) thôi. | Nói khác đi, nó là một sự tất yếu của sự tán đồng của mọi người đối với một phán đoán được xem như một điển hình của một quy tắc phổ biến mà ta không thể nêu rõ ra được. Vì lẽ một phán đoán thẩm mỹ không phải là một phán đoán nhận thức và khách quan, nên sự tất yếu này không thể được rút ra từ các khái niệm nhất định và vì thế, không có tính tất nhiên (apodistisch). Tính tất yếu này càng không thể được suy ra từ tính phổ biến của kinh nghiệm (về một sự nhất trí trọn vẹn đối với các phán đoán về vẻ đẹp của một đối tượng nào đó). Bởi vì, ngoài việc kinh nghiệm rất khó có thể cung cấp đầy đủ những bằng chứng cho mục đích này thì bản thân những phán đoán thường nghiệm cũng không bao giờ làm cơ sở cho một khái niệm về tính tất yếu của những phán đoán [thẩm mỹ] ấy được cả.

 

§19

TÍNH TẤT YẾU CHỦ QUAN ĐƯỢC TA GÁN CHO PHÁN ĐOÁN THẨM MỸ LÀ TÍNH TẤT YẾU CÓ-ĐIỀU KIỆN

Phán đoán sở thích đòi hỏi (ansinnen) sự tán đồng của bất kỳ người nào; và ai bảo cái gì đấy là đẹp, tất người ấy muốn rằng bất cứ ai cũng tán thưởng đối tượng ấy và cũng phải (solle) bảo đối tượng ấy là đẹp giống như mình. Thế nhưng, trong phán đoán thẩm mỹ, dù đã đáp ứng mọi dữ kiện (Datis) đòi hỏi để đưa ra phán đoán, cái “phải” này cũng chỉ được phát biểu ra một cách có điều kiện mà thôi. Ta tranh thủ sự tán đồng của bất kỳ người nào khác, bởi ta có một cơ sở [hay lý do] chung cho tất cả mọi người. | Ngoài ra, ta có thể hy vọng vào sự tán đồng ấy với điều kiện lúc nào ta cũng phải bảo đảm có một sự thâu gồm (Subsumption) đúng đắn trường hợp ấy vào dưới cơ sở chung nói trên xét như quy tắc cho sự tán thưởng.

 

§20

ĐIỀU KIỆN CHO SỰ TẤT YẾU DO MỘT PHÁN ĐOÁN SỞ THÍCH ĐỀ RA LÀ Ý NIỆM VỀ MỘT “CẢM QUAN CHUNG” (GEMEINSINN)

Nếu giả sử những phán đoán sở thích (giống như những phán đoán nhận thức) có một nguyên tắc khách quan nhất định [được xác định] thì hẳn người đưa ra phán đoán dựa theo nguyên tắc này có quyền yêu sách tính tất yếu vô-điều kiện cho phán đoán của mình. Còn giả sử những phán đoán ấy không tuân theo nguyên tắc nào hết, giống như trong những phán đoán sở thích của cảm quan đơn thuần, hẳn ta không hề nghĩ tới một tính tất yếu nào cả của chúng ở đây. Do đó, chúng phải có một nguyên tắc chủ quan xác định cái gì làm hài lòng hay không hài lòng chỉ thông qua tình cảm [hay xúc cảm] chứ không thông qua các khái niệm, dầu vậy vẫn có giá trị phổ biến. Một nguyên tắc như thế chỉ có thể được xem như một “cảm quan chung” (Gemeinsinn) mà thôi. | Cảm quan chung này khác một cách cơ bản với “giác tính thông thường” (gemeiner Verstand) mà đôi khi cũng được gọi là “cảm quan chung” [hay “lương thức chung”] (latinh: sensus communis), vì cái sau [“giác tính thông thường”] không phán đoán theo tình cảm mà lúc nào cũng theo các khái niệm, dù thường chỉ dựa theo các nguyên tắc được hình dung một cách mù mờ*.

Vậy, chỉ với điều kiện tiên quyết là có một “cảm quan chung” (nhưng không có nghĩa là một giác quan bên ngoài nào, mà là hiệu quả nảy sinh từ sự tương tác tự do của các năng lực nhận thức của ta), tôi xin nhắc lại, chỉ với điều kiện tiên quyết của một “cảm quan chung” như thế, ta mới có thể đưa ra một phán đoán về sở thích.

 

§21

CÓ THỂ CÓ CƠ SỞ ĐỂ TIỀN-GIẢ ĐỊNH MỘT “CẢM QUAN CHUNG” HAY KHÔNG?

Nhận thức và phán đoán, cùng với tất cả sự xác tín đi kèm với chúng phải có khả năng được thông báo một cách phổ biến, bởi, nếu không, chúng sẽ không được thừa nhận là có sự trùng hợp với đối tượng, và tất cả chúng hóa ra chỉ là một trò chơi đơn thuần chủ quan của các năng lực biểu tượng, đúng như thuyết hoài nghi đã chủ trương. Nhưng nếu những nhận thức muốn được thông báo một cách phổ biến thì trạng thái tâm thức – tức là phương cách sắp xếp của các năng lực nhận thức để trở thành một nhận thức nói chung và trong thực tế, cái tỷ lệ cân đối phù hợp cho một biểu tượng (nhờ đó một đối tượng được mang lại cho ta) để từ đó tạo ra nhận thức – cũng phải được thông báo một cách phổ biến, vì nếu không có điều này, với tư cách là điều kiện chủ quan của hành vi nhận thức, thì nhận thức, với tư cách là kết quả, ắt không thể nảy sinh ra được. Điều này bao giờ cũng thực sự diễn ra, mỗi khi một đối tượng được mang lại – thông qua giác quan – đưa trí tưởng tượng vào hoạt động để tập hợp cái đa tạp lại; rồi đến lượt nó, trí tưởng tượng lại đưa giác tính vào hoạt động để tạo ra sự thống nhất [hay nhất thể] của cái đa tạp đã được tập hợp lại này thành những khái niệm. Nhưng, sự sắp xếp này nơi trạng thái tâm thức đối với các năng lực nhận thức có một tỉ lệ khác nhau tùy theo sự khác nhau của các đối tượng được mang lại. Tuy nhiên, vẫn phải có một “sự sắp xếp hài hòa” (Stimmung/ Disposition) trong đó mối quan hệ nội tại này [tỉ lệ] là phù hợp nhất cho việc kích hoạt (Belebung) (năng lực này bởi năng lực kia) đối với cả hai năng lực tâm thức [trí tưởng tượng và giác tính] nhằm vào việc nhận thức (các đối tượng được mang lại) nói chung; và sự sắp xếp này chỉ có thể được xác định bằng tình cảm (chứ không phải bằng các khái niệm). Bây giờ, vì lẽ bản thân sự sắp xếp này phải có khả năng thông báo một cách phổ biến, và do đó, cả tình cảm về nó (trong trường hợp một biểu tượng được mang lại), nên tính có thể thông báo phổ biến của một tình cảm tiền-giả định một cảm quan chung: điều này chứng tỏ rằng giả định của ta về nó là hoàn toàn có cơ sở. | Và ở đây, ta không dựa trên cơ sở các quan sát có tính tâm lý học, trái lại, ta giả định một cảm quan chung như là điều kiện tất yếu của tính có thể thông báo phổ biến của nhận thức chúng ta, và đó là điều phải được tiền-giả định trong mọi môn lôgíc và mọi nguyên tắc của nhận thức không mang tính chất của thuyết hoài nghi.

 

§22

TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ TÁN ĐỒNG PHỔ BIẾN ĐƯỢC SUY TƯỞNG TRONG MỘT PHÁN ĐOÁN SỞ THÍCH LÀ TÍNH TẤT YẾU CHỦ QUAN, NHƯNG ĐƯỢC HÌNH DUNG NHƯ LÀ KHÁCH QUAN KHI TIỀN-GIẢ ĐỊNH MỘT “CẢM QUAN CHUNG”

Trong mọi phán đoán qua đó ta bảo cái gì đấy là đẹp, ta không cho phép bất cứ ai có một ý kiến khác; và khi lấy lập trường như vậy, ta không đặt phán đoán của ta trên cơ sở các khái niệm mà chỉ trên tình cảm (Gefühl) [hay xúc cảm ] của ta thôi. | Như thế, ta nêu ra tình cảm cơ bản này không phải như tình cảm riêng tư của ta mà như một tình cảm chung của mọi người. Nhằm mục đích ấy, kinh nghiệm không thể được lấy làm cơ sở cho cảm quan chung này được, bởi vì cảm quan chung là nhằm biện minh cho những phán đoán có chứa đựng một cái “Nên là” (ein Sollen): nó không nói rằng bất cứ ai cũng sẽ đồng ý với phán đoán của ta, trái lại, nên đồng ý với ta. Vậy, ở đây, tôi đưa ra phán đoán về sở thích của tôi như một ví dụ điển hình của cảm quan chung và vì thế, gán cho nó giá trị điển hình. | [Theo nghĩa đó], cảm quan chung chỉ là một quy phạm hay chuẩn mực đơn thuần có tính lý tưởng (idealische Norm) thôi. | Với chuẩn mực này như là điều kiện tiên quyết, một phán đoán trùng hợp với nó, cũng như sự hài lòng đối với một đối tượng được diễn đạt trong phán đoán ấy có quyền chuyển hóa thành một quy tắc [chung cho mọi người]. | Vì lẽ, tuy nguyên tắc chỉ là chủ quan, nhưng được giả định như là có giá trị phổ biến-chủ quan (một ý niệm tất yếu cho tất cả mọi người) nên, trong những gì liên quan đến sự nhất trí của những chủ thể phán đoán khác nhau, có thể đòi hỏi một sự tán đồng phổ biến giống như một nguyên tắc khách quan, miễn là ta bảo đảm rằng đã thâu gồm phán đoán của ta vào dưới nguyên tắc ấy một cách đúng đắn.

Khi chúng ta có tham vọng đưa ra những phán đoán sở thích, thì điều này chứng minh rằng trong thực tế, ta thực sự tiền-giả định cái chuẩn mực bất định ấy về một “cảm quan chung”. Nhưng liệu một cảm quan chung như thế có thực sự tồn tại như một nguyên tắc cấu tạo (konstitutiv) cho khả thể của kinh nghiệm, hay nó chỉ được hình thành cho ta như một nguyên tắc điều hành (regulativ) bởi một nguyên tắc cao hơn của lý tính nhằm tạo ra trong ta một cảm quan chung hướng về những mục đích còn cao hơn nữa? | Nói khác đi, phải chăng sở thích là một quan năng tự nhiên và căn nguyên hay chỉ là Ý niệm về một quan năng nhân tạo, còn phải được ta sở đắc, khiến cho phán đoán sở thích, với yêu cầu của nó về một sự tán đồng phổ biến, thật ra chỉ là một đòi hỏi của lý tính để tạo ra một sự nhất trí như thế? | Và cái “Phải là”, tức tính tất yếu khách quan của việc tương hợp giữa tình cảm của mọi người với tình cảm đặc thù của mỗi người, chỉ nói lên khả thể của việc đi tới được một dạng nhất trí nào đó về vấn đề này, và phán đoán sở thích chỉ nêu ra một ví dụ của việc áp dụng nguyên tắc này? | Đó là các vấn đề mà hiện nay ta chưa muốn và cũng chưa thể đi sâu nghiên cứu. Trước mắt ta chỉ có nhiệm vụ tháo rời [phân tích] quan năng sở thích ra thành những thành tố của nó và rút cục, hợp nhất chúng lại trong Ý niệm về một “cảm quan chung”.

Định nghĩa về cái đẹp rút ra từ yếu tố thứ tư này:

Đẹp là cái gì được nhận thức như là đối tượng của một sự hài lòng TẤT YẾU, nhưng độc lập với khái niệm.

 



* Modalität: Hình thái hay thể cách. Theo Kant, khác với ba loại phạm trù: lượng, chất. Tương quan, loại phạm trù hình thái có chức năng đặc biệt là không thêm gì vào nội dung của phán đoán mà chỉ nói lên quan hệ giữa đối tượng với tư duy (chủ thể nhận thức): đối tượng có thể có hay không (cặp phạm trù khả năng-bất khả năng); có thực có hay không (cặp phạm trù hiện thực-không hiện thực) và có tất yếu hay không (cặp phạm trù tất yếu-bất tất). Xem Kant, Phê phán Lý tính thuần túy, tr. B106 và tiếp. (N.D).

* “gemeiner Verstand” (“sensus communis”): “giác tính thông thường” (latinh: “lương thức chung”). Còn thường được (Kant) dùng đồng nghĩa với “lý trí con người thông thường” (gemeine Menschenvernunft), “lý trí con người lành mạnh” (gesunder Menschenverstand) tương đương với chữ “common sense” trong truyền thống triết học Anh và chữ “bon sens” nơi J. J. Rousseau. Ở đây, Kant dùng từ đồng âm nhưng khác nghĩa nên chúng tôi đề nghị dịch là “cảm quan chung”. Xem thêm Kant, Phê phán Lý tính thuần túy, tr. AVIII, Lời tựa I). (N.D).

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt