Chủ nghĩa Marx

Triết học về tự nhiên. Giới hữu cơ

CHỐNG ĐUY-RINH - MỤC LỤC

 

Phần thứ nhất: TRIẾT HỌC

VII.

TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN.

 

GIỚI HỮU CƠ

 

FRIEDRICH ENGELS (1820-1895)

 


C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 20. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004. | Phiên bản điện tử: dangcongsan.vn | Nguyên bản tiếng Đức | Bản dịch tiếng Anh.


 

 

"Từ cơ học về sức ép và sức đẩy cho đến mối liên hệ giữa những cảm giác và những tư tưởng có một trình tự thống nhất và duy nhất của những nấc trung gian".

Lời quả quyết này tránh cho ông Đuy-rinh khỏi sự cần thiết phải nói một cái gì đó rõ ràng hơn về nguồn gốc của sự sống, tuy rằng đối với một nhà tư tưởng đã từng theo dõi sự phát triển của thế giới bằng cách đi ngược lên đến tận trạng thái đồng nhất với bản thân và cảm thấy rất thoải mái trên các thiên thể khác như ở nhà mình, thì người ta có thể hy vọng rằng ông ta hiểu biết vấn đề này một cách chính xác. Vả lại lời quả quyết ấy của ông Đuy-rinh chỉ mới đúng có một nửa, chừng nào nó chưa được bổ sung bằng đường nút của những quan hệ về độ của Hê-ghen mà chúng ta đã nói đến trên đâya. Mặc dù tất cả tính tiệm tiến của nó, bước chuyển từ một hình thức vận động này sang một hình thức vận động khác bao giờ cũng vẫn là một bước nhảy vọt, một bước ngoặt quyết định. Bước chuyển từ cơ học về các thiên thể đến cơ học về các khối lượng nhỏ hơn trên những thiên thể riêng rẽ cũng vậy; bước chuyển từ cơ học về các khối lượng đến cơ học về các phần tử, bao gồm những vận động mà chúng ta nghiên cứu trong môn vật lý học hiểu theo đúng nghĩa của từ đó: nhiệt, quang, điện, từ, cũng vậy; bước chuyển từ vật lý học phân tử đến vật lý học nguyên tử - hoá học, - cũng lại được thực hiện bằng một bước nhảy vọt quyết định. Và điều đó lại càng đúng với bước chuyển từ tác dụng hoá học thông thường đến tác dụng hoá học của an-bu-min mà chúng ta gọi là sự sống[1]. Trong phạm vi sự sống, những bước nhảy vọt càng trở nên ít hơn và khó nhận thấy hơn.

   Thế là một lần nữa, ông Hê-ghen buộc phải cải chính ông Đuy-rinh.

Khái niệm mục đích đã giúp ông Đuy-rinh thực hiện bước chuyển một cách lô-gích sang thế giới hữu cơ. Đây cũng lại là sao chép của Hê-ghen, người mà trong quyển "Lô-gích học" - học thuyết về khái niệm - đã dùng mục đích luận, hay là học thuyết về mục đích, để chuyển từ thế giới hoá học sang sự sống. Để mắt đến chỗ nào trong quyển sách của ông Đuy-rinh, chúng ta cũng đụng phải một "quan niệm thô thiển" của Hê-ghen mà ông Đuy-rinh đã không chút ngượng ngùng mạo nhận là khoa học sâu sắc triệt để của chính mình. Chúng ta có lẽ đi quá xa, nếu ở đây chúng ta lại tìm hiểu xem việc ứng dụng các quan niệm về mục đích và phương tiện vào giới hữu cơ là đúng và thích đáng tới mức nào. Dù sao đi nữa, ngay cả việc ứng dụng "mục đích nội tại" của Hê-ghen, nghĩa là một mục đích không phải do hành động cố ý của một yếu tố bên ngoài nào đó đưa vào trong tự nhiên, như sự sáng suốt của thượng đế chẳng hạn, mà là một mục đích nằm trong tính tất yếu của bản thân sự vật, - ngay cả việc vận dụng khái niệm mục đích đó cũng luôn luôn đưa những người chưa có học thức đầy đủ về triết học đến chỗ gán một cách phi lý cho tự nhiên, những hành động tự giác và cố ý. Chính cái ông Đuy-rinh đã vô cùng phẫn nộ một cách đạo đức trước mọi mưu toan "duy linh" nhỏ nhất của người khác, lại quả quyết

"một cách chắc chắn rằng những bản năng... được tạo ra chủ yếu là nhằm có được sự thoả mãn gắn liền với hoạt động của những bản năng ấy".

Ông ta kể cho chúng ta nghe rằng

giới tự nhiên đáng thương "luôn luôn buộc phải chỉnh đốn lại trật tự của thế giới vật thể", ngoài ra nó lại còn nhiều công việc khác "đòi hỏi nó phải tinh tế nhiều hơn là người ta vẫn quen tưởng". Nhưng giới tự nhiên chẳng những biết tại sao nó tạo ra cái này cái nọ, chẳng những nó làm mọi công việc như một người vú già, chẳng những nó phải tinh tế - đó cũng đã là một trình độ hoàn hảo khá cao trong tư duy chủ quan tự giác rồi; giới tự nhiên lại còn có một ý chí nữa; bởi vì cái vai trò phụ thêm của các bản năng - tức là cái mà nhân tiện thực hiện những chức năng hiện thực của tự nhiên như ăn uống, sinh đẻ, v.v., - cái vai trò phụ thêm ấy, "Chúng ta phải coi là được mong muốn một cách không trực tiếp mà chỉ gián tiếp thôi".

Thế là chúng ta đã đi đến một giới tự nhiên tư duy và hành động một cách tự giác, do đó chúng ta đã đứng ở trên cái "cầu" dẫn chúng ta - thực ra thì không phải từ thể tĩnh sang thể động, nhưng cũng vẫn là từ phiếm thần luận sang tự nhiên thần luận. Hay có thể là ở đây ông Đuy-rinh cũng muốn tự mình làm thử một lần cái món "nửa thơ ca trong triết học về tự nhiên" chăng?

Không, không thể như thế được. Tất cả những gì mà nhà triết học hiện thực của chúng ta có thể nói về giới tự nhiên hữu cơ, chỉ giới hạn trong cuộc đấu tranh chống cái món nửa thơ ca ấy trong triết học về tự nhiên, chống "sự lừa bịp với những sự hời hợt nông cạn và có thể nói là những sự thần bí hoá giả danh khoa học", chống những "nét làm người ta nhớ đến thơ ca tồi" của chủ nghĩa Đác-uyn mà thôi.

Trước hết Đác-uyn bị trách cứ là đã chuyển thuyết nhân khẩu của Man-tút từ kinh tế chính trị học vào khoa học tự nhiên, là tự giam mình trong những quan niệm của người chăn nuôi súc vật, là với cái thuyết cạnh tranh sinh tồn của mình, đã làm một món nửa thơ ca phản khoa học là toàn bộ chủ nghĩa Đác-uyn, sau khi loại bỏ những điểm mượn của La-mác ra, là một hành động thú tính chống lại nhân tính.

Qua những cuộc đi nghiên cứu khoa học của mình, Đác-uyn đã có ý kiến cho rằng các loài thực vật và động vật không phải là không biến đổi mà luôn luôn biến đổi. Để tiếp tục nghiên cứu ý kiến ấy ở trong nước ông, không có lĩnh vực nào tốt hơn là lĩnh vực chăn nuôi động vật và trồng trọt thực vật. Về phương diện này, chính nước Anh là một nước cổ điển; những thành tựu của các nước khác, thí dụ như ở nước Đức, còn kém xa quy mô đã đạt được ở Anh về mặt này. Đồng thời, phần lớn những thành tựu trong lĩnh vực này đều mới đạt được từ một thế kỷ nay, thành thử việc xác minh những sự kiện không khó khăn mấy. Và Đác-uyn nhận thấy rằng phương pháp chăn nuôi ấy đã gây ra một cách nhân tạo những sự khác nhau trong những động vật và thực vật cùng loài, những sự khác nhau này còn lớn hơn nhiều những sự khác nhau giữa những động vật và thực vật mà mọi người đều nhận là khác loài. Như vậy là, một mặt đã chứng minh được rằng các loài có thể biến đổi đến một mức độ nào đó, và mặt khác là đã chứng minh được rằng những sinh vật có những đặc trưng khác nhau về loài có thể có những tổ tiên chung. Sau đó Đác-uyn tìm xem ngay trong tự nhiên, có hay không có những nguyên nhân dần dà gây ra ở các cơ thể sống - mà không có một tác động tự giác và có ý định nào của người chọn giống - những biến đổi tương tự như những biến đổi được tạo ra bằng cách chăn nuôi nhân tạo. Ông thấy rằng những nguyên nhân ấy là ở sự mất cân đối giữa số rất lớn các phôi do tự nhiên sản sinh ra và số ít những cơ thể thực sự đạt đến độ thành thục. Vì mỗi phôi đều có xu hướng muốn phát triển nên tất nhiên phải nẩy ra cuộc đấu tranh để sinh tồn, cuộc đấu tranh này không những biểu hiện thành cuộc giao chiến trực tiếp về thể xác, hoặc ăn thịt lẫn nhau mà còn biểu hiện thành một cuộc đấu tranh giành không gian và ánh sáng mà thậm chí người ta nhận thấy cả trong loài thực vật nữa. Rõ ràng là trong cuộc giao chiến này, những cá thể có nhiều triển vọng nhất để đạt tới độ trưởng thành và sinh sôi nảy nở là những cá thể có một đặc tính cá biệt nào đó, dù nhỏ mấy đi nữa, nhưng lại có lợi trong cuộc đấu tranh để sinh tồn. Vì vậy những đặc tính cá biệt đó có xu hướng di truyền lại, và nếu chúng có trong nhiều cá thể cùng một loài thì thông qua di truyền đã được tích luỹ lại, chúng lại có xu hướng tăng lên theo hướng đã chọn. Trái lại, những cá thể nào không có những đặc tính đó thì dễ bị ngã gục trong cuộc đấu tranh để sinh tồn và dần dần biến mất. Sự biến đổi của loài thông qua sự đào thải tự nhiên, qua việc sống sót của những cá thể thích ứng tốt nhất, diễn ra chính như vậy.

Chính chống lại cái học thuyết ấy của Đác-uyn mà giờ đây ông Đuy-rinh đưa ra cái lý lẽ nói rằng cần phải tìm nguồn gốc của cái quan niệm về đấu tranh để sinh tồn - như bản thân Đác-uyn cũng đã thừa nhận - trong sự khái quát hoá những ý kiến của nhà kinh tế học Man-tút, nhà lý luận về nhân khẩu, và vì vậy lý luận này cũng mắc phải những khuyết điểm vốn có của những quan niệm kiểu thày tu của Man-tút về tình trạng nhân khẩu thừa. - Trong lúc đó Đác-uyn không bao giờ có ý định nói rằng phải tìm nguồn gốc của quan niệm về đấu tranh để sinh tồn ở Man-tút. Ông chỉ nói rằng thuyết đấu tranh để sinh tồn của ông là thuyết của Man-tút ứng dụng vào toàn bộ giới động vật và thực vật. Mặc dầu lỗi lầm của Đác-uyn lớn đến đâu đi nữa khi ông đã ngây thơ thừa nhận học thuyết của Man-tút một cách không có phê phán, nhưng mới thoạt nhìn mọi người cũng thấy ngay được rằng không cần phải dùng cặp kính của Manttút mới thấy được sự đấu tranh để sinh tồn trong tự nhiên, mới thấy được mâu thuẫn giữa vô số những phôi mà tự nhiên sản sinh ra một cách thừa thãi, với số rất ít những phôi nói chung có thể đạt đến độ trưởng thành, - mâu thuẫn mà thực tế được giải quyết phần lớn trong cuộc đấu tranh để sinh tồn, một cuộc đấu tranh đôi khi cực kỳ tàn khốc. Giống như quy luật về tiền công vẫn giữ nguyên giá trị của nó sau khi những lập luận của Man-tút - mà Ri-các-đô đã dựa vào để luận chứng cho quy luật ấy - đã bị lãng quên từ lâu rồi, cuộc đấu tranh để sinh tồn cũng vẫn cứ tồn tại trong tự nhiên mà không cần nhờ đến một sự lý giải nào của Man-tút cả. Vả lại, những cơ thể trong tự nhiên cũng có những quy luật nhân khẩu của chúng, những quy luật có thể nói là hầu như hoàn toàn chưa được nghiên cứu, nhưng việc xác lập được chúng sẽ có một ý nghĩa quyết định đối với thuyết tiến hoá của các loài. Và ai là người đã có một sự thúc đẩy quyết định theo hướng này? Chẳng phải ai khác ngoài Đác-uyn.

Ông Đuy-rinh cố tránh không đề cập đến mặt tích cực đó của vấn đề. Đáng lẽ nói đến mặt tích cực đó, ông ta lại cứ nói đi nói lại mãi về đấu tranh để sinh tồn. Theo ông ta, trong giới thực vật không có ý thức và các động vật ăn cỏ hiền lành, hiển nhiên là không thể có vấn đề đấu tranh để sinh tồn được:

"Theo ý nghĩa xác định một cách chính xác thì cuộc đấu tranh để sinh tồn chỉ có trong loài thú vật ăn thịt để mà sống”.

Sau khi đã hạn chế khái niệm đấu tranh để sinh tồn vào trong phạm vi nhỏ hẹp như vậy, ông ta có thể tha hồ công phẫn đối với tính chất thú vật của cái khái niệm mà chính ông ta đã hạn chế trong phạm vi tính chất thú vật đó. Nhưng sự công phẫn có tính chất đạo đức này chỉ nhằm vào ông Đuy-rinh mà thôi, vì chính ông ta là tác giả duy nhất của thuyết đấu tranh để sinh tồn theo nghĩa hạn chế đó và vì thế ông ta cũng chính là người duy nhất chịu trách nhiệm về sự công phẫn đó. Vậy, người "đi tìm những quy luật và những hiểu biết về mọi hoạt động của tự nhiên trong giới thú vật" không phải là Đác-uyn, - ngược lại Đác-uyn là người đã đưa toàn bộ giới hữu cơ vào phạm vi đấu tranh để sinh tồn, - mà chính là một con ngáo ộp tưởng tượng nào đó, do chính ông Đuy-rinh chế tạo ra. Vả lại, chúng ta cũng có thể để mặc cho cái tên gọi đấu tranh sinh tồn chịu sự phẫn nộ có tính chất hết sức đạo đức của ông Đuy-rinh. Còn chính cái sự thật là một cuộc đấu tranh như thế cũng tồn tại trong giới thực vật thì mỗi cánh đồng cỏ, mỗi thửa ruộng lúa mì, mỗi khu rừng đều có thể chứng minh cho ông Đuy-rinh thấy được; nhưng vấn đề không phải ở tên gọi, vấn đề không phải nên gọi là "đấu tranh để sinh tồn" hay là "thiếu điều kiện sinh tồn, và những tác động cơ giới", mà vấn đề là sự thật ấy ảnh hưởng như thế nào đến sự bảo tồn hay sự biến đổi của các loài? Về điểm này, ông Đuy-rinh cứ khăng khăng giữ một sự im lặng đồng nhất với bản thân nó một cách ngoan cố. Vì thế tất cả mọi cái trong sự đào thải tự nhiên vẫn giữ nguyên như cũ.

Nhưng chủ nghĩa Đác-uyn "tạo ra những sự chuyển hoá và những sự khác biệt của nó từ cái hư vô".

Thật vậy, khi bàn về đào thải tự nhiên, Đác-uyn bỏ qua không nói đến những nguyên nhân đã gây ra những biến đổi trong các cá thể khác nhau, mà trước hết ông bàn đến cái phương thức mà những sự sai lệch cá biệt đó đã dần dần trở thành đặc tính của một giống, một biến chủng hay một loài nhất định. Đối với Đác-uyn, vấn đề trước tiên không chỉ là đi tìm những nguyên nhân đó, - những nguyên nhân mà cho đến nay một phần còn hoàn toàn chưa biết đến, một phần chỉ có thể nêu ra một cách rất chung chung, - mà chủ yếu là đi tìm một hình thức hợp lý, trong đó tác dụng của những nguyên nhân đó được cố định lại và có một ý nghĩa vững chắc. Trong việc này Đác-uyn đã gán cho sự phát hiện của mình một phạm vi hoạt động quá rộng, đã coi nó là cái đòn bẩy duy nhất trong quá trình biến đổi các loài và vì quá chú ý vào hình thức trong đó các biến đổi cá biệt trở thành phổ biến mà coi thường vấn đề nguyên nhân của những biến đổi cá biệt lặp đi lặp lại nhiều lần. Đó là một khuyết điểm mà ông đã mắc phải giống như phần lớn những người đã làm cho khoa học tiến bộ thực sự. Thêm nữa, nếu Đác-uyn tạo ra những biến đổi cá biệt từ hư vô bằng cách chỉ dựa vào "sự khôn ngoan của người chọn giống" thì hoá ra mỗi một người chọn giống cũng tạo ra từ cái hư vô những biến đổi không chỉ có tính chất giả định, mà là hiện thực, trong các hình thức động vật và thực vật. Nhưng người đã thúc đẩy việc nghiên cứu xem những biến đổi và những khác biệt ấy do đâu mà có, lại chẳng phải ai khác mà chính là Đác-uyn.

Trong thời gian gần đây, quan niệm về đào thải tự nhiên đã được mở rộng, đặc biệt là nhờ Hếch-ken, và sự biến đổi của các loài được coi là kết quả của sự tác động qua lại giữa thích ứng và di truyền, thích ứng được trình bày như là mặt biến đổi, còn di truyền được coi là mặt bảo tồn của quá trình. Nhưng cả điều đó cũng không làm vừa lòng ông Đuy-rinh.

"Sự thích ứng thật sự với những điều kiện sống do tự nhiên đem lại hoặc tước đi, giả định phải có những sự kích thích và những hình thức hoạt động do các quan niệm quyết định. Nếu không thì sự thích ứng chỉ là cái vẻ bề ngoài, và khi đó tính nhân quả đang hoạt động không vượt qua những nấc thấp của vật lý hoá học và sinh lý - thực vật".

Một lần nữa, cái tên gọi lại làm cho ông Đuy-rinh nổi giận. Nhưng, dù ông ta có gọi cái quá trình đó bằng cái tên gì đi nữa thì ở đây vấn đề vẫn đặt ra như sau: Những quá trình như vậy có gây ra những biến đổi trong các loài sinh vật hay không? Và một lần nữa ông Đuy-rinh lại không trả lời.

"Nếu trong sự lớn lên của mình, một cái cây chọn con đường trên đó nó nhận được nhiều ánh sáng nhất, thì kết quả đó của sự kích thích chẳng qua chỉ là một sự kết hợp giữa những lực vật lý với những nhân tố hoá học, và ở đây nếu người ta muốn nói đến việc thích ứng - không phải là theo lối ẩn dụ,  mà theo đúng nghĩa của từ - thì điều đó tất phải đem lại một sự lẫn lộn có tính chất duy linh chủ nghĩa vào trong các khái niệm".

Một người biết hoàn toàn chính xác rằng vì lý do gì mà tự nhiên làm điều này điều nọ và từng nói đến sự tinh tế của tự nhiên và thậm chí đến ý chí của tự nhiên nữa, ấy thế mà lại nghiêm khắc đối với người khác như thế đó! Quả thật là một sự lẫn lộn có tính chất duy linh chủ nghĩa - nhưng ai lẫn lộn, Hếch-ken hay ông Đuy-rinh?

Và đây chẳng những là một sự lẫn lộn duy linh chủ nghĩa mà còn là một sự lẫn lộn về mặt lô-gích nữa. Chúng ta đã thấy ông Đuy-rinh cố hết sức nhấn mạnh rằng khái niệm mục đích cũng có giá trị trong tự nhiên:

"Quan hệ giữa phương tiện và mục đích hoàn toàn không giả định phải có một ý định tự giác".

Nhưng sự thích ứng không có ý định tự giác, không thông qua các quan niệm mà ông kiên quyết phản đối, là cái gì nếu không phải là một hoạt động nhằm vào mục đích một cách vô ý thức như thế?

Cho nên, nếu những con chẫu chàng và những côn trùng ăn lá có màu xanh, những con vật sống ở sa mạc có màu vàng của cát và những con vật ở hai cực trái đất chủ yếu có màu trắng của tuyết, thì chắc chắn chúng có màu sắc như vậy không phải là do chúng có ý định trước hoặc do những quan niệm nào đó chỉ đạo; trái lại, chỉ có thể giải thích những màu sắc ấy bằng tác dụng của những lực vật lý và những nhân tố hoá học mà thôi. Tuy nhiên, không thể chối cãi được rằng những con vật ấy, nhờ những màu sắc đó, đã thích ứng một cách có mục đích với môi trường trong đó chúng đang sống, và chính nhờ đó, kẻ địch của chúng khó nhìn thấy chúng hơn. Cũng như vậy, những khí quan mà một số thực vật dùng để bắt và ăn những côn trùng đậu vào chúng, cũng thích ứng với hoạt động đó, - và thậm chí còn thích ứng một cách có mục đích nữa. Nếu ông Đuy-rinh cứ khăng khăng cho rằng sự thích ứng chỉ có thể do tác động của các quan niệm gây ra, thì ông ta chỉ dùng những lời lẽ khác để nói rằng hành động có mục đích cũng phải được thực hiện thông qua các quan niệm, nó phải tự giác, phải cố ý. Điều đó, một lần nữa, - như thường thấy trong triết học hiện thực, - lại dẫn chúng ta đến đấng sáng tạo đang thực hiện mục đích, tức là đến thượng đế.

"Trước kia, người ta gọi cách giải thích ấy là tự nhiên thần luận và người ta coi thường nó" (ông Đuy-rinh nói), "nhưng giờ đây, cả về mặt này nữa, hình như người ta đã đi ngược trở lại".

Từ sự thích ứng, chúng ta chuyển sang tính di truyền. Theo ông Đuy-rinh thì cả trong vấn đề này nữa, chủ nghĩa Đác-uyn cũng hoàn toàn đi sai đường. Dường như Đác-uyn khẳng định rằng toàn bộ giới hữu cơ đều bắt nguồn từ một sinh vật nguyên thuỷ, có thể nói đều là con cháu của một sinh vật duy nhất. Theo Đác-uyn thì dường như hoàn toàn không có sự tồn tại độc lập bên cạnh nhau của những sản phẩm tự nhiên cùng loài mà lại không cùng một tổ tiên, và vì vậy, với những quan niệm của mình nhìn vào quá khứ ông sẽ lập tức bị bế tắc một khi sợi dây sinh đẻ hay một phương thức sinh sôi nảy nở nào khác bị đứt đoạn trong tay ông.

Khẳng định rằng Đác-uyn cho tất cả các vật hữu cơ hiện nay đều do một sinh vật nguyên thuỷ duy nhất sinh ra, điều đó nói một cách lịch sự là "sản phẩm của sự sáng tạo và tưởng tượng có tính chất tự do" của ông Đuy-rinh. ở trang trước, trang cuối cùng cuốn "Nguồn gốc các loài" (in lần thứ 6) Đác-uyn nói rõ rằng, ông coi

"tất cả các sinh vật không phải là những sáng tạo riêng biệt, mà là dòng dõi theo trực hệ của một số ít sinh vật"[2].

Còn Hếch-ken thì đi xa hơn nhiều và cho rằng

"có một nguồn gốc hoàn toàn độc lập của giới thực vật, và một nguồn gốc khác đối với giới động vật", và giữa hai nguồn gốc đó, "có một số nguồn gốc của những đơn tế bào độc lập, và mỗi nguồn gốc này hoàn toàn độc lập với hai nguồn gốc trên và đều phát triển từ một hình thức nguyên tế bào không có nhân, tổ tiên của riêng nó" ("Lịch sử tự nhiên của sáng tạo", tr.397)52.

Sinh vật nguyên thuỷ này, được ông Đuy-rinh bịa ra chỉ là để hết sức bôi nhọ nó bằng cách so sánh với người Do Thái nguyên thuỷ là A-đam; nhưng chẳng may - tức là chẳng may cho ông Đuy-rinh - ông ta vẫn không biết rằng những sự phát hiện của Xmít về át-xi-ri chứng minh rằng người Do Thái nguyên thuỷ đó là tiền thân của người Xê-mít nguyên thuỷ, rằng tất cả câu chuyện sáng thế và hồng thuỷ trong Kinh thánh chỉ là một đoạn lấy trong một loạt những chuyện thần thoại tôn giáo của cái đạo đa thần cổ chung của người Do Thái, người Ba-bi-lon, người Can-đê và người át-xi-ri.

Lời trách cứ Đác-uyn là ông sẽ lập tức bị bế tắc một khi sợi dây dòng dõi đứt đoạn trong tay ông, tất nhiên là một lời trách cứ nghiêm khắc nhưng không thể bác bỏ được. Tiếc thay, toàn bộ nền khoa học tự nhiên của chúng ta đều phải chịu sự trách cứ đó. ở đâu mà sợi dây dòng dõi đứt đoạn thì ở đó khoa học tự nhiên cũng "sẽ bị bế tắc". Cho đến nay, nó vẫn chưa tạo ra được những sinh vật hữu cơ ngoài cách tái sinh sản từ những sinh vật khác: thậm chí nó vẫn chưa hề tạo ra được chất nguyên sinh đơn giản hoặc những chất an-bu-min khác từ những nguyên tố hoá học. Vì vậy, về nguồn gốc của sự sống, cho đến nay, khoa học tự nhiên chỉ có thể nói chắc chắn được là sự sống ắt phải nảy sinh bằng con đường hoá học. Nhưng có lẽ triết học hiện thực có thể giúp chúng ta trong vấn đề này, một khi nó có những sản vật tự nhiên cũng tồn tại độc lập bên cạnh nhau mà không có quan hệ dòng dõi với nhau? Làm thế nào mà những sản vật ấy đã có thể nảy sinh được? Bằng cách tự sinh sản chăng? Nhưng cho đến nay, ngay cả những kẻ tán thành thuyết tự sinh một cách sốt sắng nhất cũng không có tham vọng rằng bằng con đường ấy người ta có thể tạo ra được một cái gì khác ngoài các vi khuẩn, những mầm nấm và những thể hữu cơ rất nguyên sơ khác - chứ không phải những côn trùng, cá, chim hay động vật có vú. Như vậy, nếu những sản vật cùng loài ấy của tự nhiên (lẽ dĩ nhiên là những sản vật hữu cơ, vì ở đây chỉ nói đến chúng mà thôi) không có liên quan với nhau bằng một dòng dõi chung thì tất nhiên là ở chỗ nào "sợi dây dòng dõi đứt đoạn", những sản vật ấy hay mỗi tổ tiên của chúng ắt phải ra đời bằng hành động sáng tạo riêng biệt. Thế là chúng ta đã trở về với chúa sáng tạo và với cái mà người ta gọi là tự nhiên thần luận.

Tiếp nữa ông Đuy-rinh còn cho rằng Đác-uyn đã tỏ ra rất nông cạn khi

"nâng hành động đơn giản của sự phối hợp tính giao của các đặc tính lên thành nguyên tắc cơ bản của sự xuất hiện những đặc tính ấy".

Đây cũng lại là sản phẩm của sự sáng tạo và tưởng tượng tự do của nhà triết học thâm thuý của chúng ta. Trái lại, Đác-uyn tuyên bố dứt khoát rằng: "đào thải tự nhiên" chỉ bao hàm sự bảo tồn những biến đổi, chứ không bao hàm sự sản sinh ra các biến đổi (tr.63). Nhưng mưu toan mới đó, - những mưu toan định gán cho Đác-uyn những nguyên lý mà ông chưa bao giờ đề xuất, - lại giúp chúng ta hiểu được tất cả sự sâu sắc của những ý kiến sau đây của ông Đuy-rinh:

"Nếu người ta đi tìm trong đồ thức nội tại của sự sinh đẻ một nguyên tắc nào đó của sự biến đổi độc lập, thì tư tưởng đó hoàn toàn hợp lý; bởi vì tư tưởng đem nguyên tắc về sự phát sinh của vạn vật kết hợp với nguyên tắc về sự sinh sôi nảy nở trên cơ sở tính giao thành một chỉnh thể, rồi từ một quan điểm cao hơn, coi cái gọi là tự sinh không phải là cái đối lập tuyệt đối với sự tái sinh sản mà chính là sự sinh sản, - tư tưởng ấy là một tư tưởng hoàn toàn mang tính chất tự nhiên".

Và cái người có thể viết những lời vô nghĩa như thế lại không biết ngượng khi chê trách Hê-ghen về cái "tiếng lóng" của ông!

Nhưng chúng ta đã nghe khá đủ những lời càu nhàu, cáu gắt bực bội và mâu thuẫn mà ông Đuy-rinh thốt ra cho hả cơn giận trước bước tiến khổng lồ mà khoa học tự nhiên đạt được nhờ sự thúc đẩy của thuyết Đác-uyn. Cả Đác-uyn lẫn những môn đệ của ông trong số các nhà nghiên cứu tự nhiên đều không hề nghĩ đến chuyện làm giảm bớt công lao vĩ đại của La-mác bằng bất cứ cách nào; trái lại, chính Đác-uyn và những môn đệ của ông là những người đầu tiên nêu trở lại công lao vĩ đại của La-mác. Nhưng chúng ta không nên quên rằng trong thời La-mác, khoa học còn hoàn toàn chưa có đủ tài liệu để giải đáp vấn đề nguồn gốc các loài bằng cách nào khác, ngoài cách dự đoán - có thể nói là theo kiểu tiên tri. Nhưng từ thời kỳ La-mác không những người ta đã thu thập được những tài liệu phong phú từ lĩnh vực các khoa thực vật học và động vật học cả về mặt miêu tả lẫn giải phẫu, mà còn xuất hiện hai ngành khoa học hoàn toàn mới, có ý nghĩa quyết định đối với vấn đề đang thảo luận ở đây, đó là: ngành nghiên cứu sự phát triển của các mầm thực vật và động vật (phôi thai học) và ngành nghiên cứu vết tích hữu cơ còn lưu lại trong các lớp của vỏ trái đất (cổ sinh vật học). Cụ thể là người ta thấy có một sự trùng hợp đặc biệt giữa sự phát triển tuần tự của những phôi hữu cơ thành những sinh vật trưởng thành và cái chuỗi những thực vật và động vật kế tiếp nhau xuất hiện trong lịch sử trái đất. Và chính sự trùng hợp đó đã đem lại cho thuyết tiến hoá một cơ sở hết sức chắc chắn. Nhưng bản thân thuyết tiến hoá còn rất trẻ, nên chắc chắn rằng sự nghiên cứu sau này sẽ phải sửa đổi rất nhiều những quan niệm hiện tại, kể cả những quan niệm thật sự là của Đác-uyn, về quá trình tiến hoá của các loài.

Nhưng triết học hiện thực có thể nói với chúng ta những gì là tích cực về sự phát triển của đời sống hữu cơ?

"Sự biến đổi của các loài là một giả thuyết có thể tiếp nhận được". Nhưng bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận "sự tồn tại độc lập bên cạnh nhau của những sản vật tự nhiên cùng loài mà không có quan hệ dòng dõi với nhau".

Nhưng thế thì rõ ràng phải nghĩ rằng những sản vật tự nhiên khác loài, - tức là những loài đang biến đổi, - là có quan hệ dòng dõi với nhau, còn những sản vật tự nhiên cùng một loài thì không. Nhưng cả điều này cũng không phải hoàn toàn như thế, vì ngay trong những loài đang biến đổi chúng ta còn thấy

"mối liên hệ thông qua một dòng dõi chung, trái lại, cũng chỉ là một hành động rất thứ yếu của tự nhiên".

Như vậy là vẫn có dòng dõi nhưng lại là "thứ yếu". Chúng ta lấy làm vui mừng thấy rằng quan hệ dòng dõi, sau khi đã bị ông Đuy-rinh nói rất nhiều điều xấu xa và đen tối, thì cuối cùng vẫn được ông ta để nó đi qua bằng cửa sau. Về đào thải tự nhiên thì tình hình cũng như vậy, vì sau khi đã bày tỏ tất cả sự phẫn nộ đạo đức của mình đối với cuộc đấu tranh để sinh tồn, nhờ nó mà sự đào thải tự nhiên được thực hiện, thì đột nhiên ông ta lại nói rằng:

"Như vậy là cần phải đi tìm cái cơ sở sâu xa hơn của toàn bộ những đặc tính của các cấu tạo hữu cơ trong những điều kiện sinh sống và những quan hệ vũ trụ, còn sự đào thải tự nhiên mà Đác-uyn nhấn mạnh thì chỉ có thể là vấn đề thứ yếu".

Do đó vẫn có đào thải tự nhiên, tuy là thứ yếu. Nhưng cùng với đào thải tự nhiên thì người ta cũng thừa nhận có sự đấu tranh để sinh tồn, và do đó, có cả sự thừa nhân khẩu, theo cái thuyết kiểu thầy tu của Man-tút! Tất cả chỉ có thế, - còn về những cái khác thì ông Đuy-rinh bảo chúng ta hãy đọc La-mác.

Cuối cùng, ông Đuy-rinh cảnh cáo chúng ta không được lạm dụng các từ ngữ: biến thái và phát triển. Ông ta cho rằng biến thái là một khái niệm không rõ ràng, còn khái niệm phát triển thì chỉ có thể thừa nhận được khi thực sự có thể xác lập được những quy luật phát triển. Chúng ta nên dùng từ "cấu thành" để thay hai từ trên, và như vậy thì mọi việc sẽ ổn cả. Lại vẫn câu chuyện cũ: sự vật vẫn y như trước, và ông Đuy-rinh hoàn toàn thoả mãn một khi chúng ta thay đổi tên gọi. Khi chúng ta nói về sự phát triển của gà con trong trứng là chúng ta tạo ra sự lẫn lộn, bởi vì chúng ta chỉ có thể chứng minh những quy luật phát triển một cách không đầy đủ mà thôi. Nhưng nếu chúng ta nói đến "sự cấu thành" của con gà con thì mọi cái đều rõ ràng. Như vậy là từ nay chúng ta sẽ không nói: "em bé này phát triển rất tốt", mà nói: "nó được cấu thành rất tốt", và chúng ta có thể mừng ông Đuy-rinh là đã xứng đáng đứng ngang hàng với tác giả tập ca "Chiếc nhẫn của Ni-be-lun-ghen" chẳng những vì sự tự đánh giá mình là cao quý mà cả vì cái tư cách là người soạn nhạc của tương lai nữa[3].



[1] Năm 1885, khi chuẩn bị lần xuất bản thứ hai cuốn "Chống Đuy-rinh", Ăng-ghen dự định ghi chú thích cho đoạn này; bản thảo chú thích đó “Quan niệm" cơ giới " về tự nhiên"), về sau Ăng-ghen đã đưa vào những tài liệu cho cuốn "Biện chứng của tự nhiên".

[2] Ch. Darwin. "The Orgin of Species by Means of Natural Selection, or the Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life". 6 th ed.. London, 1872, p. 428 (S. Đác-uyn. "Nguồn gốc các loài qua con đường đào thải tự nhiên, hay là Sự bảo tồn các giống trong cuộc đấu tranh để sinh tồn". Xuất bản lần thứ 6. Luân Đôn, 1872. tr. 428); chữ viết ngả là do Ăng-ghen nhấn mạnh. Đó là lần xuất bản cuối cùng, trong đó Đác-uyn đã có những bổ sung và sửa chữa. Lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách dưới nhan đề "On the Origin of Species". v.v.. "Bàn về nguồn gốc các loài" v.v..) ở Luân Đôn năm 1859.

Phía dưới, ở trang 108, Ăng-ghen cũng trích dẫn trong xuất bản phẩm đó của Đác-uyn.

[3] E. Haeckel. "Natürliche Schӧpfungsgeschichte. Gemeinverstọndliche wissenschaftliche Vortrọge über die Entwikelungslehre im Allgemeine und diejenige von Darwin, Goethe und Lamarck in Besonderen". 4. Aufl., Berlin, 1873 (E. Hếch-ken. "Lịch sử tự nhiên của sáng tạo. Các bài giảng khoa học phổ thông về học thuyết tiến hoá nói chung và về học thuyết tiến hoá của Đác-uyn, Gơ-tơ và La-mác nói riêng". Xuất bản lần thứ 4, Béc-lin, 1873. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên ở Béc-lin     năm 1868.

Nguyên sinh sinh vật (từ chữ Hylạp πρότερος - nghĩa là đầu tiên nhất) - theo sự phân loại của Hếch-ken là nhóm rộng lớn các cơ thể đơn giản nhất bao gồm những cơ thể đơn tế bào cũng như những cơ thể không có tế bào, và tạo thành loài thứ ba, đặc biệt của giới tự nhiên hữu cơ, bên cạnh hai loài có nhiều tế bào (động vật và thực vật).

Đơn bào (từ chữ Hylạp μονήρης - nghĩa là đơn giản) - theo Hếch-ken, là khối nhỏ an-bu-min không có nhân và hoàn toàn không có cấu trúc làm đầy đủ những chức năng của sự sống: ăn, vận động, phản ứng khi bị kích thích, sinh sôi nảy nở. Hếch-ken phân biệt những nguyên sinh vật nguyên thuỷ không nhân tế bào hiện nay đã chết đã phát sinh bằng con đường tự nảy nở (nguyên sinh vật đầu tiên không nhân tế bào), và những nguyên sinh vật không nhân tế bào hiện nay vẫn còn sống. Loại thứ nhất là khởi điểm phát triển của tất cả ba loài chất hữu cơ; tế bào đã phát triển về mặt lịch sử từ nguyên sinh vật không nhân tế bào. Loại thứ hai thuộc về loại nguyên sinh vật và cấu tạo nên loại đầu tiên, đơn giản nhất của nó; những nguyên sinh vật hiện nay, theo Hếch-ken, có những dạng khác nhau là: Protamoeba primitiva (nguyên biến trùng), Protomyxa aurantiaca, Bathybius Haeckelii (thâm thuỷ trùng).

Các thuật ngữ "nguyên sinh sinh vật" và "đơn bào" được Hếch-ken đưa ra vào năm 1866 (trong cuốn "Hình thái học phổ thông của các thể hữu cơ" của ông), nhưng trong khoa học thì chưa được xác nhận. Hiện nay những thể hữu cơ được Hếch-ken nhận định là những nguyên sinh sinh vật, đã được xếp loại hoặc là những thực vật, hoặc là những động vật. Sự tồn tại của những đơn bào, về sau cũng không được xác nhận. Nhưng ý kiến chung về sự phát triển của các thể hữu cơ tế bào từ những cấu tạo tiền tế bào và ý kiến về sự phân hoá những chất nguyên thuỷ sống thành thực vật và động vật, đã được mọi người thừa nhận trong khoa học.

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt