Đàn bà không có phép tái giá, đàn ông lại được phép để vợ, như vậy, theo danh từ luân lý học đời nay, kêu bằng "nhị trùng đạo đức" (double morale). Nghĩa là, cùng là người ở trong một xã hội, dưới quyền thống trị một luân lý, mà có hai thứ luật buộc cho hai bên khoan nghiêm khác nhau.
Logos tuy vĩnh viễn tồn tại, thế nhưng trước khi nghe người ta nói đến nó, hoặc là lần đầu tiên sau khi nghe người ta nói đến nó, đều không thể hiểu nó. Tuy rằng vạn vật đều ra đời dựa vào Logos, thế nhưng khi chúng ta dùng lời nói hoặc sự thực để phân biệt từng sự
Husserl dùng chữ “giảm trừ hiện tượng học” (réduction phénoménologique) để gọi tên phương pháp đặc biệt của ông. Giảm trừ có nghĩa là gạt đi, hốt đi để bới sâu mãi cho tới khi không bới hơn được nữa vì đã đạt tới nền tảng vẫn chống đỡ những cái được dựng lên ở trên đó.
sự tự do của ý chí chỉ là sự tùy tiện vốn bao hàm hai phương diện: một mặt, là sự phản tư tự do trừu tượng hóa khỏi mọi sự, và, mặt khác, là sự lệ thuộc vào một nội dung hay một chất liệu được mang lại từ bên trong hay từ bên ngoài.
Ta nói đến tên triết học tất nghĩ đến người có đức tính hơn người. Nhà triết học xưa nay vẫn là đồng nghĩa với nhà quân tử. Người ta thành tâm mà theo đuổi cái chân lý thì dù chẳng tới được, cũng là hay thêm người ra.
Heidegger, cũng như Hegel, rất yêu thích vở kịch Antigone của Sophocles, nhất là “dự phóng thi ca về con người” trong lời thơ đầu tiên ấy của dàn đồng ca thứ nhất. Và câu hỏi thứ tư nổi tiếng của Kant: “Con người là gì?”
Người công nhân sản xuất càng nhiều của cải, sức mạnh và khối lượng sản phẩm của anh ta càng tăng thì anh ta càng nghèo. Người công nhân càng tạo ra nhiều hàng hoá, anh ta lại trở thành một hàng hoá càng rẻ mạt.
Lập trường của hiện tượng học là phải mô tả, chứ không giải thích và phân tích. Mô tả đây là mô tả sự xuất hiện của đối tượng, sự hình thành của thế giới, in như ta đã gặp thấy trong kinh nghiệm sống của ta. Cũng vì thế, Husserl gọi hiện tượng học là “tâm lý học mô tả”
WOLFGANG BRAUNER | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Hiện tượng học, do triết gia người Đức là Edmund Husserl sáng lập vào nửa đầu thế kỷ trước [thế kỷ 19 – ND], là một trong những quan niệm triết học quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhất ở thế kỷ 20. Các công trình của Husserl là khởi điểm cho
Thầy Apel – dáng cao gầy, mái tóc điểm bạc chải lật sang hai bên - ngồi nghiêm nghị, khắc khổ trước một đống sách. Thầy yêu cầu các sinh viên ngồi bàn đầu lần lượt đọc to từng đoạn văn trong quyển Phê phán lý tính thuần túy của Kant cho cả lớp nghe
Khoa học-pháp quyền là một bộ phận của triết học. Vì thế, nó có nhiệm vụ phải phát triển Ý niệm – như là lý tính của một đối tượng - từ Khái niệm, hay, cũng đồng nghĩa như thế, phải quan sát sự phát triển nội tại riêng biệt của bản thân Sự việc.
Hiện tượng học là khoa nghiên cứu về những bản chất, và đối với khoa này thì tất cả mọi vấn đề đều quy về việc xác định những bản chất: chẳng hạn bản chất của tri giác, bản chất của ý thức. Nhưng hiện tượng học cũng là một triết học đặt các bản chất lại nơi hiện hữu
Chính trong thế giới của triết gia mà người ta cứu hộ được thần thánh và luật pháp bằng sự hiểu biết, và để bố trí sân chơi của triết học trên mặt đất, đúng là cần phải có những triết gia kiểu Socrate.
Tôi vẫn nghĩ rằng ta có thể tìm ra một sự nối kết chủ động tích cực giữa trí tưởng tượng và lý tính thực hành, và sự nối kết này có ý nghĩa không những cho triết học lịch sử của ông mà còn cho một thứ triết học có thể được chuyển sang lĩnh vực hoàn toàn có tính thực hành mà tôi gọi là Đức hạnh và Pháp quyền
Nhận định nói trên đã đưa ta thâm nhập sâu vào lĩnh địa của học thuyết Anaxagoras. Để chống lại Parmenides, Anaxagoras chính là người đã mạnh mẽ nếu lên hai vấn nạn về tính chất lưu động của tư tưởng và về nguồn gốc của ngoại ảnh.
Ở điểm này - vì mục đích giải thích và xác minh tính hợp lý của những tư tưởng trình bày ở đây - nếu đưa ra một số nhận xét về phép biện chứng của Hê-ghen nói chung, cũng như nói riêng về sự trình bày phép biện chứng trong "Hiện tượng học" và "Lô gích học", và cuối cùng là về quan hệ của sự vận động phê phán mới đối với Hê-ghen thì có lẽ cũng là thích đáng