HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN - MỤC LỤC
(A) Ý THỨC
I SỰ XÁC TÍN CẢM TÍNH, HAY LÀ “CÁI NÀY” VÀ “SỰ CHO RẰNG” [TƯ KIẾN CỦA TÔI VỀ “CÁI NÀY”]
G. W. F. HEGEL (1770-1831) BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải
Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Hiện tượng học tinh thần. Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. | Phiên bản điện tử đăng trên triethoc.edu.vn có sự cho phép của dịch giả. | Nguyên bản tiếng Đức
§ 90 SỰ XÁC TÍN CẢM TÍNH, HAY LÀ “CÁI NÀY” VÀ “SỰ CHO RẰNG” [TƯ KIẾN CỦA TÔI VỀ “CÁI NÀY”](177) Cái biết(178) là đối tượng đầu tiên hay trực tiếp của ta không thể cái gì khác hơn là chính cái biết mà bản thân là cái biết trực tiếp, cái biết về cái trực tiếp hay là về cái đang hiện hữu (Seiend) [đang “là” đơn thuần]. Đối với cái trực tiếp ấy, chúng ta phải hành xử (verhalten) theo một phương cách cũng trực tiếp không kém, hay tiếp thu (thụ nhận (aufnehmend) cái biết ấy như nó đang trình ra cho ta; do đó, không được biến đổi điều gì hết nơi nó, và giữ việc lãnh hội (Auffassen) nó độc lập với việc thấu hiểu nó [bằng Khái niệm] (Begreifen).
§ 91 Nội dung cụ thể của sự xác tín cảm tính làm cho sự xác tín này trực tiếp xuất hiện ra như là [loại] nhận thức (Erkenntnis) phong phú nhất, thậm chí như là một nhận thức có sự phong phú vô tận; một sự phong phú mà cho dù ta đi ra ngoài trong không gian và thời gian là nơi nội dung ấy dàn trải ra cho ta, cũng như khi ta thử lấy ra một mảnh của sự phong phú ấy rồi bằng sự phân chia để đi vào bên trong nó, đều không tìm thấy một ranh giới nào cả. Thêm nữa, sự xác tín cảm tính cũng xuất hiện ra như là nhận thức đúng thật nhất (wahrhalftest), bởi nó chưa gạt bỏ bất cứ điều gì ra khỏi đối tượng, trái lại nó có đối tượng trước mặt mình trong tất cả tính hoàn chỉnh trọn vẹn. Thế nhưng, trong thực tế, sự xác tín này tự cho thấy bản thân nó là sự thật(179) trừu tượng nhất và nghèo nàn nhất. Nó chỉ nói được về cái nó biết điều sau đây: đó là [sự vật đang tồn tại đấy]; và sự thật của nó chỉ chứa đựng đơn độc cái tồn tại(180) của sự việc (Sache). | Trong sự xác tín này, ý thức – về phía mình – chỉ như là cái Tôi thuần túy; hay trong đó, cái Tôi chỉ như là Con người này thuần túy, và cũng thế, đối tượng chỉ như là Cái [vật] này thuần túy. Tôi, con người này, sở dĩ xác tín về sự vật này không phải vì Tôi đã phát triển với tư cách là ý thức và đã vận động các tư tưởng của tôi một cách đa tạp [để tìm hiểu đối tượng]. Và cũng không phải vì sự vật mà tôi xác tín, – nhờ dựa trên cái đa tạp của các thuộc tính khác nhau – có một phức hợp những mối quan hệ phong phú nơi bản thân nó hay có một phức hợp những quan hệ đa dạng với những sự vật khác. Cả hai điều trên đều không liên quan gì đến sự thật của sự xác tín cảm tính: cả cái Tôi lẫn sự vật ở trong sự xác tín ấy đều không có ý nghĩa của một sự trung giới (Vermittlung) đa dạng(181); cái Tôi thì không có ý nghĩa của một sự hình dung hay của tư duy đa tạp [thành những biểu tượng], còn sự vật thì không có ý nghĩa của các thuộc tính đa tạp(182); trái lại sự vật chỉ tồn tại [là]; và nó tồn tại chỉ bởi vì nó [đang] tồn tại thế thôi. | Sự vật đang tồn tại; chính điều này là cái bản chất (das Wesentliche) đối với cái biết cảm tính, và chính cái tồn tại thuần túy này, hay chính tính trực tiếp đơn giản này tạo nên sự thật [chân lý] của sự vật [cảm tính]. Cũng thế, sự xác tín, với tư cách là mối quan hệ, là mối quan hệ trực tiếp thuần túy; cái ý thức là Tôi, thế thôi: một cái này [con người này] thuần túy; tức, cái [ý thức] cá biệt [này] biết cái [sự vật] này thuần túy, hay là biết cái cá biệt.
§ 92 Nhưng, nếu ta quan sát kỹ hơn, ta sẽ thấy nơi cái tồn tại thuần túy tạo nên bản chất của sự xác tín cảm tính này và được sự xác tín cho là sự thật của nó sẽ còn diễn ra nhiều trò khác nữa(183). Một sự xác tín cảm tính hiện thực thì không chỉ là tính trực tiếp thuần túy này mà còn là một ví dụ, [một trường hợp điển hình] (ein Beispiel) của tính trực tiếp [đang diễn trò]. Trong vô số những sự phân biệt xuất hiện ra ở đây [nơi sự xác tín], ta luôn tìm ra sự khác biệt chủ yếu, tức là từ cái tồn tại thuần túy trong sự xác tín cảm tính lập tức phân đôi ra khỏi nó hai cái đã được gọi là hai cái này: một cái này như là cái Tôi và một cái này như là đối tượng. Nếu ta phản tư [vì mục đích phân tích về mặt triết học] về sự phân biệt này, ắt nó sẽ cho ta thấy rằng, trong sự xác tín cảm tính, cả cái này lẫn cái kia đều không hề chỉ là trực tiếp, trái lại chúng đều đồng thời là được trung giới (vermittelt) cả: cái Tôi có được sự xác tín là thông qua sự trung giới của một cái khác, đó là sự vật; và cũng vậy, sự vật này ở trong sự xác tín là nhờ thông qua một cái khác, đó chính là thông qua cái Tôi(184).
(177) “Die sinnliche Gewißheit oder das Diese und das Meinen”: Trong “Hiện tượng học” nói chung, và trong cấp độ “ý thức” nói riêng, luôn có sự đối lập và khác biệt giữa “sự xác tín” (die Gewißheit) chủ quan và sự thật (hay chân lý) (Wahrheit) khách quan. “Sự xác tín” đầu tiên là “sự xác tín” [của kinh nghiệm] cảm tính (die sinnliche Gewißheit). Sự xác tín cảm tính “cho rằng” (meint) mình nắm được “cái này” (tức, cái cá biệt, cụ thể) một cách trực tiếp, nhưng sự thật sẽ cho thấy không phải như thế. Hegel đối lập việc “cho rằng” (meinen) với “tri giác” (wahrnehmen), và chơi chữ khi gợi nên sự gần gũi giữa chữ “mein” (của tôi) với “meinen” (cho rằng) để chỉ tính chủ quan, ngây thơ của sự xác tín cảm tính, vì thế, nên hiểu “meinen” là “tư kiến chủ quan của tôi về “cái này””. (178) “Cái biết” (das Wissen): cái biết chủ quan, chưa phải là “nhận thức” (das Erkennen). Xem chú thích 5. (179) Chúng tôi dịch: - das Wahre: cái đúng thật; wahrhaft: đúng thật, chân thực - die Wahrheit: sự thật, chân lý, tính chân lý - das Sein: tồn tại; Dasein, Existenz: hiện hữu [trực tiếp]; das Seiende: cái đang hiện hữu [trực tiếp] trong môi trường của sự tồn tại. (180) Sự thật của sự xác tín này khác với những gì sự xác tín chủ quan ấy “cho rằng” hay “tưởng thật”. Cái trực quan ngây thơ cảm tính thực ra là cái nghèo nàn nhất khi nó tưởng là phong phú nhất. Nên sự thật của sự xác tín này chỉ là cái “Tồn tại” trừu tượng, nghèo nàn của Parmenides: như sẽ thấy, cái sự việc hay sự vật “cá biệt”, cụ thể, phong phú mà sự xác tín cảm tính “tưởng rằng” đã nắm được, thật ra trong sự thật, chỉ là cái “Phổ biến” (trừu tượng, không cụ thể, không có chi tiết phong phú). (181) “Sự trung giới” (Vermittlung/Anh, Pháp: mediation): thuật ngữ quan trọng của Hegel; xem: chú thích 58. (182) “mannigfaltige” (đa tạp): tính đa tạp của việc trung giới, của những thuộc tính là thuộc về cấp độ sau: Tri giác. Ta lưu ý đến sự song hành hay tương đương giữa các quy định của “cái Tôi” và “đối tượng”. (183) “beiherspielen”: Hegel dùng chữ “beiherspielen” đi kèm với chữ “Beispiel” ở câu sau để chơi chữ: một “trường hợp điển hình”, một “ví dụ” (Beispiel) diễn trò hay phụ diễn (beiherspielen) ở bên cạnh cái Bản chất. Nghĩa là ở đây, cái cá biệt (mà sự xác tín chủ quan nhắm đến) và cái phổ biến (sự thật của nó) chưa thâm nhập vào nhau thực sự, trái lại, cái cá biệt chỉ là “một ví dụ” của cái phổ biến. (184) Đây là “cái Tôi” theo nghĩa là nhà hiện tượng học phân tích tiến trình kinh nghiệm (xác tín cảm tính) đã trải qua, cho thấy quan hệ trong sự xác tín cảm tính thực ra không phải là quan hệ trực tiếp mà là được trung giới. Dưới đây, ta sẽ thấy bản thân sự xác tín cảm tính cũng sẽ tự trải nghiệm điều này trong tiến trình tự kiểm tra chính mình. |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC