HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN - MỤC LỤC
(A) Ý THỨC
II TRI GIÁC HAY LÀ SỰ VẬT VÀ SỰ LỪA DỐI [CỦA NÓ]
G. W. F. HEGEL (1770-1831) BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải
Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Hiện tượng học tinh thần. Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. | Phiên bản điện tử đăng trên triethoc.edu.vn có sự cho phép của dịch giả. | Nguyên bản tiếng Đức
§ 113 [I. Khái niệm đơn giản về sự vật:] Do đó, cái này được thiết định như cái không phải-này hay như một cái này bị thủ tiêu [vượt bỏ]; song [kết quả] không phải là cái hư vô, mà là một cái hư vô nhất định, hay là một cái hư vô của một nội dung, tức của CÁI này. Qua quá trình ấy, bản thân cái [nhân tố] cảm tính vẫn còn có mặt, nhưng không phải theo cách được giả định trong sự xác tín trực tiếp nữa, không phải như cái cá biệt chỉ được “cho rằng”, mà như là cái phổ biến, hay như là cái sẽ được xác định như là THUỘC TÍNH(208). Sự vượt bỏ (das Aufheben) diễn tả ý nghĩa kép [nhân đôi] đúng thực của nó như ta đã thấy nơi cái phủ định: vừa là một sự phủ định (ein Negieren) và đồng thời là một sự bảo lưu (ein Aufbewahren); cái hư vô, như là cái hư vô của cái này, bảo lưu tính trực tiếp; do vậy, bản thân nó vẫn là cảm tính, nhưng lại là một tính trực tiếp phổ biến (allgemeine Unmittelbarkeit)(209). Nhưng, tồn tại là một cái phổ biến nhờ có bên trong nó sự trung giới hay là cái phủ định. | Khi cái tồn tại diễn tả(210) điều này trong tính trực tiếp của nó, nó là một thuộc tính nhất định, được phân biệt. Kết quả là có nhiều thuộc tính như thế được thiết định đồng thời với nhau, thuộc tính này là cái phủ định [sự phân biệt] đối với thuộc tính khác. Bởi chúng được diễn tả trong tính đơn giản của cái phổ biến, nên các tính quy định này (Bestimmheiten) – thật ra, chúng chỉ thực sự trở thành các thuộc tính là còn phải nhờ có thêm một sự quy định sau này nữa(211) – [chỉ] tự quan hệ với chính mình, là dửng dưng đối với nhau, mỗi cái tồn tại cho riêng mình, độc lập(212) với những cái khác còn lại. Tuy nhiên, bản thân tính phổ biến đơn giản, ngang bằng với chính mình [tự-đồng nhất], đến lượt mình, thì lại phân biệt và thoát ly khỏi các thuộc tính nhất định này của nó; nó là sự tự quan hệ thuần túy của mình với chính mình, hay là cái “môi trường” (Medium), trong đó mọi tính quy định trên đây đều có mặt, như một nhất thể đơn giản, trong đó các tính quy định ấy thâm nhập vào nhau nhưng không đụng chạm lẫn nhau, và chỉ vì đều tham gia vào trong tính phổ biến này nên chúng dửng dưng đối với nhau, mỗi đặc điểm tồn tại cho riêng mình. Cái “môi trường” phổ biến trừu tượng này – có thể được gọi là “vật-tính” (Dingheit) nói chung hay là “bản chất thuần túy” – không khác gì cái Ở đây và cái Bây giờ đã tự chứng tỏ cho thấy [xem chương I] là một tập hợp đơn giản của cái đa thể, song cái nhiều này [trong cấp độ tri giác hiện nay], do tính được quy định của nó, là bản thân những cái phổ biến đơn giản. Hạt muối này là cái Ở đây đơn giản, và đồng thời là đa tạp: nó là trắng, và cũng là mặn, cũng có hình lập phương, lại cũng có một trọng lượng riêng và v.v.. Tất cả các thuộc tính đa tạp này tồn tại trong một cái Ở đây đơn giản duy nhất, do đó, là nơi chúng thâm nhập vào nhau; nhưng không thuộc tính nào trong chúng lại có một cái Ở đây khác với các thuộc tính khác, trái lại, mỗi cái có mặt khắp nơi trong cùng một cái Ở đây, là nơi cái khác cũng cùng tồn tại. | Và đồng thời, tuy không bị chia cắt bởi nhiều cái Ở đây khác nhau, chúng không tác động lẫn nhau trong sự thâm nhập này; cái trắng không tác động hay biến đổi cái vuông; cả hai không tác động cái mặn và v.v.., trái lại, vì bản thân mỗi cái là quan hệ đơn giản của mình với chính mình, nên nó để mặc các cái khác và chỉ quan hệ với những cái còn lại thông qua một cái CŨNG dửng dưng. Vậy, chính cái CŨNG này là bản thân cái phổ biến thuần túy, hay là, cái “môi trường”, cái “vật tính” tập hợp tất cả chúng lại bằng cách ấy(213).
§ 114 Trong mối quan hệ vừa nảy sinh trên đây chỉ mới có tính chất của tính phổ biến khẳng định (positive Allgemeinheit) [mặt khẳng định của tính phổ biến] là được quan sát và phát triển; nhưng còn một mặt nữa cần phải xét tới [mặt phủ định]. Mặt phủ định này là: nếu nhiều thuộc tính đa tạp là hoàn toàn dửng dưng với nhau và nếu chúng chỉ đều hoàn toàn tự quan hệ với chính mình thôi, ắt chúng không phải là các thuộc tính nhất định (bestimmt) [được quy định, xác định]; bởi chúng chỉ có thể như vậy trong chừng mực chúng tự phân biệt với nhau và tự quan hệ với các thuộc tính khác như là với các cái đối lập của chúng. Thế nhưng, nếu dựa theo tính đối lập nhau này thì chúng lại không thể cùng tồn tại chung trong cái nhất thể đơn giản của cái “môi trường” của chúng [trước đây] nữa, – sự thống nhất của “môi trường” này cũng thiết yếu [có tính bản chất] đối với chúng giống như sự phủ định. | Vậy, [tiến trình] phân biệt của nhất thể này, – trong chừng mực nhất thể ấy không phải là một nhất thể dửng dưng mà là một nhất thể loại trừ và phủ nhận sự vật khác, – phải rơi ra bên ngoài cái “môi trường” đơn giản này; và vì thế, “môi trường” này không chỉ đơn thuần là một cái CŨNG [nói trên đây], tức một nhất thể dửng dưng, mà còn là cái MỘT, tức cái nhất thể loại trừ [cái khác](214). Cái MỘT là yếu tố của sự phủ định, – như là cái tự quan hệ với chính mình một cách đơn giản, và loại trừ sự vật khác – qua đó, VẬT TÍNH (DIE DINGHEIT) ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ LÀ SỰ VẬT (DING). Trong thuộc tính [của một sự vật], sự phủ định [có hình thái] như là một sự quy định; sự quy định này trực tiếp là một với tính trực tiếp của tồn tại [của sự vật], song tính trực tiếp này đến lượt nó, – nhờ thông qua sự thống nhất nói trên với sự phủ định – nên là tính phổ biến. | Tuy nhiên, sự phủ định, khi được giải phóng khỏi sự thống nhất này với cái đối lập, tồn tại như là cái Một, và tồn tại tự-mình và cho-mình (an und für sich selbst).
§ 115 Các yếu tố này gộp chung lại mới hình thành hoàn tất SỰ VẬT như là cái đúng thật (das Wahre) của [tiến trình] tri giác, trong chừng mực được phát triển ở đây với mức độ cần thiết. Đó là: 1. tính phổ biến thụ động, dửng dưng, tức cái CŨNG của nhiều thuộc tính đa tạp, hay nói đúng hơn, của các “chất liệu” (Materien)(215); 2. sự phủ định, cũng ở trong hình thái đơn giản tương tự; hay là cái MỘT, loại trừ các thuộc tính đối lập, và 3. bản thân nhiều thuộc tính đa tạp, mối quan hệ của hai yếu tố đầu tiên này; hay sự phủ định – như nó đang quan hệ với yếu tố (Element) dửng dưng, và triển khai trong đó thành một số lượng các cái khác biệt; tụ điểm của tính cá biệt ở trong môi trường của sự tự tồn (Bestehen) tỏa chiếu thành tính đa thể. Trong chừng mực các cái khác biệt này cùng thuộc về “môi trường” dửng dưng, thì bản thân chúng cũng có tính phổ biến, chỉ quan hệ với chính mình và không tác động đến nhau; nhưng xét về phương diện: chúng cùng thuộc về sự thống nhất [nhất thể] phủ định, chúng đồng thời lại loại trừ [các thuộc tính khác]; nhưng tất yếu có mối quan hệ này của sự đối lập đối với các thuộc tính ở cách xa cái CŨNG của CHÚNG. Vậy, tính phổ biến cảm tính, hay sự thống nhất trực tiếp của cái tồn tại với cái phủ định chỉ trở thành một THUỘC TÍNH, khi cái Một và tính phổ biến thuần túy được phát triển từ nó và được phân biệt với nhau, cũng như khi tính phổ biến cảm tính nối kết chúng lại [tính phổ biến thuần túy khẳng định và cái Một phủ định]. | Chính mối quan hệ này giữa tính phổ biến với các yếu tố bản chất thuần túy mới là cái hoàn tất SỰ VẬT(216).
(208) Vd: quả chanh có hình tròn, vị chua...: “tròn”, “chua”... là các thuộc tính phổ biến có chung với nhiều sự vật khác. (209) Thuộc tính, tức “cái này cảm tính đã được vượt bỏ”, là đối tượng đích thực của tri giác. Trong sự phát triển biện chứng của nó, như sẽ thấy, đối tượng này sẽ hình thành hai đối cực: tính phổ biến của vật tính và tính cá biệt tuyệt đối của sự vật. (210) Theo J.H, chữ “diễn tả” hay “diễn đạt” (ausdrücken) là thuật ngữ của Spinoza. Toàn bộ vận động của tri giác là ở chỗ đi từ Bản thể (nhất thể khẳng định) sang đơn tử (Monade) (nhất thể phủ định); từ vật tính sang Lực, từ thuyết cơ giới sang động học. (211) Sự quy định này mới giải thích được tính phủ định của chúng. Trong học thuyết Spinoza, theo Hegel, biểu hiện đích thực của tính phủ định không phải là ở trong thuộc tính (Attribute) mà ở trong thể cách (Modus). (212) ) “frei von”...: thoát ly khỏi... (213) “Môi trường” và “cái Cũng dửng dưng”: “Môi trường” theo nghĩa ban đầu là “môi trường vật lý”. Cái “không gian” cho những thuộc tính là cái phổ biến của chúng, là sự thống nhất chung của chúng (vd: hạt muối). Các thuộc tính (vd: trắng, vuông, mặn...) tham gia vào tính phổ biến thuần túy này thì bản thân cũng có tính phổ biến (vd: trắng, vuông, mặn... là thuộc tính phổ biến của nhiều sự vật khác). Nhưng “môi trường” này, tuy là bản thể, nhưng không phải là tính phủ định tuyệt đối. Nó là tính phổ biến khẳng định chứ chưa phải là nhất thể phủ định, chưa phải là “cái Một loại trừ” như sẽ thấy ở sau (vd: mặn loại trừ ngọt...); do đó Hegel gọi nó là cái Cũng (das Auch) của những thuộc tính. Trong Lô-gíc học ở thời kỳ Jena (W.XVIII a, tr. 36), Hegel cũng đã gọi cái Cũng này là cái Và (das Und). (214) Bước chuyển sang cái đối lập: từ nhất thể khẳng định sang nhất thể phủ định, từ vật tính sang sự vật. (215) “Các chất liệu” (Materien): tức các “chất liệu tự do” trong vật lý học đương thời. Những thuộc tính được hình thành trong “chất liệu” nhiệt, điện, từ v.v.. (216) Sự vật được hình thành nên cho ta như là sự mâu thuẫn giữa tính nhất thể phủ định và tính phổ biến. Sau đây, ý thức hiện tượng học ở cấp độ tri giác sẽ trải nghiệm về sự vật với mâu thuẫn cơ bản này. Chỉ khi ý thức tri giác tự nâng mình lên đến sự thống nhất giữa hai mặt đối lập này, nó mới trở thành “giác tính” (Chương III). Bấy giờ, như ta sẽ thấy, sự vật là Lực như Phạm trù hợp nhất.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC