Thuyết Duy tâm Đức

Bách khoa thư các khoa học triết học: Từ tham vọng hệ thống đến học thuyết về chân lý và tự do (2)

 

BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC

MỤC LỤC

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
                                                 

 

“BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC”:

TỪ THAM VỌNG HỆ THỐNG 

ÐẾN HỌC THUYẾT VỀ CHÂN LÝ VÀ TỰ DO

1 2 3 4 5      

 

BÙI VĂN NAM SƠN

 


G.W.F. Hegel. Bách khoa thư các khoa học triết học 1: Khoa học lôgíc (Logik der Enzyklopädie). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008, tr. XXXIV-LIV. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn đã được dịch giả Bùi Văn Nam Sơn cho phép.


 

II

 

BKT I: Khoa học Lôgíc hay học thuyết về Chân lý và Tự do

 

Tự do chính là bản chất của Chân lý[1].

           

II.1: Cái Lôgíc

Lôgíc học không chỉ bàn về khái niệm, phán đoán, suy luận như thông lệ mà cả về “sự sống”, “sự vật”, “hiện tượng”, “hiện thực”, “cơ giới luận”, “hóa học luận”, “mục đích luận”, “ý muốn” hay “ý chí”… thì quả là lạ lùng! Vì thế, không phải vô cớ khi Bertolt Brecht nhận xét hóm hỉnh rằng Khoa học Lôgíc của Hegel là tác phẩm… “hài hước nhất thế giới” và tác giả “cù không cười” của nó hẳn nhiên xứng danh là một “U mặc (Humor) đại nhân”! Vậy, điều gì “xảy ra” trong Lôgíc học, cái gì được trình bày trong nó và làm sao để đọc cho đúng với tinh thần và yêu sách của nó? Nhưng, ngay câu hỏi bình thường ấy, đối với Hegel, cũng là không ổn vì “không phù hợp với đối tượng nghiên cứu”! Lý do: ở đây, Hegel đòi hỏi ta chỉ được phép “đứng nhìn” sự “tự-trình bày” của “bản thân Sự việc” chứ không được can thiệp vào bằng sự phản tư tùy tiện. Ðòi hỏi này thật khó hiểu nếu ta không được thuyết phục về “phẩm giá” đặc biệt của “bản thân Sự việc” và cũng thật khó theo nếu ta không tạm thời gác lại không ít thói quen và định kiến. Trước hết là về mối quan hệ giữa Khoa học Lôgícngôn ngữ.

-    Trái với quan niệm phổ biến vào nửa cuối thế kỷ XX cho rằng tính lôgíc phụ thuộc vào những “trò chơi ngôn ngữ” ngẫu nhiên, bất tất, Hegel cho rằng ngôn ngữ chỉ là “vỏ ngoài của cái lôgíc” chứ không phải là ranh giới hạn chế nó. Bản thân ngôn ngữ là một hình thái của cái lôgíc, nghĩa là, trong khi nói, ta tuân theo những hình thức của tư duy, sử dụng chúng mà không mấy khi có ý thức. Trong chừng mực đó, giống như nơi Platon, Lôgíc học của Hegel muốn lý giải rõ: ta thật sự làm gì khi nói. Từ chỗ sử dụng những quy định tư duy (những phạm trù) một cách vô ý thức, Lôgíc học sẽ dẫn ta đến chỗ lĩnh hội chúng trong ý nghĩa “thuần túy”, độc lập với mọi sự sử dụng cụ thể. Như thế, các phạm trù không đặt cơ sở trên những hình thức đời sống và trong những ngôn ngữ hiện hành, ngược lại, chính chúng mới đặt cơ sở cho hình thái của ngôn ngữ. Nói khác đi, vấn đề cốt yếu ở đây là nhận thức được cấu trúc phổ biến của tư duy, của việc nắm bắt thực tại, độc lập với mọi ràng buộc vào những viễn tượng, những tư kiến đặc thù thể hiện trong các ngôn ngữ khác nhau (trong BKT III, §§440-482, trong phần “Tâm lý học” của Tinh thần chủ quan, Hegel tìm cách đặt cơ sở cho sự ra đời của ngôn ngữ từ tính quy định lôgíc của nó).

-    Cấu trúc phổ biến này không chỉ là cấu trúc của tư duy và của ngôn ngữ mà đồng thời của cả bản thân tồn tại. Theo nghĩa đó, Lôgíc học của Hegel chính là bản thể học như đã nói qua; và vì thế, nó khác với Lôgíc học cổ truyền của Aristoteles lẫn với Lôgíc học siêu nghiệm của Kant. Theo Hegel, Lôgíc học cổ truyền hay hình thức của Aristoteles chỉ là Lôgíc học về cái hữu hạn, bởi nó chỉ đề ra các quy tắc cho một lối tư duy “đúng đắn”, “hợp thức” (richtig / correct), không mâu thuẫn, có tính đơn thuần hình thức của “giác tính”, thay vì “bản thân Chân lý” tự kiến tạo nên nội dung của mình một cách “đúng thật” (wahr / true). Hegel cũng cho rằng mình đã vượt bỏ được các giới hạn của Lôgíc học siêu nghiệm của Kant. Bởi, với ông, các phạm trù không chỉ có giá trị ở chức năng của chúng là làm cho kinh nghiệm và nhận thức có thể có được, mà bản thân chúng “chân lý của tất cả những gì được mang tên gọi là sự vật” (Ðại KHLG I, 5, 30). Hegel kịch liệt phản đối việc Kant xem những phạm trù như là những sự quy định hữu hạn của giác tính, như cái gì mang tính chủ quan của chủ thể nhận thức, vì như thế sẽ không đặt được cơ sở cho sự tất yếu của chúng, không hơn gì Aristoteles: “Giác tính ấy chỉ là giác tính của con người, là một bộ phận của năng lực nhận thức, là giác tính của một điểm cố định của tính bản ngã” (Tin và Biết / Glauben und Wissen, 1802, 2, 313). Theo Hegel, thật dễ hiểu tại sao năng lực nhận thức hữu hạn ấy chỉ đạt tới được cái hữu hạn: nhận thức đơn thuần về hiện tượng thay vì về chân lý của vật [tự thân].

     Ta biết rằng Kant đã gắn liền các phạm trù với cái Tôi (siêu nghiệm) như là với chức năng nhất thể hóa mọi nhận thức. Kant cũng gắn liền các phạm trù với trực quan, với tính thụ nhận của cảm năng để mang lại nội dung cho các phạm trù vốn chỉ là các hình thức trống rỗng của tư duy. Hegel đã tháo bỏ cả hai sự gắn liền này. Theo Hegel, các phạm trù không phải là những sự quy định của tư duy (giác tính) của chúng ta; sự thống nhất hay nhất thể nối kết của chúng không đặt cơ sở trong sự thống nhất của cái Tôi, trái lại, là Lôgíc học của tư duy tự phát triển. Tư duy (viết hoa!) không cần một chỗ dựa, một chủ thể, trái lại, “bản thân nó tư duy”, bản thân nó là chủ thể của hoạt động của nó, và Khoa học Lôgíc muốn chứng minh rằng hoạt động này không đánh mất mình trong sự đa tạp mà tập hợp lại thành sự thống nhất của “Ý niệm” của nó mà nội dung cụ thể đồng thời được trình bày ở đây. Cảm tưởng quen thuộc rằng trong Lôgíc học của Hegel, các Khái niệm tự vận động giống như “những nhân vật sống thật” có lý do của nó trong việc Hegel tìm cách cho thấy Tư duy thoát ly khỏi chỗ tựa là chủ thể cá nhân([2]).

-    Vì thế, với Hegel, cũng thật phi lý khi cho rằng các quy định của Tư duy có nội dung từ các giác quan. Nội dung của Lôgíc học phải là của bản thân Tư duy, không quan hệ với những đối tượng khả hữu của kinh nghiệm mà đã bỏ lại đàng sau sự đối lập giữa “ý thức” và “đối tượng”. Tư duy này thấu hiểu bằng khái niệm (begreift) rằng sự đối lập giữa “tư duy” và “tồn tại” (hiểu như một thực tại độc lập với tư duy) là một sự đối lập do bản thân Tư duy thiết định nên, do đó chỉ có ý nghĩa bên trong phạm vi của tính nội tại tuyệt đối của nó mà thôi: Tư duy và Tồn tại là một.

Phải chăng Hegel đã thụt lùi, trở lại với nền Siêu hình học tiền-phê phán trước Kant? Nếu không, đâu là động cơ khiến Hegel muốn vượt bỏ (chứ không phải “lẩn tránh”) ranh giới do Kant đặt ra? Thách thức chủ yếu chính là ý tưởng của Kant về “vật-tự thân”, tức, theo Kant, các hình thức của tư duy chúng ta không thể thâm nhập trọn vẹn đối tượng để đạt đến “hiện thực đúng thật” của sự vật mà chỉ kiến tạo nó “cho ta”. Mặt khác, Hegel cũng phản đối việc đi tìm cái “hiện thực đúng thật” này bằng cách tiếp cận trực tiếp với nó mà không cần đến hoặc đi trước tư duy (như chủ trương của phái “lãng mạn”, xem: Lời Tựa II). Với Hegel, đi tìm sự trực tiếp như thế là một sự ngây thơ đáng ngạc nhiên. Theo ông, sự khác biệt do Tư duy thiết định nên giữa nó và đối tượng là không thể “thối lui”, cũng không thể “tảng lờ” hay “bỏ quên”. Vấn đề là phải có một Tư duy về Tư duy, tức sự phản tư của Tư duy về chính việc làm của nó. Trong sự phản tư này, Lý tính sẽ tự hiện thực hóa: như là sự tự-phản tư của giác tính, như là sự tái-trung giới các phương diện đã bị giác tính phân cắt giữa tư duy và sự vật. Bằng một hình ảnh rất đẹp, Hegel viết: “Chính Tư duy vừa gây ra vết thương vừa chữa lành nó” (§24. Giảng thêm 3).

Nếu Kant đã giới hạn sự sử dụng lý tính ở tính chất “điều hành” (regulativ) của nó, tức hiểu các Ý niệm của nó (vũ trụ, Thượng đế, linh hồn, tự do…) chỉ như là các giả tưởng có chức năng “hướng dẫn nghiên cứu” (heuristisch) để định hướng cho giác tính, do đó, không thủ tiêu sự hữu hạn về nguyên tắc của những sự thiết định này, thì ngược lại, với Hegel, giác tính – với tiềm lực trở thành lý tính – có thể vượt bỏ được sự hữu hạn. Sự vượt bỏ này không có nghĩa là xóa nhòa hay dồn nhập các sự phân biệt đã được thiết định bằng một thứ “trực quan trí tuệ” nào đó về một sự “thống nhất nguyên thủy” của Tư duy và Tồn tại, của Tinh thần và Tự nhiên mà chính là điều duy nhất sau đây: Tư duy nhận thức rằng sự dị biệt của nó với sự vật không phải là cái gì “có sẵn”, rằng bản thân những sự vật không phải “được mang lại” cho nó (để, sau đó, phục tùng các phạm trù trống rỗng của tư duy), trái lại, Tư duy nhận thức rằng những gì xuất hiện ra như thể là điều kiện tiên quyết không do Tư duy làm chủ thì thật ra đều là sản phẩm của việc thiết định của chính nó.

Tư duy đồng nghĩa với tính tự khởi và tính hoạt động tuyệt đối. Không có gì hiện hữu mà không được Tư duy “thấm nhuần”. Nếu ta chỉ thực sự tự do trong Tư duy thì chỉ có nghĩa rằng: ở đây, mọi sự tưởng như xa lạ đều đã được vượt bỏ, và Tư duy nhận ra được chính mình trong cái khác của mình. Sự tự do này là tự-ý thức của Tư duy không còn thừa nhận những gì có tham vọng thoát ra khỏi nó! Trong lời Dẫn nhập cho [Ðại] Khoa học Lôgíc, Hegel viết rất mạnh mẽ: “Sự vật chỉ có hiện thực ở trong Khái niệm của nó; bao lâu nó khác biệt với Khái niệm của nó, nó không còn là hiện thực mà là một cái hư vô. Phương diện hữu hình và tồn tại cảm tính ở bên ngoài thuộc về phương diện hư vô này”.

Trước khi ta vội lên tiếng phản đối để “bênh vực” cho “phương diện hữu hình và cảm tính”, cho sự hữu hạn và tính thụ nhận của kinh nghiệm của ta về thế giới, thiết tưởng cần hiểu rõ Hegel muốn nói gì với hai học thuyết mấu chốt: học thuyết về chân lý và về ý thức:

-    Quan niệm của Hegel về chân lý khác với quan niệm thông thường của chúng ta. Ta thường xem chân lý chỉ là một đặc điểm của nhận thức, bởi, nếu không có đặc điểm này, nhận thức, nhất là nhận thức khoa học, chỉ còn là tư kiến hay sự tưởng thật chủ quan. Trái lại, Hegel phân biệt giữa “nhận thức” và “chân lý”, xem chân lý không chỉ là một đặc điểm mà là: a) đối tượng của nhận thức; b) là một cái đơn nhất (ein Singular) [chỉ có Một chân lý] và c) là cái toàn bộ. Nhiệm vụ của triết học là nhận thức về cái toàn bộ ấy:

a) Ðối tượng của khoa học (triết học) là gì? Hegel trả lời thật đơn giản và dễ hiểu: đó là chân lý. Xem “chân lý như là đối tượng” có nghĩa là nó tồn tại khách quan. Chữ “khách quan” ở đây không phải là “có giá trị khách quan”, đối lập với “chủ quan” mà là tồn tại khách quan như bất kỳ đối tượng nào khác cần phải được nhận thức. Hegel cho rằng định nghĩa cổ điển về chân lý như là sự trùng hợp giữa nhận thức và đối tượng là “một định nghĩa có giá trị lớn lao, thậm chí có giá trị cao nhất” ([Ðại] Khoa học Lôgíc I, 266), nhưng rồi lập tức cải biến nó: thông thường ta quen gọi chân lý là sự trùng hợp giữa một đối tượng với biểu tượng của ta… Trái lại, trong nghĩa triết học, chân lý - diễn đạt một cách trừu tượng nói chung - chính là sự trùng hợp của một nội dung với chính bản thân nó” (BKT I, §24. Giảng thêm 2). Ông cho ví dụ để ta dễ hiểu: “Ý nghĩa sâu xa (có tính triết học) về chân lý vốn phần nào đã có mặt trong ngôn ngữ thường ngày. Chẳng hạn khi ta nói về một người bạn đích thực và hiểu đó là một người bạn mà cách cư xử là phù hợp với Khái niệm về tình bạn và cũng như thế, khi ta nói đến một tác phẩm nghệ thuật đích thực… Trong nghĩa ấy, một nhà nước tồi tệ là một nhà nước không-đúng thật, và, cái tồi tệ và cái không đúng thật nói chung là nằm ngay trong sự mâu thuẫn giữa sự quy định hay Khái niệm với sự hiện hữu của đối tượng ấy” (nt). Nói khác đi, “sự trùng hợp của một nội dung với chính bản thân nó” đồng nghĩa với sự trùng hợp giữa Khái niệm và sự hiện hữu của nội dung ấy.

Quan niệm này có dính líu đến AristotelesKant. Chính Aristoteles là người đề ra công thức nhận thức luận về sự trùng hợp giữa sự vật và tư duy (adequatio rei et intellectus), bây giờ Hegel biến công thức nhận thức luận ấy thành một mô hình thực tại luận. Còn Kant? Kant đã chê công thức này vì nó dẫn ta vào một “vòng lẩn quẩn thảm hại” (Phê phán lý tính thuần túy, B82) vì biết thế nào là “trùng hợp” và sự “trùng hợp” này lại cần một “sự trùng hợp” khác kiểm chứng cho đến vô tận. Kant tìm ra lối thoát khỏi vòng lẩn quẩn bằng “cuộc cách mạng Copernic”: những đối tượng (như là những hiện tượng được mang lại trong kinh nghiệm) phải hướng theo phương cách nhận thức của ta mới tạo ra được chân lý; nói rõ hơn, chân lý chỉ có khi cái được mang lại lấp đầy và tương ứng với những điều kiện chủ quan tạo nên tính đối tượng, đó là các mô thức của trực quan (không gian, thời gian) và của tư duy (12 phạm trù). Sự trùng hợp ấy sẽ không còn dẫn ta vào vòng lẩn quẩn nữa, vì ta, với tư cách là người nhận thức, đã biết rõ về tổng thể những điều kiện nhận thức chủ quan một cách tiên nghiệm và có thể khẳng định (không lẩn quẩn!) liệu hiện tượng có thỏa ứng với các điều kiện này hay không. Ðiều quan trọng ở đây là: Hegel đã “giải phóng” sự giới hạn về định nghĩa chân lý của Kant trong phạm vi “hiện tượng”, chuyển định nghĩa ấy thành khách quan: không phải chỉ có những đối tượng của kinh nghiệm (theo nghĩa của Kant) mà mọi đối tượng đều có thể là “đúng thật” theo nghĩa chúng trùng hợp với Khái niệm về chúng trong sự hiện hữu của chúng! “Nhận thức” trở thành “Khái niệm” khi “nhận thức” không còn được hiểu như là nhận thức đơn thuần của chúng ta, nói khác đi, “Khái niệm” không chỉ là khái niệm do ta tạo ra về một đối tượng theo nghĩa thông thường mà là bản chất [được thấu hiểu bằng] khái niệm của bản thân đối tượng. Như thế, sự trùng hợp giữa đối tượng và Khái niệm – Hegel gọi là “sự trùng hợp của một nội dung với chính nó” (nt) – là một sự kiện khách quan mà ta có thể nhận thức được như đối với bất kỳ sự kiện nào. Chính trong ý nghĩa “khách quan” này mà Hegel đã tuyên bố: chân lý là đối tượng của nhận thức triết học. Còn chữ “đúng thật” (wahr) mà ta quen dùng - để chỉ một biểu tượng phù hợp của ta về đối tượng hay sự việc - chỉ được Hegel gọi là “đúng đắn”, “hợp thức” (richtig; Anh: right, correct) mà thôi. Nếu gọi một biểu tượng “đúng đắn” của ta về một đối tượng là “đúng thật” khi bản thân đối tượng không trùng hợp với chính nó hay với Khái niệm của nó, thì đó là một mâu thuẫn! Ông giải thích: “Ta có thể có một hình dung đúng đắn (richtig) về một đối tượng tồi tệ, nhưng nội dung của bản thân biểu tượng này lại là một cái không-đúng thật trong bản thân nó (in sich Unwahres). Những điều “đúng đắn” nhưng đồng thời lại “không đúng thật” ấy, ta có hàng khối trong đầu óc!” (nt). Vậy, nhận thức đúng thật (chân lý) chỉ có thể là nhận thức về cái đúng thật, tức về chân lý khách quan, với tư cách là đối tượng của triết học.

b) Chân lý, với tư cách là “đối tượng tuyệt đối” của triết học, chỉ có thể là… giống cái, số ít! (chữ “chân lý” trong tiếng Ðức, Pháp mang… giống cái), nghĩa là, chỉ có thể có “Một” chân lý mà thôi và tên gọi của nó, như ta đã biết, là “cái Tuyệt đối”: “chỉ duy có cái Tuyệt đối mới là đúng thật và chỉ duy có cái Ðúng thật mới là tuyệt đối” (Hiện tượng học Tinh thần, §75), hay = “Thượng đế”: “cả hai [triết học và tôn giáo] đều có đối tượng là chân lý, và theo nghĩa tối cao, Thượng đế là Chân lý và chỉ có Thượng đế mới là Chân lý” (BKT I: §1). Lý do: “chỉ có Thượng đế mới là sự trùng hợp đúng thật giữa Khái niệm và Thực tại, còn mọi sự vật hữu tận đều có một sự vô-chân lý tự mình (an sich); chúng có một Khái niệm và một sự hiện hữu, nhưng hiện hữu này không trùng hợp với Khái niệm” (nt). Tính không trùng hợp ấy chính là tính hữu tận, tức sự vật phải có một ranh giới, phải kết thúc, tiêu vong như là biểu hiện của bản thân “tính vô-chân lý” này. Gốc gác của quan niệm này về “tính hữu tận” là quan niệm của Platon về cái “óntos òn”, tức cái “Hữu thể đang tồn tại” (das seiend Seiende/”cái Tồn tại một cách đang tồn tại”!), theo nghĩa cái đang tồn tại (sự hiện hữu) hoàn toàn tương ứng với Khái niệm của nó (là cái gì phải “tồn tại”)! Chỉ có cái gì “tồn tại một cách tồn tại” - nơi Platon, đó là “Ý niệm”/Idee - mới “tồn tại” theo nghĩa đích thực: nó loại trừ sự không-tồn tại, sự tồn tại-khác, sự ra đời và tiêu vong ra khỏi nó, nên bản thân nó không tiêu vong và là vĩnh hằng. Tuy xuất phát từ mô hình ấy, nhưng Hegel đồng thời cho thấy: cái Ðúng thật duy nhất này không đứng bên cạnh hay đứng ngoài những sự vật hữu tận và không-đúng thật. Những sự vật hữu tận chỉ có được chân lý của mình ở bên trong cái Chân lý duy nhất kia; và, trong viễn tượng ấy, chúng không đúng thật, không tương ứng với Khái niệm của mình, là hữu tận, tiêu vong; chân lý (sự thật) của chúng là cái-không chân lý.

c) Như đã nói, cái Ðúng thật (Tuyệt đối) không đứng bên cạnh hay bị cô lập với những sự vật hữu tận, không-đúng thật. Hegel hiểu cái Tuyệt đối cả theo nghĩa là cái Tuyệt đối hay Chân lý của những sự vật hữu tận. Hegel khác với truyền thống Platon (có nguồn gốc từ Parmenides) trước hết ở chỗ: ông hiểu cái Ðúng thật như là sự thống nhất giữa cái Ðúng thật và cái Không-đúng thật. Ông không khẳng định rằng chỉ có cái “óntos òn” là “tồn tại”, còn mọi cái khác đều không tồn tại, trái lại, chúng “tồn tại” ở trong cái “óntos òn”, cho dù chúng là hữu tận, tiêu vong. Ta nhớ lại mô hình tư biện của Hegel: cái Tuyệt đối là sự thống nhất của cái Vô tận và cái Hữu tận, làm nền tảng cho quan niệm nổi tiếng: “cái Ðúng thật là cái Toàn bộ” (Hiện tượng học Tinh thần, §20). Cũng như trong quan niệm về ý thức, Hegel cũng chủ trương một thuyết toàn bộ (Holismus) về chân lý, không thừa nhận cái Ðúng thật nào ở bên ngoài cái Toàn bộ đúng thật.

Từ đó, ta có thể hiểu chính xác hơn thuật ngữ “thuyết duy tâm tuyệt đối” của Hegel. Cái Ðúng thật duy nhất là cái Hợp lý tính-hiện thực/hay nói ngược lại cũng thế: là cái Hiện thực-hợp lý tính (nhớ đến câu nổi tiếng nhất của Hegel trong Triết học pháp quyền: “Cái gì hợp lý tính là hiện thực và cái gì hiện thực là hợp lý tính”). Cái đó được Hegel gọi là “Ý niệm” (Idee), và “Ý niệm” chính là đối tượng của triết học. Chữ “thuyết duy tâm” (Idealismus) là từ chữ “Ý niệm” (Idee) mà ra, theo nghĩa là sự thống nhất giữa Khái niệm và Hiện thực. Vì thế, ông phân biệt “thuyết duy tâm”, hay đúng hơn, “thuyết Ý niệm” của ông với các dạng “thuyết duy tâm” chủ quan hay khách quan khác, vì nó bao hàm cả cái chủ quan lẫn cái khách quan trong một nhất thể. Thuyết của ông là “khoa học về “Ý niệm tuyệt đối” và vì thế, là “thuyết duy tâm tuyệt đối”: “... chỉ duy có Ý niệm tuyệt đối là Tồn tại, là Sự sống thường hằng, là chân lý tự biết về chính mình và là tất cả Chân lý. Nó là đối tượng duy nhất và là nội dung của triết học” (Khoa học Lôgíc, I)[3].

  • Quan niệm của Hegel về ý thức:

Theo Hegel, nguyên nhân đưa đến quan niệm cho rằng nhận thức là “công cụ” hay “môi trường” (Hiện tượng học Tinh thần, §72) và từ đó, phân cắt giữa bản thân ta và việc nhận thức cũng như giữa nhận thức và cái Tuyệt đối là do một quan niệm sai lầm về “ý thức”. Ông nhận định: khái niệm về ý thức theo kiểu của Descartes đối lập lại với đối tượng và là điểm xuất phát cơ bản của nhận thức là không có chỗ đứng trong một nền triết học đúng thật: khái niệm ấy không có tính chân lý. Cái “Cogito” của Descartes theo nghĩa một Tabula rasa của một ý thức trống rỗng có trước mọi kinh nghiệm lẫn cái “Tôi-tư duy” thuần túy “đi kèm theo mọi biểu tượng” của Kant đều là những ảo ảnh, những sản phẩm hoang đường của đầu óc không hề có thật trong kinh nghiệm hiện thực.

Vậy, “ý thức” là gì, theo Hegel? Hegel nhắc lại “những quy định trừu tượng về cái Biết và về chân lý như chúng thường xuất hiện nơi ý thức. Ý thức vừa phân biệt chính mình với đối tượng, vừa đồng thời, quan hệ với đối tượng. Nói cách khác, có một đối tượng cho ý thức, và phương diện của mối quan hệ hay của sự tồn tại cho ý thức được xem là cái Biết (hay nhận thức). Rồi ta lại phân biệt cái tồn tại này cho ý thức với cái tồn tại-tự mình. Cái có quan hệ với cái Biết cũng lại được phân biệt với cái tồn tại-tự mình và cái tự-mình này được thiết định như là tồn tại ở bên ngoài mối quan hệ: phương diện của cái tự-mình này được gọi là chân lý hay sự thật. Vậy, theo Hegel, cái Biết và chân lý phân biệt với nhau giống như giữa cái tồn tại-cho-ý thức với cái tồn tại-tự mình của đối tượng. Cái Biết là phương diện quan hệ của đối tượng với ý thức (cái tồn tại-cho ý thức hay cái tồn tại tương quan), còn chân lý là sự độc lập của đối tượng hay của sự tồn tại đối với ý thức (cái tồn tại-tự mình hay cái tồn tại khách quan). Ðiểm mấu chốt của Hegel là: cả hai quy định này của đối tượng hay của tồn tại, tức cái tồn tại-tự mình lẫn cái tồn tại-cho ý thức của nó đều rơi vào bên trong ý thức, bởi bản thân ý thức là cả hai: vừa quan hệ với chính mình, vừa tự phân biệt mình với cái khác. Do đó, theo Hegel, không thể đặt câu hỏi như Descartes hay Kant rằng làm sao một ý thức dị biệt triệt để với đối tượng lại có thể quan hệ được với đối tượng, vì, trong sự thật, ý thức bao giờ cũng quan hệ với cái được nó phân biệt như là đối tượng. Cho nên, về mặt thuật ngữ, Hegel cũng gọi ý thức là “tồn tại tự-mình và cho-mình”, với ý nghĩa là: ý thức là một tồn tại vừa quan hệ vừa độc lập với một cái gì tự-mình cũng đang tồn tại cho ý thức. Ý thức không phải là một tồn tại có trước hay bên cạnh cái tồn tại tự-mình và cho-mình mà là bản thân cái tồn tại này chứ không thể là cái gì khác được. Như thế, nếu xuất phát từ một sự “phân biệt” hay “dị biệt” (Unterschied) giữa bản thân ta với tư cách là “Cogito” hay “Tôi-tư duy” đối lập lại với việc nhận thức là việc làm sai lầm, vì ta chính là sự nhận thức, với tư cách là ý thức.

Với các lập luận trên, ta dễ dàng nhận ra: Hegel đã gán cho ý thức cấu trúc của mô hình tư biện cơ bản của ông (xem: Hiện tượng học Tinh thần, Chú giải dẫn nhập 1.4). Ý thức là sự thống nhất giữa tồn tại-tự mình và tồn tại-cho mình, giữa sự phân biệt và sự quan hệ, giữa sự khác biệt và nhất thể, giữa sự không-đồng nhất và sự đồng nhất. Ông bác quan niệm của Descartes rằng ý thức và đối tượng đứng mỗi bên một nơi, trái lại, ý thức là sự thống nhất giữa ý thức và đối tượng. Theo đó, không còn cơ sở để cho rằng còn có một cái tồn tại-tự mình (hay tự thân) nào đứng ở bên ngoài cái tồn tại-tự mình-và-cho mình, hay không rơi vào trong sự thống nhất này của cái tồn tại-tự mình và cái tồn tại-cho mình, vì cái tồn tại-tự mình-và-cho mình là sự thống nhất giữa ý thức và đối tượng: cái “tồn tại-tự mình” hay “tự thân”, tức sự quy định về tính độc lập của đối tượng đối với ý thức cũng là một sự quy định của bản thân ý thức và sẽ không có ý nghĩa gì cả nếu độc lập với ý thức. Nói cách khác, nếu tôi đề ra tư tưởng về một sự độc lập của đối tượng đối với ý thức thì, theo Hegel, chính tôi đã ở trong vị trí của ý thức chứ không phải ở bên ngoài nó. (Cũng vì thế, Hegel xem luận điểm của Kant về “vật-tự thân” không thể nhận thức được là “vô-tư tưởng”).

Nếu ta thấy bỡ ngỡ và lạ lùng trước quan niệm trên đây của Hegel về ý thức thì Hegel cho rằng đó là do ta đã quen xem loại ý thức phân biệt chính mình với đối tượng là toàn bộ ý thức. Theo ông, ta đã quên rằng chính ta có ý thức về việc phân biệt giữa đối tượng và ý thức và như thế là không hề rời khỏi phạm vi của ý thức! Cái ý thức toàn bộ ấy không còn có gì ở bên ngoài nó; nó không phụ thuộc vào cái gì ở bên ngoài, và theo nghĩa đó, nó là tuyệt đối. Thuyết “toàn bộ về ý thức” (Holismus, từ gốc Hy Lạp: tò hólon: cái toàn bộ) cho rằng tất cả đều là ý thức ở trong ý thức, và đối tượng cũng là “cái khác” của ý thức; ý thức hiểu đúng nghĩa bao giờ cũng là ý thức tuyệt đối, ngay từ hình thái sơ khai nhất của nó là “sự xác tín cảm tính” như ta đã gặp ở Chương I của quyển Hiện tượng học Tinh thần.

Thật thế, chỉ cần nhìn vào ngôn ngữ, ta sẽ thấy ngay rằng mình đang vận động trong một “vòng tròn toàn bộ” theo nghĩa của Hegel. “Ý nghĩa của cảm năng” – tức ý nghĩa và tầm quan trọng được ta dành cho cảm năng (như là ranh giới đối với Tư duy) – thật ra cũng nhờ có tính tự khởi của Tư duy chúng ta[4]. Vì thế, theo Hegel, ngay ý tưởng về “vật-tự thân”, về một cái “không-đồng nhất” dường như vượt ra khỏi tư duy và ngôn ngữ của ta cũng chỉ có ý nghĩa như là một tư tưởng (nghĩa là: ở bên trong ý thức) nhằm lưu ý đến sự hữu hạn của việc mang lại ý nghĩa cho sự vật của ta hơn là biểu thị một Tồn tại, một cái gì “có sẵn một cách tuyệt đối”.

Tóm lại, đến với Hegel và với Khoa học Lôgíc nói riêng, ta đứng trước nhiều thách thức cần vượt qua và nhiều thắc mắc cần giải đáp:

  • Sự trình bày Lôgíc học của Tư duy liệu có thể giúp xóa bỏ sự “ngộ nhận” về một cái gì nằm ở bên ngoài tính nội tại của Tư duy hay không?
  • Hegel biện minh bằng cách nào cho luận điểm: sự tất yếu hay đúng hơn, cấu trúc tất yếu của Một Tư duy, của “Khái niệm đồng nhất” là nền tảng cho mọi ngôn ngữ khác nhau của chúng ta cũng như cho mọi cách nhìn nhận về thế giới?
  • Nếu lý tính thoát ly khỏi sự ràng buộc của “cái Tôi” (tức của tư tưởng về một hữu thể-lý tính nói chung của con người), nếu nó có yêu sách tự thể hiện độc lập với “cái Tôi”, vậy ta có thể quan hệ với nó như thế nào?
  • Ta có thể hiểu sự “tự do của Tư duy”, sự “tự do của Khái niệm” như là sự tự do của ta theo nghĩa nào? Và tại sao ta lại được yêu cầu không được “can thiệp” vào sự tự-trình bày một cách chủ động của Khái niệm này?...

Theo Hegel, các câu hỏi ấy không thể có câu trả lời trước khi đi sâu vào “bản thân Sự việc”. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ta buộc phải tạm gác lại các câu hỏi ấy cho đến khi “Chân lý của cái Toàn bộ” tự phơi bày, cũng như việc tìm hiểu và học hỏi Hegel không đồng nghĩa với việc “nhắm mắt” theo ông!

II.2: Tồn tại – Bản chất – Khái niệm: Việc phân chia nội dung của Lôgíc học và cơ sở của nó

Lôgíc học của Hegel “chia” làm ba phần: học thuyết về Tồn tại, học thuyết về Bản chất và học thuyết về Khái niệm (Ý niệm). Cơ sở cho sự phân chia này, nói ngắn gọn, là mô hình cơ bản của tư tưởng của ông về sự phát triển lôgíc: từ sự trực tiếp chuyển sang sự phản tư (sự trung giới) để đi đến sự “tồn tại-ở-trong-nhà-của-chính-mình đã phát triển”, tức đi đến một sự đồng nhất có năng lực hội nhập mọi cấp độ của sự xuất nhượng (Entäußerung) của chính mình, hay nói cách khác: “việc đã quay trở lại vào trong chính mình”.

-    Ðộng lực của sự phát triển này là sự mâu thuẫn. Tuy nhiên, “mâu thuẫn” (Widerspruch) là khái niệm dễ gây hiểu lầm. Trước hết, nó tuyệt nhiên không nhằm phá hủy nguyên tắc đồng nhất (không-mâu thuẫn) của Lôgíc học hình thức để biến mọi tính quy luật của tư duy thành ảo tượng trống rỗng. Thêm nữa, nó cũng không nhằm chỉ ra những mâu thuẫn trong lý tính theo cách hiểu của Kant về lý tính như “đấu trường biện chứng [lừa dối]” nhằm mục đích xác lập các ranh giới cho lý tính bằng con đường phê phán. Tiếp thu nguyên tắc về mâu thuẫn biện chứng của J. G. Fichte (trong Học thuyết khoa học / Wissenschaftslehre 1794), Hegel khẳng định một phép biện chứng “tích cực” về ranh giới: xác định một ranh giới có nghĩa là vượt ra khỏi ranh giới ấy, là đồng thời xác định cái khác, cái bên ngoài ranh giới. Theo Fichte, khi tôi biết nội dung của khái niệm A, thì có nghĩa:

- tôi biết cái gì thuộc về khái niệm A, và đồng thời

- tôi biết cái gì không thuộc về khái niệm A

bởi, nếu không như thế, tôi sẽ không biết được nội dung của khái niệm A! Nói khác đi, khi có một khái niệm thì đồng thời sự phủ định của nó cũng được cùng suy tưởng hay “cùng được thiết định”. Khi tôi bảo “đây là A”, tôi đồng thời nói: “đây không phải là không-A”. Nhưng, để nói được như thế, tôi phải tiền-giả định một cái chung giữa A và không-A, nếu không, sẽ không có sự đối lập có ý nghĩa. Ðể bảo cái này màu đỏ, cái kia không phải đỏ, cả hai phải có đặc điểm chung là cùng có một màu nào đó (sẽ vô nghĩa nếu bảo rằng số nguyên không phải là màu đỏ!). Vậy nếu cả A lẫn không-A được “vượt bỏ” trong một mệnh đề mới, tức mang lại một sự “tổng hợp”, ta sẽ biểu thị cái chung ấy:

“Cả A lẫn không-A đều là B”

Các cách phát biểu khác, chẳng hạn: “B vừa là A vừa là không-A” hay thậm chí: “B là A và không-A” sẽ gây hiểu lầm, vì đây không phải là sự bổ sung về ngoại diên mà chỉ muốn nói đến một sự phủ định bị giới hạn mà thôi[5]. Khi tôi nói: “Cái này không phải là cây bút chì” thì câu này chỉ có nghĩa khi quy chiếu đến những dụng cụ để viết hoặc ít ra gần giống với bút chì chứ không phải quy chiếu đến mọi thứ khác trên đời. Nhiều điều vô nghĩa và vô lý nảy sinh khi lẫn lộn giữa sự phủ định lôgíc (hình thức) và sự phủ định bị giới hạn nói ở đây. Trong Lời dẫn nhập cho [Ðại] Khoa học Lôgíc, Hegel viết rất rõ: “Ðiều duy nhất để có sự tiến lên trong khoa học (…) là nhận thức về mệnh đề lôgíc rằng cái phủ định cũng rất có tính tích cực [hay khẳng định / positiv], hay, cái tự-mâu thuẫn không giải thể trong cái số không, trong cái hư vô trừu tượng mà, về cơ bản, chỉ trong sự phủ định của một nội dung đặc thù, rằng một sự phủ định như thế không phải là mọi sự phủ định mà là sự phủ định của Sự việc nhất định, do đó là sự phủ định nhất định, về cơ bản, chứa đựng trong kết quả cái từ đó nó được suy ra: điều này quả là một sự lặp thừa, nhưng nếu không như thế, ắt nó là một cái trực tiếp chứ không phải là một kết quả. Vì lẽ cái được rút ra hay sự phủ định là sự phủ định nhất định, nên sự phủ định này có một nội dung. Nó là một khái niệm mới, nhưng là một khái niệm cao hơn, phong phú hơn khái niệm trước, vì nó đã được làm giàu thêm nhờ sự phủ định cái trước hay nhờ cái đối lập; do đó, chứa đựng khái niệm trước, nhưng cũng chứa đựng nhiều hơn khái niệm ấy, và đó là sự thống nhất giữa nó với cái đối lập của nó”[6]. Có thể nói, Hegel đã chuyển nguyên tắc-giới hạn của Spinoza: “omnis determinatio est negatio” (“mọi sự khẳng định là phủ định”) thành công thức “tích cực” cơ bản cho hệ thống của ông. Bất kỳ sự quy định nào cũng là sự phủ định, vì nói về một cái gì thì đồng thời cũng có nghĩa là nói về cái không phải là nó. Sự quy định tiền giả định sự khác biệt; sự đồng nhất của một sự vật sở dĩ có được là nhờ sự phủ định. Vậy, ở đây, mâu thuẫn được hiểu theo nghĩa là sự đối lập nhất định, không phải là một sự tự-loại trừ mà là cơ sở cho sự đồng nhất. Sự vật chỉ là nó trong sự đối lập với những cái khác, tức, trong mối tương quan (Beziehung) với cái khác. 

Lôgíc học của Hegel khai triển những mối tương quan giữa các hình thức nhất định của tư duy với nhau, nhằm chỉ ra sự thống nhất tối hậu của toàn bộ những mối tương quan này. Khái niệm của sự thống nhất ấy là Khái niệm về “tính phủ định tuyệt đối”. Ðiều này có nghĩa: sự thống nhất không phải là sự triệt tiêu các sự khác biệt mà tự triển khai như là sự “phủ định nhất định” của chúng, tức như là sự phủ định của một sự phủ định với kết quả là “sự đồng nhất của sự đồng nhất và sự khác biệt”. Như thế, sự đồng nhất ở đây không tách rời với sự phủ định, và tham vọng của Hegel là làm cho sự đối lập của chúng có thể suy tưởng được trong một sự đồng nhất bao trùm cả sự đối lập thay vì chấp nhận nó như sự đối lập tuyệt đối, không thể lay chuyển. Theo nghĩa đó, mâu thuẫn không có sự độc lập tự tồn tuyệt đối. Bằng một cách chơi chữ, Hegel cho rằng bất kỳ cái gì có sự mâu thuẫn nội tại thì đều “tiêu vong” (zugrunde gehen), tức có nghĩa: quay trở lại vào trong cơ sở của nó (in seinen Grund gehen), tức trong sự đồng nhất bao trùm nó và làm chỗ dựa cho nó. Thừa nhận ý nghĩa “cấu tạo” của sự mâu thuẫn, nhưng đồng thời phải hội nhập nó vào trong một sự thống nhất có hệ thống với tư cách là một “mômen”.

-    Vậy, các nhan đề: “Tồn tại”, “Bản chất”, “Khái niệm” nói lên điều gì? Một “định nghĩa siêu hình học” cứng nhắc về chúng không nói lên được gì cả vì Lôgíc học không phải là một bảng liệt kê các quy định tư duy mà là sự phát triển và khai triển của chúng theo nghĩa “lịch sử”. Con đường từ “Tồn tại” đến “Ý niệm” tuân theo sự tất yếu nội tại của tư duy, là sự trình bày về tiến trình tự-khai triển chủ động của những quy định của nó. Các hình thái lịch sử của tư duy cũng có nghĩa là con đường tự phê phán để đi đến mục tiêu. Vì thế, Lôgíc học là sự thống nhất giữa việc trình bày và việc phê phán. Mục tiêu của Lôgíc học không độc lập với con đường mà nó mô tả. Chỉ theo dõi con đường, ta mới hiểu được nội dung của nó, thay vì xét kết quả của nó từ bên ngoài. Do sự thống nhất giữa việc trình bày và việc phê phán nên việc hiểu này đồng thời diễn ra trên cả hai cấp độ: một mặt tái hiện sự phê phán của tư duy, tức các hình thái lịch sử của nó và mặt khác, thấu hiểu được thẩm quyền và yêu sách của bản thân Tư duy đang trình bày sự phê phán ấy. Tính toàn thể không phải là con số cộng đơn thuần của các viễn tượng mà là sự phê phán đã được tiến hành đối với chúng, là cái toàn bộ đã phát triển, trong đó các giới hạn của chúng đã được minh định (vì thế, Hegel xem diễn trình của Lôgíc học gần như song hành với diễn trình của lịch sử triết học: “Quan hệ của các hệ thống triết học sớm hơn với các hệ thống muộn hơn, nhìn chung, giống như mối quan hệ của các cấp độ sớm hơn với các cấp độ muộn hơn của Ý niệm lôgíc, có nghĩa là, các hệ thống sớm hơn được bao hàm như là đã được vượt bỏ ở trong các hệ thống muộn hơn”, BKT I, §86, Giảng thêm 2. Từ cách nhìn có tính mục đích luận ấy về Tư duy, Hegel là người đầu tiên viết lịch sử triết học như một hệ thống với tất cả hệ quả tích cực lẫn tiêu cực của nó. Xem thêm: Chú giải dẫn nhập cho Lời Tựa I).

Về diễn trình (hay sự phân chia nội dung) của Lôgíc học, ta chỉ có thể đề cập thật ngắn gọn ở đây, vì, do bản tính của vấn đề, việc đề cập sơ bộ không nói lên được điều gì một khi chưa nắm bắt được nội dung chất liệu của nó. Khoa học Lôgíc được chia làm ba phần, nhưng thực ra là hai, được Hegel gọi là phần “khách quan” (Học thuyết về Tồn tại và Học thuyết về Bản chất) và phần “chủ quan” (Học thuyết về Khái niệm). “Lôgíc học khách quan” bàn về những quy định tư duy, trong đó, Tư duy, về mặt hình thức, là ở nơi cái khác; còn “Lôgíc học chủ quan” là nơi Tư duy, về mặt hình thức, là ở nơi chính mình. Nói một cách thô thiển, Lôgíc học khách quan bao gồm những hình thức tư tưởng được gọi là những phạm trù cơ bản mang tính quy định khách quan nơi Kant cũng như trong hữu thể học trước Kant (chẳng hạn: tồn tại, con số, hay quy luật tư duy như luật đồng nhất hoặc quan hệ nhân quả v.v…). Ngược lại, Lôgíc học chủ quan bao hàm những quy định được Aristoteles bàn trong Lôgíc học truyền thống (như khái niệm, phán đoán, suy luận), tức những “thực tại tư duy” được suy tưởng một cách trực tiếp nơi bản thân Tư duy. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, từ quan điểm Lôgíc học của Hegel, ngay những quy định tư duy khách quan thì, trong sự thật, đều có tính chủ quan, cũng như ngược lại, những quy định chủ quan không đơn thuần là những hình thức tư tưởng mà còn là những nhân tố cấu thành của tính khách quan lôgíc. Vậy, quan điểm Lôgíc học toàn bộ không phải quan điểm khách quan hay chủ quan mà là quan điểm tuyệt đối theo nghĩa của tri thức tuyệt đối, tức một quan điểm tự nhận thức chính mình, tự lý giải từ chính mình. Diễn trình của Lôgíc học không gì khác hơn là sự triển khai tính tuyệt đối nội tại này nơi từng tính quy định của bản thân những quy định tư duy.

Lôgíc học về Tồn tại, nói rất đơn giản, bao gồm những quy định cách xa tư duy nhất, rồi trong Lôgíc học về Bản chất, Tư duy đã ở trong hình thái của sự phản tư, dù còn theo nghĩa bị hạn chế và ràng buộc của sự phản tư này. Chỉ đến Lôgíc học về Khái niệm, tức mục đích (Telos) nội tại của toàn bộ công trình, Tư duy tự giác và thật sự tự do mới được khai triển. Ðể giảm bớt sự trừu tượng của vấn đề, ta có thể mượn một ví dụ đơn giản của T. S. Hoffmann để minh họa diễn trình của các “vị thế” lôgíc này[7].

Trước mắt ta là một quyển sách. Nó là – hay phải là – một sản phẩm của tinh thần, và vì thế, tạo nên một sự thống nhất lôgíc và có thể lý giải được một cách lôgíc. Xét theo Lôgíc học của Tồn tại, nó chưa phải là một nhất thể mang tính khái niệm mà chỉ là nhất thể của một cái gì đó đang tồn tại đơn thuần như những cái khác, chẳng hạn được phân biệt với tách cà phê đang đặt lên trên nó. Nó có các “Chất” nhất định, chưa phải là chất lượng văn chương, khoa học hay tư tưởng gì cả mà chỉ có màu sắc và một độ cứng để có thể đặt được tách cà phê lên trên. Nó cũng có cả quy định về “lượng” nữa: nó có trọng lượng và số trang để ta dễ phân biệt giữa… luận văn tốt nghiệp cử nhân và luận án tiến sĩ. Thế thôi, trong Tồn tại, ta không còn có thể đi xa hơn: “Tồn tại là Khái niệm nhưng chỉ mới là Khái niệm tự mình; những quy định của nó chỉ đơn thuần tồn tại, trong sự phân biệt của nó với cái khác mà thôi” (BKT I, §84). Tất nhiên không ai ngăn cấm ta nhìn mọi sự vật, kể cả con người (chứ không chỉ quyển sách) theo các quy định của Lôgíc học Tồn tại; chẳng hạn, đó là cách nhìn “vật hóa”: quy giản bản ngã vào bộ não, quy giản bản tính lý tính của con người vào hệ số IQ hoặc quy giản vấn đề chân lý (đúng / sai) vào việc đếm những lá phiếu… Chỉ có điều, lý tính, trên con đường trở về với chính mình, không thể dừng lại ở những hình thức phạm trù hóa như thế.

Trong Lôgíc học Bản chất, ta nhận ra rằng ý nghĩa đúng thật của cái trực tiếp (quyển sách) không thể bị chết cứng trong lôgíc tồn tại! Trong bản chất, cái trực tiếp ấy được biết như là một cái được trung giới, tức như là hiện tượng của một cái khác mà nó có mối quan hệ bản chất. Ở ví dụ của ta, ý nghĩa của quyển sách bây giờ không phải là giá đỡ cho tách cà phê hay dày và nặng mà ở chỗ có thể trao đổi với cái khác, “cho” cái khác. Chẳng hạn nó có trị giá bằng tiền, có thể đem ra so sánh với những vật có trị giá khác (chú ý một cách chơi chữ tinh tế của Hegel: trong bản chất, sự vật là “vẻ ngoài” / Schein giống như tờ giấy bạc / Geldschein). Vậy, vượt khỏi sự cứng nhắc của Lôgíc học Tồn tại, bây giờ quyển sách là cái gì có giá trị bản chất và là cơ sở cho… ngành xuất bản và phát hành. Thêm vào đó là các quan hệ khách quan khác tạo nên “tính trực tiếp đã được vượt bỏ”: chẳng hạn, nó còn là cơ sở cho sự hiện hữu (§115 và tiếp) của tác giả; có thể gây tác động đến dư luận, thậm chí làm thay đổi thế giới, tức đi vào trong quan hệ nhân quả v.v… Và lẽ tất nhiên, cũng không ai ngăn cấm ta giải thích thế giới theo giác độ bản chất và các quan hệ trao đổi như thế. Chỉ có điều: như thế vẫn chưa đạt đến được cấp độ Khái niệm về / của quyển sách!

Rõ ràng chỉ ở cấp độ của Lôgíc  học chủ quan (Học thuyết về Khái niệm), quyển sách mới là quyển sách được đọc, được hiểu và tiếp thu, tức đi vào một mối quan hệ tinh thần đích thực. Với tư cách là một sự vật, rồi là món hàng hóa, quyển sách “tự-mình” ấy chờ đợi để được nhận thức theo đúng nghĩa. Bây giờ mới bộc lộ rõ rằng: cứu cánh (Telos) của quyển sách không phải là để làm giá đỡ cho tách cà phê hay để hốt bạc. Ðiều quyết định là: không có một đối tượng nào (vật chất hay vật trao đổi) mà không có cứu cánh hay mục đích tối hậu của nó để được khai mở ở cấp độ khái niệm (Logos). Vậy, sự chìm đắm của Ý niệm (Idee) trong cái vật thể (Ontisch) và trong vẻ ngoài (Schein), giấc ngủ vùi của Khái niệm ở trong tính khách quan và tính chức năng không thể che khuất sự thật rằng: tất cả những điều ấy chỉ là mômen của việc trở về-với-chính-mình của Khái niệm, của việc lấp đầy ý nghĩa và mục đích. Diễn trình các cấp độ “lôgíc” ấy cũng có thể nhận ra ngay nơi bản thân quyển sách, chẳng hạn nơi sự khác biệt giữa một quyển niên giám điện thoại, một bộ luật và một tác phẩm như… Khoa học Lôgíc. Trong khi quyển niên giám điện thoại chỉ phản ánh sự “tồn tại” có tính kiện tính (Faktizität) đơn thuần của những số điện thoại, thì bộ luật biểu thị một thực tại được phản tư, phản ánh, quy định, sắp xếp những quan hệ bản chất. Trong khi đó, tác phẩm triết học hay văn chương lại là nơi Tinh thần cư ngụ, không theo đuổi những ý đồ phụ, do đó, chỉ ở đây, nó mới tự triển khai toàn vẹn. Ví dụ trên đây – như mọi ví dụ – không tránh khỏi khập khiễng, nhưng tạm thời cho ta một cái nhìn sơ bộ về những cấp độ lôgíc sẽ diễn ra.

-    Một điểm trọng yếu khác có tính phương pháp luận cần lưu ý khi đi vào Khoa học Lôgíc. Như đã nói, vấn đề không phải là làm một bản “kết toán” đầy đủ những phạm trù (với Hegel, số lượng phạm trù là nhiều hơn 12 phạm trù của Kant!) mà còn phải xét các hệ quả hữu thể học của chúng như là tư tưởng tự phát triển của một Hệ thống. Thật vậy, ta không sống trong một thế giới có phạm trù “trở thành” / “Werden” (§88) rồi lại có cả phạm trù “tồn tại-hiện có” / “Dasein” (§89) v.v… mà ta chỉ sống trong một thế giới khi ta có thể suy tưởng rằng một tồn tại-hiện có, tự bản thân nó, là một cái đã trở thành, còn sự trở thành, từ bản thân nó, sẽ tạo điều kiện cho “tồn tại-hiện có” ra đời… Ðiều kiện tiên quyết để có thể suy tưởng được điều ấy là nhận ra rằng những phạm trù riêng lẻ không phải là những đơn vị ý thể tách bạch mà trái lại, tạo nên một sự liên tục lôgíc có thể tái hiện lại được. Tất nhiên, vấn đề khó khăn là: làm sao có thể đi đến một sự liên tục lôgíc từ những quan điểm lôgíc khác nhau (chẳng hạn, nhìn Tồn tại từ quan điểm về chất khác với nhìn nó từ quan điểm về lượng v.v…)? Ở đây, ta không có một cơ chất (Substrat) ở bên ngoài theo nghĩa một thế giới đúng thật đã được biết, còn các hình thức lôgíc hầu như chỉ là ngoại tại, nhờ đó có thể so sánh mỗi phạm trù được phát biểu với “nội dung” độc lập với nó. Các phạm trù lôgíc của Hegel, ngược lại, tuyệt nhiên không có một nội dung độc lập với chúng, trái lại, bản thân chúng là kẻ sáng tạo nên nội dung cho mình. Chúng không phục tùng một thước đo nào từ bên ngoài, khác hẳn với thước đo nằm “bên ngoài phạm trù” như trong các khoa học riêng lẻ. Thật thế, trong các khoa học riêng lẻ, thường nghiệm, việc tạo lý thuyết sẽ được kiểm chứng (Verifikation) hay kiểm sai (Falsifikation) dựa vào đối tượng thường nghiệm bên ngoài. Trong khi đó, cái Biết triết học không phải là cái Biết có tính “đối tượng” mà là cái Biết phản tư (reflexiv). Trong cái Biết phản tư, tư tưởng không chỉ là hình thức của một nội dung ở bên ngoài hình thức này mà bản thân là nội dung của nó. Lôgíc học nói riêng, như đã thấy, là “tư duy về các tư tưởng” (“Denken von Gedanken” / “Thinking of thoughts”), do đó, không thể được kiểm chứng, kiểm sai hay điều chỉnh bằng cái gì, về nguyên tắc, không phải là tư tưởng. Vậy, tiến trình lôgíc chỉ dựa vào chính mình một cách tự trị (autonom). Thế nhưng, bên trong tiến trình ấy, làm sao ta đi được từ quy định (phạm trù) này sang quy định khác? Làm sao đi đến việc ngày càng trở thành cụ thể của những tư tưởng, đến khái niệm ngày càng phức tạp hơn? Hegel trả lời: vận động cụ thể hóa này là vận động tự-quy định (Selbstbestimmung); đó là quy luật cấu trúc của mọi sự phát triển lôgíc, tương ứng với cái Biết phản tư. “Tự-quy định” là gì? Theo Hegel, toàn bộ phép biện chứng của sự phát triển phạm trù không gì khác hơn là tiến trình vận động để đi đến chỗ “tương ứng” với chính mình (Adäquanz zu sich selbst), là việc tát cạn hết (Erschöpfung / exhaustion) toàn bộ nội dung của phạm trù bằng tính quy định (thoạt đầu còn mang tính trực tiếp, trừu tượng). Trong tiến trình “tự-quy định” này, phạm trù một mặt được tát cạn, mặt khác trở thành cơ sở cho phạm trù tiếp theo. Phạm trù tiếp theo lấy kết quả của tiến trình tự-quy định trước đó như là sự trực tiếp, qua đó bắt đầu sự vận động của chính mình. Về thuật ngữ, Hegel gọi vị thế của phạm trù còn “trực tiếp” ấy là “Khái niệm” / “Begriff” của nó theo nghĩa là cái gì mới có “tính nguyên tắc”.  Còn việc kiến tạo mối quan hệ với chính mình, tức phát triển tính quy định nội tại sẽ được gọi là sự “tự-thực hiện” / “Realisierung” của nó. Sau cùng, mômen thứ ba, tức phạm trù đã quan hệ hoàn toàn với chính mình, chính là “tính toàn thể” / “Totalität” của nó. Các vấn đề thuộc phương pháp luận này chỉ được Hegel bàn sâu ở cuối quyển Lôgíc học, sau khi Tư duy đã trải qua toàn bộ diễn trình. Bây giờ là lúc ta quay lại – hay đúng hơn, bắt đầu làm quen – với diễn trình ấy ở những nét khái quát nhất, nhưng không còn dưới hình thức của “tư duy hình tượng” (như ví dụ về “quyển sách” trước đây) mà trong ngôn ngữ của tư duy lôgíc học tư biện.

 



[1] Martin Heidegger, Về bản chất của Chân lý / Vom Wesen der Wahrheit, Tübingen, 1943, tr. 11: “Das Wesen der Wahrheit ist die Freiheit”.

([2]) Hegel muốn khôi phục lại những gì đã bị đánh mất trong cách hiểu về chữ “Logos”. “Logos” trong nguyên nghĩa Hy Lạp là “quan hệ” cũng như động từ của nó: “legei” là “tập hợp”. Từ Haraklit, Logos của triết gia là sự tập hợp cái Nhiều ở trong Quan hệ để “hướng đến cái Một”. Nét chủ đạo của triết học Tây phương, do đó, là “logos” chứ không phải là sự “tính toán” (“logismos”). Theo Hegel, thời cận đại đã quy giản “cái Lôgíc” thành “tính lý tính” (Rationalität), làm cho Logos mất đi phạm vi rộng lớn của nó, như là ngôn ngữ và ý nghĩa, khái niệm và tư tưởng, tỉ lệ và quy luật. Logos bao gồm cả hình thức nội dung (do đó, Lôgíc học hình thức là Lôgíc học bị què quặt). Quan trọng nhất là đã đánh mất sự “tự-hoạt động” của việc “tập hợp lôgíc” vốn không bao giờ là một sản phẩm giả tạo, gượng ép. Logos là tự do. Do đó, phép biện chứng là câu trả lời tự do cho cái Logos tự do.

[3] Theo triết học Kant thì những sự vật mà ta biết được chỉ là những hiện tượng cho ta, còn cái Tự mình của chúng vẫn là một cái Bên kia không thể vươn đến được đối với ta. Theo Hegel, ý thức “ngây thơ” có lý khi bắt đầu với thuyết duy tâm chủ quan này, theo đó cái tạo nên nội dung cho ý thức của ta chỉ là cái của chúng ta, chỉ là cái do ta thiết định nên. Trong khi đó, tình hình đích thực lại là: những sự vật mà ta biết một cách trực tiếp đều là những hiện tượng đơn thuần, không chỉ cho ta mà còn tự mình và chính đó là sự quy định riêng có của những sự vật hữu tận vốn có cơ sở cho sự tồn tại của chúng không phải ở trong chính chúng mà ở trong Ý niệm phổ biến thần linh. Quan niệm này về sự vật tuy cũng được gọi là thuyết duy tâm, nhưng, khác với thuyết duy tâm chủ quan của triết học phê phán nói trên, cần phải mệnh danh là “thuyết duy tâm tuyệt đối”. (BKT I, §45. Giảng thêm).

(Một “chuyện cười” thế kỷ 19: “Con: Thượng đế tạo ra thế gian phải không? Cha: đúng! - Thế đã tạo xong chưa? - Xong rồi! - Thế còn việc gì để làm nữa không? - Còn. Còn phải ngồi làm mẫu cho Fichte, Schelling, Hegel vẽ chân dung về cái Tuyệt đối!” / Peter Kauder, Hegel beim Billard, München 2000, tr. 133).

[4] Ngay nhà “Kant mới” Ernst Cassirer (trong Triết học của những hình thức biểu trưng / Philosophie der symbolischen Formen) cũng thừa nhận rằng những hình thức biểu trưng (trong đó có ngôn ngữ) tưởng như là những gì có sẵn, được mang lại, cũng phục tùng những tác vụ tự phát của việc ban cho ý nghĩa của chúng ta.

[5] Fichte đã đặt một khái niệm nhất định vào cho “A”, đó là “cái Tôi”. Từ đó, Fichte triển khai ba bước lập luận:

Chính đề: Tôi là Tôi (A=A)

Phản đề: Tôi không phải là không-Tôi (Tôi # không-Tôi, tức A # không-A)

Hợp đề: Trong cái Tôi, tôi đối lập một cái không-Tôi có thể phân chia với cái Tôi có thể phân chia.

(Xem: J. G. Fichte: Cơ sở của toàn bộ Học thuyết khoa học / Grundlage der gesammten Wissenschaftslehre (1794), trong: Toàn tập Fichte, tiếng Ðức, Berlin 1845, tập I, tr. 110).

Mệnh đề thứ ba khá bí hiểm sẽ dễ hiểu hơn nếu ta suy luận rằng: chính bản thân cái Tôi phân biệt tôi với thế giới chung quanh tôi. Nhưng, sự phân biệt này là một nỗ lực của ý thức của tôi, nghĩa là, tôi tiến hành sự phân biệt ở trong tôi giữa “Tôi” và “không-Tôi”. Vì lẽ chính tôi là kẻ phân biệt, và tôi làm việc ấy ở trong tôi (trong ý thức của tôi) nên tôi phải nói rằng: cái Tôi, trong trường hợp trước, được suy tưởng như cái gì bao trùm, còn trong trường hợp sau, như là cái tự tách mình để đối lập với thế giới. Chưa bàn đến các cấp độ tư biện cao hơn (tính toàn thể của mọi sự quy định nói chung ở trong cái Tôi-tuyệt đối), có lẽ Fichte không muốn nói gì nhiều hơn thế trong “công thức” biện chứng nổi tiếng nói trên!

[6] Hegel, [Ðại] Khoa học Lô gíc / Wissenschaft der Logik, I, Hamburg, Meiner 1984, Lời dẫn nhập, tr. 38.

[7] T. S. Hoffmann, Nhập môn Hegel / Hegel. Eine Propädeutik, Wiesbaden, 2004, tr. 286-288.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt