BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC
“BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC”: TỪ THAM VỌNG HỆ THỐNG ÐẾN HỌC THUYẾT VỀ CHÂN LÝ VÀ TỰ DO
BÙI VĂN NAM SƠN
G.W.F. Hegel. Bách khoa thư các khoa học triết học 1: Khoa học lôgíc (Logik der Enzyklopädie). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008, tr. LIV-LXV. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn đã được dịch giả Bùi Văn Nam Sơn cho phép.
II. 2: Học thuyết về Tồn tại Bây giờ cây đã nở hoa Nghĩa là hoa đã nở rồi trên cây[1]. - “Tồn tại”, trong quan niệm thông thường, là tổng thể những gì đang hiện hữu, do đó, dường như có nội dung phong phú vô tận, và khái niệm “Tồn tại” là sâu và rộng hơn mọi khái niệm khác. Ngược lại, với Hegel, “Tồn tại” lại là khái niệm nghèo nàn nhất, trống rỗng nhất. Nó là Khái niệm, nhưng là Khái niệm còn ở cấp độ tự-mình (an sich), chưa được khai triển. Sự khai triển sẽ mang lại nội dung xác định cho một tên gọi suông như thế. Ở đây có hai khả năng: - hiểu sự phát triển các quy định lôgíc như là sự phát triển của những “định nghĩa” (“Tồn tại” – với hệ từ “là” – tự nó là một định nghĩa), nghĩa là, Tồn tại, xét như đối tượng thoạt đầu còn vô-quy định, rút cục sẽ được xác định hoàn chỉnh. - Hegel vạch ra chỗ hạn chế của khả năng ấy và đây là điểm mấu chốt trong triết học của ông. Lý do: dùng “Tồn tại” để định nghĩa cái Tuyệt đối có nghĩa là tiền-giả định cái Tuyệt đối như là một đối tượng còn trống rỗng của tư kiến đơn thuần của ta, rồi sau đó sẽ nhờ Tư duy xác định cho. Thế nhưng, với Hegel, cái Tuyệt đối không phải là một đối tượng có những quy định, trái lại, chính bản thân nó sẽ tự trình bày chính mình như là tổng thể những quy định này. Nếu phản ánh điều này vào trong mô hình của mệnh đề, ắt sẽ là: cái Tuyệt đối không phải là chủ ngữ sẽ có được tính quy định bằng việc “gán” thêm vào cho nó những vị ngữ, còn chủ ngữ cứ đứng yên như là cái gì có trước và làm cơ sở cho chúng. Ngược lại, chủ ngữ chỉ là sự thống nhất của bản thân những vị ngữ này: diễn trình của Lôgíc học có nhiệm vụ chứng minh rằng, phát xuất từ tư tưởng đơn giản về Tồn tại, chính những vị ngữ này sẽ tất yếu tự phát triển từ tư duy về tư tưởng này. Ðó là ba kích thước: tính đơn giản, sự khác biệt và sự “trở về từ sự khác biệt”. Và đó cũng chính là mô hình cơ bản của “mệnh đề tư biện” / “spekulativer Satz”[2] trong vận động lôgíc: cái nhất thể đơn giản của cái Tuyệt đối (của Tồn tại) phải tự mình dị biệt hóa; cái vô hạn không thể nói ra được ấy phải tự hữu hạn hóa, phải được phát biểu ra trong sự đối lập cụ thể của những khái niệm nhất định, đồng thời, tư tưởng cũng sẽ phải xuất phát từ sự cụ thể của những quy định hữu hạn ấy mà quay trở về lại chỗ bắt đầu của nó, chứ không đánh mất mình trong sự khác biệt, và chứng minh sự cụ thể ấy như là sự cụ thể bên trong cái nhất thể. Nói khác đi, Tư duy bắt đầu với Tồn tại nhưng sẽ không “bỏ rơi” nó mà sẽ quay lại với nó ở cuối chặng đường với sự phong phú đích thực. II.2.1: Tồn tại, Hư vô, Trở thành: sự bắt đầu của Lôgíc học Trong bài “Khoa học phải bắt đầu với cái gì?” được đặt trên đầu bộ [Ðại] Khoa học Lôgíc, Hegel cho thấy: trong lĩnh vực lôgíc, Tư duy cần bỏ lại phía sau mọi sự cụ thể của kinh nghiệm, tức từ bỏ sự đối lập giữa “ý thức” và “đối tượng” để đứng trên quan điểm đích thực của Tư duy, tập trung vào Lôgíc nội tại của bản thân những quy định tư duy: “Vậy, nằm trong bản tính của bản thân sự bắt đầu, sự bắt đầu là Tồn tại chứ không là gì khác cả” (I, 5, 72). Tại sao? Vì: sự bắt đầu – đúng là sự bắt đầu – phải là cái gì hoàn toàn vô-quy định, nghĩa là không có tính quy định và sự tiền-giả định nào hết. Chỉ có khái niệm Tồn tại mới đáp ứng được yêu cầu này. Trong “tồn tại” không chứa đựng điều gì hết để làm cho nó được phân biệt với những khái niệm khác, chỉ riêng nó là “cái trực tiếp đơn giản, không được quy định”. Vậy tại sao không bắt đầu với “cái Tôi-tư duy” như là sự tự-xác tín đầu tiên làm cơ sở cho khoa học như nơi Descartes? Theo Hegel, “cái Tôi” không phải là cái trực tiếp, đơn giản mà là cái cụ thể vô hạn: là Tự-ý thức, cái Tôi đã là ý thức về thế giới của mình, là được trung giới bởi thế giới, trong khi cái bắt đầu phải là một cái đơn giản tuyệt đối: “Khi bắt đầu tư duy, ta không có gì ngoài tư tưởng trong tính thuần túy không được quy định của nó, bởi để quy định, cần có một cái này và một cái khác, nhưng trong sự bắt đầu, ta chưa có cái khác nào cả”… “Ðó là cái ta gọi là “tồn tại”. Ðó là cái không cảm giác được, không trực quan được, không hình dung được, mà là tư tưởng thuần túy, và, với tư cách ấy, nó tạo nên điểm bắt đầu” (§86, Giảng thêm I). Nói khác đi, khi hỏi: “Tồn tại là gì?”, sự khởi đầu của tư duy không có câu trả lời nào khác ngoài: nó không (chưa) có quy định nào hết. Cái không có quy định nào hết thì chẳng khác gì là hư vô. Vậy, Tồn tại là Hư vô! Trong §88, Hegel thừa nhận rằng: Tồn tại là Hư vô (cái phong phú vô hạn = sự trống rỗng tuyệt đối) quả là nghịch lý, nhưng sẽ không nghịch lý khi hiểu rằng ở đây Tồn tại không phải là nội dung của một biểu tượng, không phải là “cái gì đó” mà là sự trừu tượng (hóa) khỏi mọi nội dung nhất định, là một cái trống rỗng toàn bộ, do đó, tuyệt nhiên không thể phân biệt với hư vô: “Vì thế, sự phân biệt của hai cái này chỉ là một sự phân biệt được tưởng ra như thế [trong đầu óc chủ quan của ta], là sự phân biệt hoàn toàn trừu tượng và đồng thời không phải là một sự phân biệt. Chẳng hạn, khi ta nói về hai loài khác nhau, thì “loài” là cái chung của cả hai (…) Ngược lại, nơi tồn tại và hư vô, sự phân biệt ở trong tính không có nền móng của nó, và vì thế nó không phải là một sự phân biệt, vì cả hai quy định [tồn tại, hư vô] đều cùng một tính không có nền móng ấy” (§87, Giảng thêm). Christa Hackenesch[3] bình luận: “Ở đây, mệnh đề của Parmenides cho rằng chỉ Tồn tại là có, còn Hư vô là không có đã bị phá hủy không chỉ theo nghĩa: Tồn tại được đặt ngang hàng với Hư vô mà còn có cả nghĩa ngược lại: Hư vô là Tồn tại, thay vì chỉ có nghĩa là tính phủ định đơn thuần chống lại Tồn tại. Hegel gắn liền Hư vô với Tồn tại vì ngay Hư vô cũng là cái Tuyệt đối còn cần phải được quy định. Như thế, ông đã tước đi của nó ý nghĩa của sự tự do tuyệt đối, của tính phủ định chống lại tồn tại. Ở thế kỷ XX, trong danh tác “Tồn tại và Hư vô / L’Être et le Néant, J. P. Sartre đã suy tưởng về Tự do theo nghĩa [tự do tuyệt đối] này, như là tính quy định, là hoạt động vô hạn chống lại kiện tính của Tồn tại. Trong khi đó, ngay từ đầu của Lôgíc học, Hegel đã đồng nhất hóa Hư vô với Tồn tại, sự Tự do với sự Tất yếu. Sự tự do của hành động phủ định không phải là sự tự do của cái Tôi cá nhân chống lại Tồn tại mà là sự tự do của bản thân Tồn tại; nó phải triển khai tính phủ định nội tại nơi chính nó bằng nhiều bước từ “Lôgíc học của bản thân Sự việc” thay vì, như nơi Sartre, một cá nhân là tác giả của nó. Bảo rằng Tồn tại và Hư vô là cùng một thứ có nghĩa rằng ngay trong lòng của bản thân Tồn tại đã có sẵn tính phủ định của riêng nó, đó là “sự biến động” (Unruhe) để thoát khỏi kiện tính đơn thuần của nó”. - Thế bây giờ “bản thân Sự việc” của Lôgíc học đi vào vận động như thế nào để có hình thái cụ thể? Trước hết, dứt khoát không phải là do chúng ta đặt nền cho những quy định trừu tượng bằng những biểu tượng cụ thể để “mang lại sự sống” cho chúng. Như đã nói, vận động của lôgíc không cần một việc làm ngoại tại như thế. Tuy nhiên, dù sao ta cũng có sẵn những biểu tượng trong đầu như là “sự trở thành” và “sự bắt đầu”, tức những biểu tượng trong đó đã bao hàm cả Tồn tại và Hư vô! Cái gì đó trở thành nghĩa là nó chưa có mà sẽ sinh ra, hoặc đang còn đó nhưng sẽ mất đi. “Trở thành” / Werden / Becoming / le Devenir là sự quá độ của hư vô sang tồn tại và của tồn tại sang hư vô. Bảo rằng cái gì đó bắt đầu, có nghĩa là nói về nó như là vừa đã có, vừa chưa có. Lôgíc học chỉ giúp ta biết những gì mình nói, tức chỉ minh nhiên hóa những gì đã hàm chứa trong những biểu tượng của ta (§88, Nhận xét 3). - Trong khái niệm về sự Trở thành, Lôgíc học có được khái niệm được xác định nhất định đầu tiên: “Sự Trở thành là tư tưởng cụ thể đầu tiên, và do đó, là khái niệm thứ nhất, trong khi tồn tại và hư vô, ngược lại, là những sự trừu tượng trống rỗng” (§88, Giảng thêm). Bởi trong nó, lần đầu tiên một sự khác biệt (hay phân biệt) được thiết định. Sự trở thành là sự thống nhất của tồn tại và hư vô trong tính khác biệt của chúng. Không có ranh giới tuyệt đối giữa tồn tại và hư vô (như quan niệm của Parmenides), vì chân lý (hay sự thật) của chúng là sự trở thành (như quan niệm “tất cả đều trôi chảy” của Heraklit). - Sự trở thành, trong sự tiêu biến liên tục của tồn tại thành hư vô, của hư vô thành tồn tại, sẽ “trở thành” gì? Hegel cho rằng sự trở thành sẽ vượt bỏ tiến trình này trong sự mâu thuẫn: “Trong sự trở thành, do tồn tại và hư vô đều tiêu biến và chỉ duy điều này mới là Khái niệm của nó, nên bản thân nó là một cái đang tiêu biến, giống như một ngọn lửa tự lụi tàn trong chính mình vì tiêu dùng hết chất liệu của mình” (§89, Giảng thêm). Nhưng, việc “lụi tàn” này không dẫn đến hư vô một lần nữa mà, do sự tự vượt bỏ mâu thuẫn của sự trở thành, sẽ nảy sinh tồn tại-hiện có (Dasein) hay tồn tại-được quy định (bestimmtes Sein) (§89 và tiếp), tức một hình thái mới của sự thống nhất, trong đó những cái đã chuyển sang nhau (tồn tại và hư vô) không còn là những cái được phân biệt một cách trực tiếp nữa mà là các mômen trong nhất thể mới này. Ðây là chỗ gay go nhất, khó hiểu nhất và cũng khó thuyết phục nhất ngay trong bước đầu của Lôgíc học! “Sự trở thành” vô hình thái, cái “tất cả đều trôi chảy” làm sao dẫn đến một nội dung xác định để chống lại việc chuyển thành hư vô? Tất nhiên, nếu Hegel chỉ dừng lại ở tư tưởng về sự trở thành thì không khác gì từ bỏ toàn bộ công trình Lôgíc học. Sự vô tận của sự trở thành sẽ không có mục tiêu; tiến trình này sẽ không mang lại kết quả và cũng không thể lĩnh hội nó như một toàn bộ, một “tính toàn thể” (Totalität). Nhưng, làm sao lý giải sự “lụi tàn”, sự “tiêu biến” của bản thân sự trở thành như là một sự phủ định của phủ định có nội dung khẳng định với kết quả là “tồn tại-hiện có” được? M. Theunissen[4] nhấn mạnh đến sự thiếu thuyết phục này trong lập luận cơ bản của Hegel, còn D. Henrich[5] cho rằng sự bắt đầu của Lôgíc học có thể cho phép “sự hiển nhiên của một tư tưởng thuần túy”. T. S. Hoffmann[6] cố gắng đưa ra một cách lý giải “tích cực” hơn: nếu ta thiết định sự trở thành dựa theo một mômen trong nó là “tồn tại”, thì sự trở thành sẽ trở thành một hư vô, nhưng là một hư vô cụ thể, đó là hư vô của sự trở thành, tức sự không-trở thành (nữa), hay sự đứng yên trực tiếp. Sự trở thành của trở thành, về phương diện đó, là không-còn-trở thành, như Hegel nói “sự tiêu biến của sự tiêu biến”. Còn nếu ta thiết định nó dựa theo mômen hư vô, thì sự trở thành sẽ trở thành tồn tại, nhưng bây giờ là một tồn tại cụ thể, trong đó sự trở thành bị phủ định, hay, là một tồn tại “đã trở thành”. Như thế, tồn tại-hiện có (Dasein) có thể lý giải được như là sự trở thành đã được vượt bỏ, và định nghĩa trực tiếp của nó là cả hai khái niệm: khái niệm phủ định của việc không-còn trở thành và khái niệm khẳng định của việc đã-trở thành. Tồn tại-hiện có không còn là sự thống nhất “chuyển sang nhau” của tồn tại và hư vô mà là sự thống nhất trực tiếp của cả hai, trong đó sự chuyển sang nhau (sự quá độ) đã được vượt bỏ, tức được phủ định lẫn được bảo lưu: tồn tại-hiện có – như là cái gì đã-trở thành – có một lịch sử, một quá khứ, và đó là điều Hegel muốn nói: tồn tại với tính quy định: Bây giờ cây đã nở hoa Nghĩa là hoa đã nở rồi trên cây II.2.2: Tồn tại-hiện có (Dasein) - Tồn tại-hiện có là kết quả đã-trở thành, nhưng khi nó xuất hiện, nó đã quên mất việc đã-trở-thành, tức việc được trung giới hay lịch sử quá khứ của nó và trình diện như là một cái Thứ nhất, một tồn tại cụ thể, nhất định. Song, là cái kế thừa của tồn tại và hư vô, nó không dừng lại ở sự trực tiếp mà sẽ tự dị biệt hóa hình thái đơn giản này. Nhưng, thoạt đầu, nó còn đồng nhất với tính (được) quy định của nó, như là Chất đơn giản, một thực tại được Hegel gọi là một cái “tồn tại-tự-mình” (§91). Với tư cách ấy, nó được nắm lấy trong sự cô lập, tức độc lập với những gì khác với nó. - Nhưng, nếu không có sự phân biệt với cái khác, tồn tại-hiện có ắt sẽ lại trở thành tồn tại thuần túy, trừu tượng như trước đây. Ta chỉ nắm bắt cụ thể được cái gì khi biết nó không phải là cái gì! Nghĩa là, ta phải biết ranh giới hay giới hạn của nó mới xác định nó được. Vì thế, tồn tại-hiện có, muốn thực sự tồn tại, phải là hữu hạn. Sự hữu hạn không phải là số phận bi đát của bất kỳ tồn tại-hiện có nào, mà chính là điều kiện để nó hiện hữu như cái gì xác định hay được quy định nhất định. Áp dụng vào con người, Hegel viết rất hay: “Con người, trong chừng mực muốn tồn tại hiện thực, phải tồn tại-hiện có, và, để làm như thế, ta phải tự đặt ranh giới cho mình. Ai ghê tởm cái hữu hạn, người ấy chẳng hề đi đến được hiện thực nào cả mà trái lại, cứ ở mãi trong cái trừu tượng và mòn mỏi dần” (§92, Giảng thêm). Như thế, Lôgíc học cũng mang theo chút hương vị của Hiện tượng học và Nhân loại học: ta cần sự khác biệt của người khác mới có thể xác định mình như một cái Tôi nhất định. Người khác không phải là “địa ngục” (Sartre) đối với tôi, trái lại, tôi chỉ có được bản sắc trong việc định ranh giới với người khác. Ở đây, tính hữu hạn được suy tưởng như là mômen tích cực cho việc kiến tạo sự đồng nhất hay bản sắc. Tuy nhiên, hai điểm cần lưu ý: thứ nhất, việc phân biệt với người khác không đủ để suy tưởng về tính cá nhân: “Cá nhân là cái gì nhiều hơn so với việc bị hạn chế mọi mặt” ([Ðại] Khoa học Lôgíc, I, 5, 121). Thứ hai, với Hegel, sự hữu hạn không phải là cái gì tuyệt đối (khác với Heidegger: trước ranh giới tuyệt đối, mọi ý nghĩa nhất định của Dasein sẽ chìm đắm trong hư vô!); nó chỉ là “cái phủ định đầu tiên”, và việc tiếp tục phủ định cái phủ định này sẽ cho ra đời khái niệm mới mẻ, tròn đầy về tồn tại. Ðiều này diễn ra khi đối đầu với tư tưởng về sự vô hạn hay vô tận. Hegel triệt để bác bỏ việc đối lập cứng nhắc giữa sự hữu hạn và sự vô hạn của “Siêu hình học-giác tính tầm thường nhất” (§95, Nhận xét). Vậy, làm sao suy tưởng về sự thống nhất của cả hai? Xem sự vô hạn như một lý tưởng đơn thuần là một sự mơ mộng vô ích, thậm chí “chán phèo và hèn nhát”: “Nếu ta nhầm tưởng rằng bằng cách cứ dấn thân vào tính vô hạn ấy, ta tự giải thoát mình ra khỏi cái hữu hạn, thì, trong thực tế, chỉ là sự giải thoát của việc trốn chạy. Nhưng, kẻ trốn chạy vẫn chưa phải là tự do, vì, trong việc trốn chạy, người ấy vẫn còn bị quy định bởi điều làm người ấy phải trốn chạy” (§94, Giảng thêm). Thật thế, nếu ta đối lập cái vô hạn với cái hữu hạn, thì chính ta đã biến cái vô hạn – chỉ như là một phía của sự đối lập – thành cái hữu hạn: cả hai đều là một cái hữu hạn, cái này có cái kia như là sự phủ định của chính mình; cả hai đều là một cái khác; mỗi cái là “cái khác của cái khác”! Vậy, sự vô hạn không phải là việc vượt bỏ sự hữu hạn mà là việc tự-vượt bỏ của chính sự hữu hạn. Viễn tượng của sự “vô hạn đúng thật” (§95, Nhận xét) là ở chỗ: xem cái khác như là cơ sở tích cực của mọi tính quy định của tồn tại hữu hạn, đồng thời như cái gì tạo nên sự đồng nhất của nó với mọi cái hữu hạn. Hegel bảo chân lý của cái hữu hạn là “tính ý thể” (Idealität) của nó (§95, Nhận xét). Tính ý thể có nghĩa: cái hữu hạn không thể đòi hỏi rằng mình là một hiện thực độc lập. Nó chỉ có ý nghĩa “ý thể” (ideell) – tức phải được vượt bỏ –, trong chừng mực nó chỉ đạt được hiện thực của mình từ toàn bộ mối quan hệ chằng chịt của những tính quy định hữu hạn. Khi tồn tại-hiện có vẫn cứ xem mình là một “tồn tại-cho-mình” (§96), nó quay lưng lại với hiện thực này. Rõ nhất vẫn là mô hình của “cái Tôi”: sự tự-quy (Selbstbeziehung) thực ra không phải là sự tự-xác tín trực tiếp, trái lại, trong sự “tồn tại-cho-mình” ấy, chỉ thể hiện ý chí của cái tôi muốn quay lưng lại với tính quy định bởi những người khác để tưởng rằng mình là “chính mình” một cách trực tiếp. - Tạm rời “cái Tôi” để quay trở lại với sự quy định của tồn tại, điều này sẽ có nghĩa: hình dung về một cái đơn giản, về một “cái Một” tối hậu, có sự đồng nhất bất-phân biệt, làm nền tảng cho mọi sự phức tạp và được trung giới có nghĩa là lãng quên hay không biết đến tiến trình nhờ đâu khái niệm về “cái Một” này đã ra đời. Với tư cách là “tồn tại-cho-mình”, thực chất “cái Một” là sự tự-quy (tự-quan hệ) đã được trung giới, là việc quay lưng lại với tính quy định của chính mình. Vì thế, Hegel gọi cái Một tồn tại-cho mình ấy là sự tự-phân biệt, tức như “tự đẩy chính mình ra khỏi mình: cái Một “tự thiết định chính mình như là cái Nhiều” (§97). Vì sao? Trong truyền thống của thuyết “nguyên tử”, quan hệ của cái Nhiều là việc “hút và đẩy” lẫn nhau, vì mỗi cái trong cái Nhiều đều là cái Một; chúng giống hệt nhau; quan hệ của chúng là tự-quan hệ. Như thế, tồn tại-cho mình cũng không còn đứng vững được nữa: tính quy định của nó trong quan hệ với cái khác bị thủ tiêu. Việc phân lập giữa những cái Một trong cái Nhiều chỉ còn là việc “đếm” tính nhiều của chúng! Kết quả: Chất, tính quy định đã chuyển thành Lượng hay “bị thủ tiêu, vượt bỏ” trong Lượng. II.2.3: Lượng và Hạn độ - Hegel bảo rằng ông không hề muốn “xúc phạm đến phẩm giá của toán học” khi xếp Lượng sau Chất như là sự “thủ tiêu” Chất! Ông thừa nhận rằng Lượng “dù sao cũng là một cấp độ của Ý niệm” (§99, Giảng thêm), nhưng ngay lập tức lưu ý: Lượng có tầm quan trọng khác nhau trong thế giới tự nhiên và trong thế giới tinh thần: trong thế giới sau, Lượng giữ vai trò nhỏ bé, vì trong vương quốc của tự do, vấn đề không phải là “nhiều hơn” hay “ít hơn”, và không thể đo đạc hay tính toán được. Nếu “những hình thức của Tồn tại” nhìn chung là “những hình thức nghèo nàn nhất, tức, trừu tượng nhất” (§85, Giảng thêm) thì việc chuyển từ Chất sang Lượng thoạt đầu có vẻ đã tăng thêm sự nghèo nàn, trừu tượng. - Xét nguồn gốc ra đời của Lượng từ sự thống nhất đầy mâu thuẫn của cái Một và cái Nhiều, Hegel xác định tính liên tục và tính đứt đoạn như là hai phương diện của Lượng. Chỉ khi ta “trừu tượng hóa” hay bỏ qua một trong hai phương diện ấy mới nảy sinh các nghịch lý (Antinomien) quen thuộc về tính khả phân vô hạn của không gian, thời gian và vật chất. Trong Khái niệm về cái cụ thể, Hegel không phê phán con số như là sự trừu tượng hóa khỏi Chất cảm tính của sự vật, trái lại, chỉ phê phán việc “xem tính quy định của tư tưởng nói chung như là tính quy định đơn thuần về con số” (§104, Giảng thêm 3). Trong chừng mực đó, với ông, Pythagoras – thường bị phê phán lẫn ca ngợi vì đã “đi quá xa” trong tính trừu tượng nhân danh một thứ cảm năng cũng có tính trừu tượng – “thật ra là đi không đủ xa” (§104, Giảng thêm 3). Sự cụ thể đích thực không nằm ở các giác quan mà là sự cụ thể của bản thân tư tưởng. Nơi Pythagoras (nổi tiếng về sự sùng bái con số) tư tưởng về con số vẫn còn hết sức nghèo nàn. Hegel muốn khắc phục sự nghèo nàn ấy của Lượng bằng cách vạch rõ mâu thuẫn nội tại của nó, bàn sâu về đặc điểm của nó: là một cái gì khả biến “nhưng, bất chấp mọi sự biến đổi, vẫn cứ là chính mình” (§106, Giảng thêm). Bởi vì, trong diễn trình vô hạn “nhàm chán kinh khủng” (§104) về Lượng, con số tưởng như tự đánh mất mình sẽ tìm thấy trở lại tính quy định (chất) của mình bằng cách: trong quan hệ (hay tỉ lệ) về lượng (xem: Chú giải dẫn nhập cho §105 và tiếp), con số thiết lập được một quan hệ, trong đó nó vẫn đồng nhất với nó bất chấp sự khả biến của các “vế” của nó: “tỉ lệ vẫn dửng dưng trước sự thay đổi của hai số hạng và vẫn giữ nguyên bao lâu số mũ phân (exponent) không bị thay đổi. Vì thế, ta có thể lấy 3:6 thay cho 2:4 mà không thay đổi tỷ lệ, bởi số mũ phân hay thương số 2 vẫn giữ nguyên trong cả hai trường hợp”. (§105, Giảng thêm). - Lượng thể hiện chính mình trong sự thống nhất ấy với Chất bằng Hạn độ / Maß / Measure. Hạn độ là đặc điểm hình thái của sự vật, nhưng không phải là một lượng ngoại tại mà là quy luật nội tại của nó. Thoạt đầu, trong quy định về Hạn độ, Lượng và Chất vẫn còn dửng dưng với nhau trong sự thống nhất ấy: độ lớn của sự vật có thể bành trướng đến chỗ “vô-hạn độ” mà vẫn cứ là sự vật ấy. Nhưng, sự dửng dưng này có ranh giới của nó. Việc “chuyển [trở lại] từ Lượng sang Chất” (§109, Giảng thêm) mô tả điểm tiếp xúc của cả hai, nơi đó việc vi phạm hạn độ sẽ dẫn đến sự phá vỡ hạn độ, và tạo nên một Chất mới, qua đó, một sự vật mới, một hạn độ mới được thiết lập. - Hegel gọi Hạn độ là “tính quy định đã hoàn chỉnh” (§107, Giảng thêm) của Tồn tại; với nó, Lôgíc học về Tồn tại đã đi đến chỗ kết thúc: “trong Hạn độ, đã có mặt Bản chất” (§111, Giảng thêm). Ðiều này có nghĩa là gì? Khi ta bỏ lại sau lưng mình Lôgíc học về Tồn tại, ta hướng đến “Bản chất”, nhưng không phải là hướng đến một đối tượng mới mẻ nào cả. Ta cũng không rời bỏ bình diện hiện tượng đơn thuần để bước vào một thế giới khác, đúng thật hơn, gọi là “Bản chất” của nó. Hạt nhân triết học Hegel là phản đối chủ trương “hai thế giới” dưới mọi màu sắc. Ta trải nghiệm chân lý thế giới không phải bằng cách “đi tìm” nó ở một trật tự hằng cửu của những Ý niệm hay nơi một “Bản chất vĩnh hằng” nào đó. Trái lại, chân lý này là chân lý của hình thái nhất định của bản thân thế giới. “Bản chất phải xuất hiện ra” (Das Wesen muß erscheinen) là khẩu hiệu của triết học Hegel: chân lý của bản chất tự chứng tỏ ở chỗ có năng lực mang lại hình thái cho chính mình và tự trình bày trong những hình thức nhất định của Tư duy; những hình thức này đồng thời là những hình thức của hiện thực. - Vậy, các hình thức tư duy của Tồn tại khác với các hình thức tư duy của Bản chất ở chỗ nào, nếu không phải là sự khác biệt về lĩnh vực đối tượng? Ta sẽ bắt đầu đến gần hơn thực chất “Sự việc” khi nhớ lại rằng nhiệm vụ của Lôgíc học là xác định mối quan hệ (Verhältnis / relation / rapport) của các hình thức này. Thật thế, sở dĩ Hegel phê phán các quy định của Tồn tại là “nghèo nàn”, “trừu tượng” là vì chúng xuất hiện ra như thể là cái gì tuyệt đối (theo nghĩa từ nguyên của chữ “absolutum”: thoát ly mọi quan hệ), loại trừ mọi quan hệ với cái khác, trong khi chính quan hệ ấy mới xác định nội dung cho chúng. “Tồn tại thì có; không-tồn tại (Hư vô) là không có”, câu nói ấy của Parmenides là cách nói triệt để nhất về “tính tuyệt đối” này của tư duy về tồn tại: tư duy này không sẵn sàng thừa nhận rằng ranh giới, sự phủ định của nó chính là… của nó! Rồi ngay cả tồn tại-hiện có (Dasein) – như là tồn tại được quy định – vẫn xem mình là độc lập với mọi quan hệ, thậm chí xem quan hệ là nguy cơ cho sự tự đánh mất chính mình. Cái hữu hạn thu mình vào cái tồn tại-cho-mình, trốn chạy khỏi ranh giới của mình, thay vì vượt khỏi ranh giới và trải nghiệm sự thống nhất trong việc gặp gỡ cái khác; vì cả hai đều ở trong sự thống nhất ấy. - Vậy, kích thước của Bản chất là kích thước trong đó việc cố thủ vào sự độc lập-tự tồn tỏ ra là vô vọng. Nó bắt đầu từ kinh nghiệm của tư duy rằng những quy định của mình bao giờ cũng đã “chuyển sang” nhau. Lôgíc học về Bản chất, do đó, là Lôgíc học của sự phản tư (Reflexion), vì ở đây, các hình thức của tư duy không còn tồn tại-đơn thuần mà là được thiết định trong tính được trung giới tuyệt đối của chúng. Ở đây cũng sáng tỏ lần đầu tiên rằng: ý nghĩa không thể tách rời với Hệ thống, với mạng lưới của tính quy định lẫn nhau, và không có một “tồn tại-đơn thuần” nào thoát khỏi mạng lưới ấy được cả. - Trong khái niệm về Hạn độ trước đây, Hegel đã “dự đoán” (antizipiert) về khái niệm Bản chất, bởi ở đó, nguyên tắc về sự quan hệ đã hình thành. Trong Hạn độ, mọi bộ phận của cái toàn bộ đều phụ thuộc vào nó, vào mạng lưới mang tính quy luật của nó. Tôi không thể tùy tiện thay đổi những hình thức sống – tưởng như ngoại tại với mình – mà không biến mình thành một con người khác! Tôi là ai? Không do một bản chất có trước hiện tượng quyết định mà chỉ trong “hạn độ”, trong “mối quan hệ” do tôi tạo ra giữa những hình thức biểu hiện khác nhau của bản ngã của tôi. Bây giờ, ta rời khỏi không gian của Tồn tại để bước vào không gian của tính quan hệ tuyệt đối, chứ không phải vào trong một “thế giới bản chất” cứng nhắc nào đó nằm “bên dưới” hay “sau lưng” Tồn tại. [1] Bùi Giáng. [2] Xem thêm: “Mệnh đề tư biện và phương pháp tư biện: sự diễn tả cái Ðúng thật như là cái Toàn bộ”, Hegel, Hiện tượng học Tinh thần, Chú giải dẫn nhập 1.4, BVNS, Sđd, tr. 151-172. [3] C. Hackenesch: Một Chú giải cho “BKT” (1830) của Hegel / Hegels “Enzyklopädie” (1830, Ein Kommentar zum Systemgrundriß, cùng với nhiều tác giả khác, Suhrkamp, Frankfurt / M, 2000, tr. 98-99. [4] Michael Theunissen: Tồn tại và Vẻ ngoài. Chức năng phê phán của Lôgíc học Hegel / Sein und Schein. Die kritische Funktion der Hegelschen Logik, Frankfurt / M 1980. [5] Dieter Henrich, Hegel trong văn cảnh / Hegel im Kontext, Frankfurt / M, 1971. [6] T. S. Hoffmann, Sđd, tr. 289-290.
|
Ý KIẾN BẠN ĐỌC