BÙI VĂN NAM SƠN | 3.4.1. Tiến trình biện chứng mà kết quả của nó là sự “phản tư-vào trong chính mình” của đối tượng [“Phản tư vào trong chính mình”, xem: 3.4.3], xét đơn thuần về hình thức, diễn ra tổng cộng
BÙI VĂN NAM SƠN | Tiến trình nhận thức khởi đầu từ cái khởi đầu: sự xác tín cảm tính là hình thái đầu tiên của ý thức. Ngay lúc ý thức tưởng rằng mình đang nắm chắc trong tay chân lý đích thực về một cái gì “cụ thể”, “cá biệt”, phong phú nhất
CÁC MÁC (1818-1883) | Thuần phục được đứa con thô bạo của tự nhiên như thế thật là tài tình! Dao bầu đã nêu lên bí mật sâu kín nhất của sự chuyển biến có tính phê phán của hắn, khi hắn thú thật
CÁC MÁC (1818-1883) | Trong cuộc chu du thế giới, Rô-đôn-phơ, ông hoàng Giê-rôn-stanh, đã chuộc lại được hai tội ác: tội ác của cá nhân ông ta và tội ác của sự phê phán có tính phê phán. Trong cuộc cãi nhau kịch liệt với bố, ông đã vung gươm lên
J. P. Charrier | Trước Freud những nhà tâm lý thường đồng hóa đời sống tâm linh với đời sống ý thức. Họ nghĩ rằng tất cả những hiện tượng tâm linh đều ý thức Descartes chẳng hạn, đã đồng hoá cái “Tôi” với một “vật suy tưởng”,
BÙI VĂN NAM SƠN | Hình thái cái biết đầu tiên hay đối tượng khởi điểm cho việc nghiên cứu hiện tượng học của chúng ta không thể là gì khác hơn ngoài loại cái biết trực tiếp một cách tuyệt đối. Đó là cái biết một cách trực tiếp, về cái trực tiếp, tức về cái “đang có đó”.
TRỊNH XUÂN NGẠN | Cuốn Gorgias còn có tiểu đề là: « Bàn về Tu từ pháp ». Tuy nhiên, không nên lầm tưởng rằng trong cuốn sách này, Platon khảo về nghệ thuật viết, nói hay sáng tác, như là trong cuốn Phèdre chẳng hạn. Ở đây, tác giả bàn về Tu từ pháp
CÁC MÁC (1818-1883) | Sự phê phán có tính phê phán không thể tự mô tả thành mặt đối lập bản chất và do đó đồng thời cũng không thể tự mô tả thành đối tượng bản chất của loài người có tính quần chúng
CÁC MÁC (1818-1883) | Quan hệ căng thẳng giữa quần chúng và sự phê phán chỉ biểu hiện ở anh ta dưới hình thức mục ca. Cả hai cực của sự đối lập có tính lịch sử toàn thế giới giữ mối quan hệ thiện ý và lịch sử, do đó rất công khai.
PH. ĂNG-GHEN (1820-1895) | Sự phê phán của người Pháp và người Anh không phải là thứ nhân cách trừu tượng, ở thế giới bên kia, đứng ngoài nhân loại, nó là hoạt động thực sự có tính người của những cá nhân, thành viên tích cực của xã hội, biết đau khổ
PH. ĂNG-GHEN (1820-1895) | Giai cấp tư sản mà tôi nói trong chương này bao gồm cả cái gọi là tầng lớp quý tộc bởi vì nó là giai cấp có đặc quyền, một tầng lớp quý tộc so với giai cấp tư sản chứ không phải so với giai cấp vô sản.
PH. ĂNG-GHEN (1820-1895) | Trong phần "Lời mở đầu" chúng ta đã thấy tầng lớp tiểu nông cũng bị phá sản đồng thời với giai cấp tiểu tư sản và những người lao động trước kia vẫn sống dễ chịu, bởi vì sự kết hợp tồn tại trước kia
CÁC MÁC (1818-1883) | Trái tim khắc nhiệt, tính sắt đá và sự không tin mù quáng của quần chúng có một đại biểu kiên định hơn. Vị đại biểu này nói về "sự giáo dục triết học Hê-ghen thuần tuý của nhóm Béc-lin".
PH. ĂNG-GHEN (1820-1895) | Bây giờ, chúng ta hãy nghiên cứu những hậu quả tai hại mà phương pháp khai thác mỏ hiện nay đã tạo nên, rồi độc giả sẽ phán đoán xem có thể có tiền lương nào đền bù được những nỗi khốn khổ mà công nhân phải chịu đựng.
TRỊNH XUÂN NGẠN | Cuốn “Phédon”, như ta thấy, không phải cuộc đối thoại trực tiếp như là cuốn “Gorgias” hay là cuốn “Ménon”. Cuốn “Phedon” là một câu chuyện thuật lại cuộc đàm thoại cuối cùng của Socrate với các tín đồ của ông ngày mà ông uống độc cần tự tử; câu chuyện này được lồng vào trong một cuộc đối thoại.
CÁC MÁC (1818-1883) | Sự phê phán có tính phê phán tự coi là chủ thể tuyệt đối. Chủ thể tuyệt đối cần có sự sùng bái. Sự sùng bái hiện thực đòi hỏi phải có yếu tố thứ ba, tức là những cá nhân tín ngưỡng.