Giăng Phơ-Rê-Vin. Mác, Ăng-ghen, Lê-Nin và văn học nghệ thuật. Xuân Tửu, Trần Hữu Thung dịch | Mác đi theo con đường tìm tòi lý luận : vừa bẻ gẫy cơ sở của học thuyết Hê-ghen, ông còn dành chỗ đứng hàng đầu cho triết học trong một thời gian
ĐỖ VĂN KHANG | Truyền thống nổi bật của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại là ngợi ca con người và thế giới tự nhiên. Đó cũng chính là sự biểu hiện quan niệm về cái đẹp mà người Hy Lạp hướng tới.
GEORG WILHELM FRIEDRICH HEGEL (1770-1831) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Sự tập hợp của những Tinh thần quốc gia-dân tộc hình thành nên một vòng tròn của những hình thái
DAVID E.W. FENNER | Lê Thị Thanh Loan dịch || Trong quá trình tạo lập các lý thuyết về thái độ thẩm mỹ, sự không quan tâm (disinterest) nổi bật lên như là một ứng viên chiếm nhiều ưu thế nhất cho việc xác định thái độ thẩm mỹ là gì.
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch || Năng lực phán đoán xác định, tự nó, không có các nguyên tắc làm cơ sở cho các khái niệm về những đối tượng. Năng lực ấy không có sự tự trị, vì nó chỉ thâu gồm dưới các định luật hay các khái niệm đã cho,
BÙI VĂN NAM SƠN || Châm ngôn thứ nhất của năng lực phán đoán là mệnh đề: mọi việc tạo ra những sự vật vật chất và những hình thức của chúng là chỉ có thể có được dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới.
BÙI VĂN NAM SƠN || Để dễ hiểu phần này, ta nên nhớ lại phần Phân tích pháp về cái đẹp trước đây, nhất là ở tiết 3 về phương diện tương quan với các mục đích. Ở đó, Kant đã giới thiệu khái niệm về mục đích và về tính hợp mục đích cùng với
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Mọi hình thể hình học được vẽ ra theo một nguyên tắc cho thấy một tính hợp mục đích khách quan đa dạng và thường được thán phục về tính khả dụng
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Dựa theo các nguyên tắc tiên nghiệm, ta có lý do chính đáng để giả định một tính hợp mục đích chủ quan ở trong giới Tự nhiên nơi những quy luật đặc thù của nó nhằm
BÙI VĂN NAM SƠN || Kant hiểu “Biện chứng pháp” là sự xung đột giữa các phán đoán có yêu sách về tính phổ biến tiên nghiệm. Anh A muốn đi uống bia, anh B muốn đi xem phim, sự bất đồng này không đủ để tạo nên một sự xung đột hay nghịch lý
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || sự Phê phán siêu nghiệm về sở thích chỉ bao gồm một bộ phận có thể mang tên là một biện chứng pháp của năng lực phán đoán thẩm mỹ là trong chừng mực tìm thấy được
BÙI VĂN NAM SƠN | Đúng theo tinh thần của chữ “Phê phán” (Kritik) trong tiếng Đức bắt nguồn từ gốc Hy Lạp “krinein” là “biện biệt, phân biệt”, Kant lại làm công việc đầu tiên của lý luận nghệ thuật là phân biệt khái niệm này với các khái niệm khác
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Nghệ thuật khác với Tự nhiên giống như việc tạo tác khác với việc vận hành hay tác động nói chung; và sản phẩm hay kết quả của nghệ thuật và của Tự nhiên khác nhau như giữa
BÙI VĂN NAM SƠN || “Phân tích pháp”, như đã biết, làm công việc “tháo rời” các hình thức phán đoán ra thành những phương diện hay những yếu tố cấu thành. Do đó, hai phần Phân tích pháp trước đây đã cho thấy các phán đoán về
IMMANUEL KANT (1724-1804) | BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải || Yêu sách của một phán đoán thẩm mỹ về tính giá trị phổ biến đối với mọi chủ thể – với tư cách là một phán đoán dựa vào một nguyên tắc tiên nghiệm nào đó
BÙI VĂN NAM SƠN | Theo Kant, khái niệm về cái cao cả không phải là khái niệm bộ phận của cái đẹp mà là một phạm trù thẩm mỹ độc lập. Vì thế, ông dành cho cái cao cả một phần nghiên cứu riêng trong Phân tích pháp.